Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Địa chất: Đặc điểm quặng hóa vàng vùng Đak Rông - A Lưới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.87 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
-----Y{Z-----

NGUYỄN TIẾN THÀNH

ĐẶC ĐIỂM QUẶNG HOÁ VÀNG
VÙNG ĐAK RÔNG – A LƯỚI

Chuyên ngành: Khoáng sản học
Mã số: 62.44.59.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT

HÀ NỘI, 2010

1

2


Các công trình khoa học đã công bố

Công trình được hoàn thành tại Bộ môn Khoáng sản,
Khoa Địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
----------------------

có liên quan đến nội dung luận án
---------------------1. Nguyễn Tiến Thành (2000), “Đặc điểm khoáng hoá vàng trường
quặng A Pey – A Dang”, Tóm tắt Hội nghị khoa học Địa chất
– Khoáng sản năm 2000, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt
Nam, tr. 39.



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Quang Luật, Trường Đại học Mỏ-Địa chất
2. TS. Trần Đình Sâm, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam

2. Nguyễn Tiến Thành (2002), “Đặc điểm khoáng hoá vàng trường
quặng A Pey – A Dang”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa
học lần thứ 15, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Q2, tr. 264 –
270.
3. Nguyễn Tiến Thành (2005), “Cấu trúc địa chất và đặc điểm khoáng

Phản biện 1: PGS.TSKH Phan Văn Quýnh,
Tổng Hội Địa chất Việt Nam
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Văn Vượng,
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội
Phản biện 3: TS Đinh Hữu Minh,
Công ty TNHH mỏ Nicken Bản Phúc

hoá vàng vùng Đak Rông - A Lưới”, Tuyển tập báo cáo Hội
nghị khoa học năm 2005, Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ,
tr. 30 – 42.
4. Nguyễn Tiến Thành, Nguyễn Quang Luật (2006), “Đặc điểm các
thành tạo magma vùng Đak Rông -A Lưới và khoáng hoá liên
quan”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học lần thứ 17,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Q2, tr. 231 – 238.
5. Nguyễn Tiến Thành (2007), “Đặc điểm các thành tạo magma vùng
Đak Rông - A Lưới và khoáng hoá vàng liên quan”, Tạp chí

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường

Họp tại Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Đông Ngạc - Từ Liêm - Hà Nội
Vào hồi 8 giờ 30 phút, ngày 26 tháng 8 năm 2010

Khoa học kỹ thuật Mỏ - Địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa
chất, số 16, tr. 34 – 41.
6. Nguyễn Tiến Thành (2009), “Các yếu tố địa chất khống chế quặng
hoá vàng vùng Đak Rông - A Lưới”, Tạp chí Khoa học kỹ
thuật Mỏ - Địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, số 27, tr.
52 – 59.

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Hà Nội
hoặc Thư viện Trường Đại học Mỏ - Địa chất

3

4


1

2

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Vùng Đak Rông – A Lưới nằm về phía tây tỉnh Quảng Trị và
tỉnh Thừa Thiên Huế, là vùng có cấu trúc địa chất rất phức tạp và biểu
hiện khoáng sản vàng phong phú. Kết quả điều tra, đánh giá khoáng
sản trong những năm gần đây đã phát hiện được hơn 20 mỏ khoáng,
điểm quặng vàng quy mô khác nhau phân bố trong đá lục nguyên xen

phun trào mafic bị biến chất tướng đá phiến lục tuổi Proterozoi –
Cambri; đã dự báo được tiềm năng toàn vùng đạt hơn 30 tấn vàng,
trong đó một số khu vực đã thăm dò, khai thác. Tuy nhiên, hiện nay
mức độ nghiên cứu về thành phần vật chất, nguồn gốc và điều kiện
thành tạo quặng vàng trong vùng còn rất sơ lược, chưa làm sáng tỏ bản
chất kiểu quặng vàng phân bố trong đá biến chất tướng phiến lục, là
kiểu quặng đặc trưng và có ý nghĩa công nghiệp trong vùng Đak Rông
– A Lưới, do vậy chưa đủ cơ sở khoa học để xác lập các tiền đề, dấu
hiệu tìm kiếm cho công tác điều tra, thăm dò vàng trong vùng.
Đề tài “Đặc điểm quặng hoá vàng vùng Đak Rông – A
Lưới” được đặt ra nhằm giải quyết những yêu cầu cấp bách của thực tế
khách quan nêu trên.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài là xác lập các yếu tố
khống chế quặng hoá vàng trong vùng Đak Rông – A Lưới, định hướng
cho công tác tìm kiếm, thăm dò vàng tiếp theo trong vùng, đồng thời
bổ sung cơ sở lý luận về quá trình tạo khoáng vàng trong các thành tạo
đá biến chất ở Việt Nam.
Mục đích của luận án.
Luận án có mục đích làm sáng tỏ đặc điểm thành phần vật chất
và các yếu tố khống chế quặng hoá vàng trong vùng Đak Rông – A
Lưới; xác định các tiền đề, dấu hiệu tìm kiếm, tạo cơ sở khoa học xác
lập phương hướng tìm kiếm, thăm dò vàng trong vùng.

Nhiệm vụ của luận án
- Thu thập có chọn lọc, hệ thống hoá và tổng hợp các dạng tài
liệu đã có về địa chất và khoáng sản trong vùng nghiên cứu.
- Nghiên cứu thành phần vật chất và xác lập các kiểu quặng
vàng. Xác định điều kiện địa chất và hoá - lý thành tạo, nguồn gốc
quặng vàng.
- Làm rõ quy luật phân bố, xác định các yếu tố khống chế và

các tiền đề, dấu hiệu tìm kiếm; đánh giá triển vọng quặng vàng trong
vùng nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu
Luận án được tổng hợp và xây dựng trên cơ sở kết quả của các
phương pháp nghiên cứu truyền thống kết hợp phương pháp nghiên
cứu hiện đại, gồm: Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu, tổ hợp
phương pháp nghiên cứu tại thực địa, tổ hợp các phương pháp phân
tích, phương pháp nghiên cứu thành phần vật chất của đá và quặng,
phương pháp địa hoá, phương pháp địa vật lý, phương pháp tin học và
hệ phương pháp phân tích, xử lý, tổng hợp tài liệu.
Những điểm mới có ý nghĩa khoa học của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đã đưa ra được một số vấn đề
mới có ý nghĩa khoa học quan trọng như:
- Lần đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và làm rõ quy luật phân
bố, thành phần vật chất của quặng vàng, cũng như dạng tồn tại của
vàng và các khoáng vật chứa vàng; phân chia có cơ sở khoa học và
thực tế các kiểu quặng vàng trong vùng.
- Đã làm rõ các yếu tố khống chế quặng vàng trong vùng Đak
Rông - A Lưới gồm: yếu tố cấu trúc (các đứt gãy, khe nứt phương tây
bắc – đông nam và các cấu tạo sinh kèm); yếu tố magma (đá phun trào
mafic trong hệ tầng Núi Vú bị biến chất tướng phiến lục và xâm nhập
phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn); yếu tố thạch học địa tầng (đá trầm tích
biến chất hệ tầng Núi Vú, hệ tầng A Vương) và yếu tố biến chất.


3

4

- Lần đầu tiên xây dựng mô hình tạo quặng vàng cho vùng Đak

Rông - A Lưới, làm cơ sở khoa học cho việc chẩn đoán quặng hoá vàng
ở dưới sâu.
- Phân chia các diện tích triển vọng quặng vàng trên cơ sở khoa
học và thực tế tin cậy.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Đã làm sáng tỏ thành phần vật chất và xác định các yếu tố
khống chế quặng vàng, cũng như các tiền đề, dấu hiệu tìm kiếm khoáng
sản vàng trong vùng nghiên cứu và những vùng có cấu trúc địa chất
tương tự ở Việt Nam.
- Góp phần làm rõ quy luật phân bố và đã khoanh định được
các diện tích có mức độ triển vọng vàng khác nhau trong vùng nghiên
cứu, tạo cơ sở khoa học giúp quy hoạch công tác điều tra, thăm dò
khoáng sản vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới và kề cận.
- Việc làm rõ thành phần vật chất của quặng vàng không chỉ
giúp tổ chức công tác tìm kiếm và đánh giá chúng đạt hiệu quả cao mà
còn góp phần giúp các nhà nghiên cứu công nghệ đề xuất được dây
chuyền hợp lý trong tuyển quặng và thu hồi vàng.
Các luận điểm bảo vệ của luận án
Luận điểm 1: Quặng hoá vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới
thuộc kiểu mỏ thạch anh – sulfur - vàng trong đá biến chất tướng phiến
lục. Hoạt động tạo khoáng diễn ra trong ba giai đoạn tương ứng với 3
kiểu quặng: Thạch anh - vàng; thạch anh - pyrit – pyrotin – vàng và
thạch anh - sulfur đakim - vàng.
Luận điểm 2: Quặng hóa vàng trong vùng Đak Rông – A Lưới
được khống chế bởi các đứt gãy phương tây bắc - đông nam. Quặng
phân bố trong các hệ thống khe nứt, đới đá dập vỡ bị biến đổi nhiệt
dịch của các thành tạo lục nguyên bị biến chất thuộc hệ tầng A Vương
và các thành tạo lục nguyên xen phun trào mafic biến chất tướng phiến
lục thuộc hệ tầng Núi Vú.


Luận điểm 3: Vùng quặng vàng Đak Rông - A Lưới được đặc
trưng bởi 3 nhóm trường quặng có cấu trúc và đặc điểm quặng hoá
riêng biệt:
- Nhóm trường quặng trong đá biến chất hệ tầng Núi Vú
(Nhâm, A Pey – A Dang), được đặc trưng bởi kiểu quặng thạch anh –
sulfur đa kim – vàng và thạch anh – pyrit – pyrotin – vàng;
- Nhóm trường quặng trong đá biến chất hệ tầng A Vương (A
Vao – Ba Ngày, Phú Vinh - Cầu Ba) được đặc trưng bởi kiểu quặng
thạch anh – pyrit – pyrotin – vàng và thạch anh – vàng;
- Nhóm trường quặng trong đới biến đổi nhiệt dịch của phức hệ
xâm nhập Bến Giằng - Quế Sơn (Tà Rẹc – Nam Làng Vây) được đặc
trưng bởi kiểu quặng thạch anh – vàng.
Cơ sở tài liệu của luận án
Luận án này được hoàn thành trên cơ sở tài liệu thực tế và kết
quả nghiên cứu thành phần vật chất quặng hoá vàng của NCS từ năm
1998 đến nay. NCS đã xử lý, tổng hợp số liệu từ hơn 350 mẫu mài
láng, 450 mẫu lát mỏng, 1.420 mẫu hấp thụ nguyên tử, 1.200 mẫu nung
luyện Au, Ag, 230 mẫu hoá Cu, 60 mẫu huỳnh quang tia X, 45 mẫu
phân tích ICP các nguyên tố hiếm, vết trong đá magma, 75 mẫu hoá
silicat, 60 mẫu microsonde, 42 mẫu bao thể. Các mẫu được phân tích
tại Trung tâm Phân tích Thí nghiệm Địa chất Hà Nội, Viện Nghiên cứu
Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt,
Trường Đại học Mỏ Địa chất.
Khối lượng và cấu trúc luận án
Luận án gồm 100 trang đánh máy vi tính, 16 sơ đồ hình vẽ, 19
biểu bảng, 29 ảnh minh hoạ và 49 tài liệu tham khảo, được trình bày
theo thứ tự các chương mục như sau:
Mở đầu
Chương 1. Đặc điểm cấu trúc địa chất vùng Đak Rông - A Lưới
Chương 2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu



5

6

Chương 3. Đặc điểm địa chất quặng hoá vàng vùng Đak Rông
- A Lưới
Chương 4. Đặc điểm thành phần vật chất quặng vàng vùng
Đak Rông - A Lưới
Chương 5. Các yếu tố khống chế và các tiền đề, dấu hiệu tìm
kiếm quặng vàng vùng Đak Rông - A Lưới
Kết luận và kiến nghị
Công trình liên quan và tài liệu tham khảo
Luận án được hoàn thành tại Bộ môn Khoáng sản, Khoa Địa
chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Nguyễn Quang Luật và TS. Trần Đình Sâm. NCS xin trân
trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình
của hai nhà khoa học.
Trong quá trình hoàn thành luận án, tác giả đã nhận được sự
quan tâm tạo điều kiện của lãnh đạo Trường Đại học Mỏ - Địa chất,
Phòng Đại học và Sau đại học, Bộ môn Khoáng sản - Khoa Địa chất Trường Đại học Mỏ - Địa chất; Lãnh đạo Cục Địa chất và Khoáng sản
Việt Nam và đặc biệt là sự tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ mọi mặt
của Lãnh đạo Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ. Tác giả cũng nhận
được sự động viên giúp đỡ, góp ý tận tình nhiều nhà khoa học khác.
NCS xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới lãnh đạo các cơ
quan và cá nhân các nhà khoa học nêu trên.

Cấu trúc địa chất của vùng trước đây được xem là cấu trúc
ranh giới giữa khối Craton Indosinia Tiền Cambri và kiến trúc uốn

nếp Trường Sơn (Hoffet, 1933; Fromaget, 1937, 1941; Postelnikov và
nnk, 1964…); sau này nhiều tác giả cho rằng vùng nghiên cứu thuộc
phần phía bắc đới Đà Nẵng – Thà Khẹt, là đới xô đụng lục địa - lục
địa (Indosinia và Âu - Á) vào Permi – Trias. Một số tác giả khác còn
xem vùng là cấu trúc đới hút chìm Hương Hoá – Ta Lu - Bạch Mã
(Nguyễn Xuân Tùng và nnk, 1992), đới khâu Thakhek – Đà Nẵng (Lê
Văn Mạnh, Nguyễn Nghiêm Minh, 1995), đới cắt trượt - biến dạng
dẻo Đà Nẵng – A Lưới – Khe Sanh (Tạ Trọng Thắng, 1995)…
Kế thừa các kết quả nghiên cứu, NCS cho rằng vùng Đak
Rông - A Lưới nằm ở phần phía bắc đới kiến tạo Đà Nẵng – Khe
Sanh, có quá trình phát triển lâu dài từ cuối Cambri đến cuối Triat.
Chúng gồm các tổ hợp thạch kiến tạo (TKT) sau:
- Tổ hợp TKT Neoproteozoi – Paleozoi hạ (NP - ε1): Bao gồm
các thành tạo lục nguyên – phun trào mafic, lục nguyên silic bị biến
chất ở tướng đá phiến lục của hệ tầng Núi Vú, A Vương và gabro
phức hệ Núi Ngọc, đặc trưng cho bối cảnh kiến tạo vỏ đại dương.
- Tổ hợp TKT Paleozoi hạ - trung (O – S): Bao gồm các thành
tạo lục nguyên dạng flish hệ tầng Long Đại và các thành tạo xâm nhập
phức hệ Đại Lộc bị ép phiến dạng gneis phân bố dọc theo đứt gãy Đak
Rông – A Lưới.
- Tổ hợp TKT Paleozoi Thượng – Mesozoi hạ (P - T): gồm lục
nguyên xen phun trào andesit hệ tầng A Lin, xâm nhập phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn, đặc trưng cho bối cảnh kiến tạo cung núi lửa.
- Tổ hợp TKT Mesozoi thượng (MZ2): Đặc trưng bởi trầm tích
lục nguyên vụn thô màu đỏ tướng ven bờ, vũng vịnh của hệ tầng A
Ngo, không liên quan đến quá trình tạo khoáng vàng trong vùng.
- Tổ hợp TKT Kainozoi (KZ): gồm các thành tạo Đệ tứ phân
bố dọc các thũng lũng sông suối.

NỘI DUNG LUẬN ÁN

Chương 1. Đặc điểm cấu trúc địa chất vùng Đak Rông - A Lưới
1.1. Vị trí vùng nghiên cứu trong bình đồ cấu trúc khu vực
Vùng Đak Rông - A Lưới nằm phía tây nam đứt gãy sâu Đak
Rông - A Lưới, thuộc rìa tây bắc đới sinh khoáng A Vương, kéo dài
theo phương tây bắc – đông nam hơn 150 km, với chiều rộng từ 10 –
20 km (hình 1.1).



7

8

Về cấu trúc, vùng Đak Rông - A Lưới là một phức nếp lồi lớn
phương tây bắc – đông nam bị hệ thống đứt gãy sâu Đak Rông - A
Lưới phá hủy dọc trục làm mất hẳn cánh đông bắc, chỉ còn tồn tại
cánh tây nam không nguyên vẹn. Ở phần nhân phức nếp lồi phân bố
các đá hệ tầng Núi Vú, các khối xâm nhập phức hệ Núi Ngọc. Ra xa
phía cánh tây phân bố các đá hệ tầng A Vươ `ng, nhiều nơi bị phủ bởi
trầm tích hệ tầng A Ngo, trầm tích xen phun trào hệ tầng A Lin và bị
các khối nhỏ xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn xuyên cắt. Các
đá bị biến vị, vò uốn mạnh mẽ và phát triển nhiều hệ thống đứt gãy,
khe nứt cùng phương đứt gãy chính (đứt gãy Đak Rông - A Lưới).
1.2. Lịch sử nghiên cứu địa chất và khoáng sản
1. Giai đoạn trước năm 1954: Chủ yếu có các công trình của
các nhà địa chất Pháp ở tỷ lệ nhỏ và sơ lược.
2. Giai đoạn sau năm 1954
Vùng nghiên cứu đã được đo vẽ bản đồ địa chất khoáng sản
tỷ lệ 1:500.000, 1:200.000 và đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm
khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 trong các nhóm tờ: Hướng Hoá (Vũ Mạnh

Điển, 1997), Huế (Phạm Huy Thông, 1997), Nam Đông (Vũ Mạnh
Điển, 1993). Một số diện tích triển vọng khoáng sản đã được điều tra,
đánh giá trong các công trình: Đánh giá quặng vàng Ba Tưng – Tà
Lao, Quảng Trị (Mai Văn Hác, 2003); Đánh giá vàng gốc vùng A Vao
– A Pey, tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên Huế (Nguyễn Tiến Thành,
2003); Đánh giá khoáng sản vàng vùng Nhâm, A Lưới, Thừa Thiên
Huế (Nguyễn Hữu Bốn, 2005); Đánh giá triển vọng quặng đồng vùng
Tà Rẹc, huyện Đak Rông, tỉnh Quảng Trị (Mai Văn Hác, 2006).
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu chuyên đề khác.
Nhìn chung mức độ nghiên cứu về cấu trúc địa chất của vùng
và điều tra phát hiện các biểu hiện khoáng sản vàng khá tốt, nhưng
việc đi sâu nghiên cứu về thành phần vật chất quặng, điều kiện thành
tạo, đặc điểm phân bố… của chúng còn sơ lược.

1.3. Khái quát về địa tầng
Các thành tạo trầm tích, trầm tích – biến chất trong vùng Đak
Rông - A Lưới thuộc các hệ tầng: Núi Vú (NP-ε1nv), A Vương (ε2O1av), Long Đại (O2 –S2lđ), Tân Lâm (D1tl), Cù Bai (D2gv – C1t cb),
A Lin (P (?)al), A Ngo (J1-2an) và hệ Đệ tứ (Q), trong đó hệ tầng Núi
Vú, A Vương là thành tạo địa chất chứa quặng chính trong vùng.
Hệ tầng Núi Vú phân bố ở Nhâm, A Pey và A Dang, có thành
phần là trầm tích lục nguyên xen phun trào mafic bị biến chất tướng
đá phiến lục. Đá phun trào của hệ tầng có chứa Au với hàm lượng từ 5
– 17 ppb, bị biến chất tướng phiến lục, biến đổi nhiệt dịch propylit
hoá, tạo điều kiện để vàng giải phóng khỏi đá ban đầu và tái tập trung
trong những cấu trúc thuận lợi hình thành các đới khoáng hoá vàng.
Hệ tầng A Vương phân bố ở Tà Rẹc, A Vao, Nhâm và Bốt
Đỏ, thành phần gồm trầm tích lục nguyên biến chất tướng đá phiến
lục, đôi nơi đá có dạng gneis và biến chất tướng epidot-amphibolit.
Đá của hệ tầng bị biến đổi nhiệt dịch thạch anh hoá, sericit hoá mạnh,
đồng thời phát triển các đới khe nứt theo mặt phiến của đá, tạo điều

kiện thuận lợi cho tạo khoáng vàng.
1.4. Khái quát về hoạt động magma xâm nhập
Các thành tạo xâm nhập trong vùng nghiên cứu có diện lộ
không lớn nhưng thành phần phức tạp, thuộc các phức hệ: Núi Ngọc
(Gb/NP-ε1nn), Đại Lộc (G/S4 - D1đl), Bến Giằng - Quế Sơn (Di,G/P2-3
bq) và đai mạch chưa rõ tuổi, trong đó phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn
có liên quan khoáng hoá vàng.
Phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn gồm các thể nhỏ thuộc loạt xâm
nhập phân dị từ gabrodiorit – diorit – granodiorit đến granit, lộ ở Nhâm,
A Pey và một số khối khá lớn ở Tà Rẹc, trong đó đá pha 2 (diorit,
granodiorit) và pha 3 (granit biotit) chiếm tỷ lệ chủ yếu. Phức hệ thuộc
loạt kiềm vôi (CA), kiểu I granit, hình thành trong bối cảnh kiến tạo rìa
lục địa tích cực. Các nguyên tố Ti, V, Cr, As, Se, Pb, Zn, Cu vượt cao


9

10

hơn trị số Clack từ 3 đến trên 20 lần, Rb, Zr, Th, Mo có giá trị thấp hơn
Clack.
Xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn xuyên cắt và gây
sừng hoá nhẹ đá biến chất hệ tầng Núi Vú, hệ tầng A Vương, đôi nơi
trong đới nội tiếp xúc có các hệ mạch thạch anh chứa vàng.
1.5. Khái quát về đặc điểm cấu trúc kiến tạo
Vùng Đak Rông - A Lưới chịu tác động mạnh mẽ của đới đứt
gãy sâu Đakrông – A Lưới, nên cấu trúc của vùng hầu như bị phai mờ
bởi quá trình xiết ép, cắt xén của hệ thống phá huỷ phương tây bắc đông nam.
- Hoạt động đứt gẫy: Có 3 hệ thống đứt gẫy chính: tây bắc đông nam, kinh tuyến và đông bắc– tây nam, trong đó hệ thống tây
bắc - đông nam là đứt gãy kéo theo của đứt gãy sâu Đakrong- A Lưới.

Chúng phát triển mạnh mẽ, qui mô lớn và có vai trò khống chế quặng,
các hệ thống đứt gẫy còn lại hình thành sau quặng, xuyên cắt và gây
dịch chuyển thân quặng.
- Hoạt động uốn nếp: Phát triển mạnh mẽ trên các đá hệ tầng
Núi Vú, A Vương, tạo hàng loạt nếp lồi, nếp lõm khá dốc phương tây
bắc - đông nam xen kẽ nhau. Trên cánh các nếp uốn lớn như nếp lồi
Nhâm, nếp lõm A Pỷ, nếp lồi A Luông phát triển nhiều nếp uốn kéo
theo và các đới khe nứt chứa các mạnh thạch anh - sulfur - vàng.

kcal/mol. Vàng thuộc phụ nhóm IB (kim loại chuyển tiếp), có sơ đồ
cấu trúc điện tử dạng [Xe] 4f 145d106S1. Hiện đã biết 14 nguyên tố
đồng vị của vàng với số khối lượng từ 192-206, nhưng chỉ có 197Au là
bền vững và ổn định trong tự nhiên. Trị số Clack của vàng trong vỏ
Trái Đất là 4.10-3 ppm.
Trong các đá magma xâm nhập, Au có xu thế tập trung cao
hơn trong đá nhóm trung tính (diorit, granodiorit) và giảm dần trong đá
axit và đá mafic. Trong cùng một phức hệ có nhiều pha, các đá granit
thường chứa vàng kém hơn từ 2 – 4 lần so với đá pha đầu (granodiorit,
diorit). Các pha đá mạch (quarzitic porphyr, granit porphyr, aplit)
thường chứa vàng xấp xỉ pha đá mẹ, nhưng cũng có trường hợp hàm
lượng Au trong chúng tăng cao hơn, nhất là khi đá mạch có các biến
đổi albitit, greizen.
2.1.2. Đặc điểm khoáng vật học của vàng
Hiện nay đã biết hơn 40 khoáng vật, ngoài ra, còn một số các
hợp chất kim loại mới, các oxyt và các sulfur chứa vàng.
Trong quặng, vàng tồn tại ở dạng tự sinh là chính, vàng thường
vi tán trong thạch anh và các sulfur kim loại, dưới dạng hạt, màng
mỏng, sợi, dạng cành cây, rất ít khi gặp được ở dạng tinh thể hoàn
chỉnh. Vàng tự sinh kết tinh ở hệ lập phương có dạng đối xứng
3L44L36L29PC; mạng cơ sở có thông số a = 4,069.10-1 nm.

Vàng phân bố rất không đồng đều trong không gian và thời
gian. Ở mỗi quá trình khoáng hóa thường có một vài giai đoạn tích tụ
giầu vàng - đó là những giai đoạn tạo quặng sản phẩm. Trong mỗi
kiểu nguồn gốc cũng như trong từng giai đoạn của quá trình tạo mỏ,
vàng thường có những nét đặc thù phản ánh điều kiện thành tạo của
nó, như: hình dạng, kích thước, thành phần hóa học của vàng...
2.2. Các khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận án
Kiểu mỏ: Các mỏ được xếp vào cùng một kiểu được hiểu là
các mỏ có đặc điểm tương tự nhau về thành phần khoáng vật,

Chương 2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu sinh khoáng hiện đại được
NCS sử dụng theo học thuyết kiến tạo mảng.
2.1. Đặc điểm địa hóa và khoáng vật học của vàng
2.1.1. Đặc điểm địa hoá của vàng
Vàng thuộc nhóm kim loại quí, tỷ trọng 19,302g/cm3, độ cứng
theo thang Mosh từ 2,5 – 3, nhiệt độ nóng chảy 1.064oC, nhiệt độ sôi
2960oC, nhiệt lượng thăng hoa của vàng ở nhiệt độ 298o là 87,7


11

12

nguồn gốc và điều kiện địa động lực thành tạo.
Kiểu quặng: Một kiểu mỏ có thể có một hoặc nhiều giai
đoạn tạo khoáng ứng với các tổ hợp cộng sinh khoáng vật khác
nhau, chúng tạo nên các kiểu quặng đặc trưng cho từng giai đoạn.
Tổ hợp khoáng vật: là tập hợp các khoáng vật được hình
thành trong quá trình tạo khoáng nhất định.

Tổ hợp cộng sinh khoáng vật: là tập hợp các khoáng vật
phân bố cùng nhau, được hình thành trong một giai đoạn tạo
khoáng ứng với một điều kiện hoá - lý nhất định.
2.3. Phân loại các kiểu mỏ vàng trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới việc nghiên cứu phân loại các mỏ vàng đã được
các nhà địa chất tiến hành từ rất lâu. Các tác giả thường dựa vào điều
kiện địa chất thành tạo, đặc điểm địa hoá - khoáng vật, nguồn gốc và
môi trường tạo quặng để chia thành các nhóm mỏ, kiểu mỏ khác nhau.
Ở Việt Nam đã có nhiều tác giả nghiên cứu, phân chia các mỏ
vàng. Phần lớn dựa đặc điểm chung về thành phần khoáng vật, biến
đổi vây quanh quặng, mối quan hệ nguồn gốc và không gian với các
đá magma…, để phân chia thành các thành hệ quặng, kiểu thành hệ
quặng. Gần đây, một số tác giả dựa trên thành phần khoáng vật, kiểu
nguồn gốc và điều kiện địa động lực thành tạo để phân chia thành các
kiểu mỏ, kiểu quặng.
Trong luận án này, NCS sử dụng phương pháp phân loại các
mỏ vàng dựa trên 3 cơ sở: thành phần khoáng vật, điều kiện địa chất
thành tạo và kiểu nguồn gốc để nghiên cứu, phân chia các mỏ khoáng,
điểm quặng vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới.

- A Dang, Nhâm, Phú Vinh - Cầu Ba, A Vao – Ba Ngày và Tà Rẹc –
Nam Làng Vây.
Đặc điểm chung của các thân quặng là phân bố chủ yếu trong
trầm tích lục nguyên xen phun trào mafic bị biến chất tướng đá phiến
lục của hệ tầng Núi Vú, ít hơn trong trầm tích lục nguyên biến chất
tướng đá phiến lục của hệ tầng A Vương hoặc ở đới đá biến đổi nằm
gần ranh giới tiếp xúc với đá vây quanh của xâm nhập phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn. Các thân quặng là các mạch, hệ mạch thạch anh
sulfur chứa vàng lấp đầy các khe nứt trong đá vây quanh, được khống
chế chặt chẽ bởi các đứt gãy, khe nứt phương tây bắc – đông nam.

3.1. Đặc điểm phân bố các thân quặng
3.1.1. Trường quặng vàng A Pey – A Dang
Các đới khoáng hoá vàng của trường quặng phân bố trong đá
hệ tầng Núi Vú, được khống chế bởi các đới đứt gãy, khe nứt tách
phương tây bắc – đông nam. Thân quặng vàng là tập hợp các mạch, vi
mạch thạch anh sulfur chứa vàng lấp đầy các khe nứt tách phát triển
theo mặt phiến của đá. Đá vây quanh quặng bị biến đổi nhiệt dịch
propylit hoá, thạch anh hoá và sericit hoá mạnh. Tổ hợp cộng sinh
khoáng vật chính gồm: thạch anh – pyrit – pyrotin – vàng; thạch anh –
sulfur đa kim – vàng. Hàm lượng vàng trong các thân quặng từ 1,1 –
33,4 g/T. Trong trường quặng đã đánh giá được các mỏ khoáng, điểm
quặng: A Pey, A Dang, La Sam, Làng Hu, có tổng tài nguyên dự báo
hơn 12.000 kg vàng, trong đó mỏ khoáng A Pey triển vọng nhất.
3.1.2. Trường quặng vàng Nhâm
Trường quặng vàng Nhâm được khống chế bởi ba đứt gãy tạo
thành một “tam giác”, là nơi các đá đổi phương cấu trúc dạng tuyến
tây bắc - đông nam sang phương á vĩ tuyến. Phần giữa trường quặng
phát triển trầm tích hệ tầng Núi Vú, bao quanh là trầm tích hệ tầng A
Vương. Các đá bị dập vỡ, vò uốn và biến đổi nhiệt dịch mạnh, phát
triển nhiều hệ thống khe nứt tách có vi mạch thạch anh lấp đầy.

Chương 3. Đặc điểm địa chất quặng hoá vàng vùng Đak
Rông - A Lưới
Trong vùng Đak Rông - A Lưới đã phát hiện được hơn 20 mỏ
khoáng, điểm quặng vàng phân bố tạo thành các trường quặng: A Pey


13

14


Trong trường quặng đã đánh giá được mỏ khoáng A Du, các
điểm quặng Nhâm, Tia Ria, Tam Moi, với hơn 25 thân quặng vàng
quy mô khác nhau. Các thân quặng là mạch, đới vi mạch thạch anh
sulfur chứa vàng phân bố trong các khe nứt, đới dập vỡ của hệ tầng
Núi Vú. Tổ hợp cộng sinh khoáng vật gồm: thạch anh – pyrit –
pyrotin – vàng. Hàm lượng vàng trong các thân quặng từ 1,3 – 12,7
g/T. Tài nguyên dự báo cho các điểm quặng đã đánh giá hơn 3.200
kg vàng.
3.1.3. Trường quặng vàng A Vao – Ba Ngày
Các thân quặng vàng là mạch, đới vi mạch thạch anh chứa
vàng lấp đầy các khe nứt tách phương kinh tuyến phát triển trong tập
đá phiến thạch anh – biotit – sericit phân phiến mỏng của hệ tầng A
Vương, cấu trúc khống chế là đứt gãy phương kinh tuyến và các khe
nứt sinh kèm. Đá vây quanh bị biến đổi thạch anh hoá, sericit hoá. Tổ
hợp cộng sinh khoáng vật quặng: thạch anh – vàng, thạch anh – pyrit
– pyrotin – vàng. Hàm lượng vàng trung bình của các thân quặng từ
1,13 – 11,2 g/T; tài nguyên dự báo hơn 2.500 kg vàng.
Trong trường quặng đã điều tra được các điểm quặng: A Vao,
Ba Ngày, Pa Ling, trong đó điểm quặng A Vao có triển vọng hơn.
3.1.4. Trường quặng vàng Tà Rẹc – Nam Làng Vây
Trường quặng có hơn 60% diện tích là diện lộ pha 2
(granodiorit) của phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn, còn trầm tích biến
chất hệ tầng A Vương có diện phân bố hạn chế. Đứt gãy khống chế
trường quặng là hệ đứt gãy phương tây bắc – đông nam và đứt gãy
kinh tuyến. Nơi giao nhau của 2 hệ thống trên trong đới đá biến đổi
của xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn thường tạo các cấu trúc
thuận lợi cho tạo quặng.
Thân quặng dạng ổ, thấu kính, mạch phân nhánh nằm trong
đới tiếp xúc giữa granodiorit, diorit dạng porphyr và trong đá phiến

thạch anh-felspat-mica gần kề khối xâm nhập. Biểu hiện quặng vàng

trong trường quặng khá yếu ớt, chỉ gặp các mạch nhỏ thạch anh ít
sulfur chứa vàng ở khu vực Tà Rẹc, Ba Tưng…; hàm lượng vàng từ
0,5 – 2,5 g/T. Đi cùng vàng có khoáng sản đồng, một số nơi đạt hàm
lượng công nghiệp.
3.1.5. Trường quặng vàng Phú Vinh - Cầu Ba
Đới khoáng hoá vàng là hệ vi mạch thạch anh – sulfur chứa
vàng nằm trong các đới khe nứt, dập vỡ, phân bố trong các lớp đá
phiến thạch anh – sericit, đá phiến sét màu đen của hệ tầng A Vương.
Các đới khoáng hoá rộng vài mét đến hơn 15 m. Đá vây quanh bị biến
đổi thạch anh hoá, sericit hoá. Hiện trường quặng mức độ nghiên cứu
còn hạn chế, mới phát hiện được các điểm quặng: Sơn Thuỷ, Cầu Ba,
Phú Vinh, Khe Lạnh, có các thân quặng vàng hàm lượng từ 1,0 – 4,7
g/T nhưng chiều dày khá lớn, đến 6,2 m. Tài nguyên dự báo cho
trường quặng đạt khoảng 5.600 kg vàng.
3.2. Đặc điểm hình thái và cấu trúc thân quặng
Các đối tượng chứa vàng trong vùng nghiên cứu gồm:
- Mạch thạch anh hoặc hệ mạch thạch anh chứa vàng: Mạch
kích thước từ 0,7 – 3m hoặc lớn hơn, phân bố độc lập hoặc tạo hệ
mạch. Các mạch có góc dốc thoải, hình thái thay đổi rất phức tạp.
- Đới vi mạch thạch anh sulfur chứa vàng: Tập hợp mạch
nhỏ, vi mạch thạch anh sulfur có bề rộng từ vài mm đến 20cm, dài từ
0,3 – vài mét, phát triển tập trung thành đới rộng từ 1 – 6 m, phân bố
gần kề hoặc xuyên cắt các mạch thạch anh dạng mạch.
- Đá biến đổi nhiệt dịch chứa vàng: Là đá biến đổi nằm xen
kẽ hoặc xung quanh các vi mạch thạch anh, có thành phần là đá phiến
plagioclas - amphibol – biotit – epidot (có nguồn gốc ban đầu là đá
phun trào mafic) bị thạch anh hoá, sericit hoá.
Hình thái thân quặng trong vùng nghiên cứu có 2 kiểu chính:

a. Thân quặng dạng mạch: Có cấu tạo là các mạch thạch anh
chứa rất ít sulfur, chiều dày từ 0,5 đến 5 m, kéo dài hàng chục đến


15

16

hàng trăm mét. Thân quặng dạng mạch khá phổ biến ở điểm quặng A
Vao, Ba Ngày… và đặc trưng cho kiểu quặng thạch anh - vàng.
b. Thân quặng dạng đới mạch: Là tập hợp các vi mạch, mạch
nhỏ thạch anh chứa sulfur phát triển tập trung thành đới rộng 0,5 – 5
m, có khi đạt 15 m và đá biến đổi nằm giữa các vi mạch thạch anh.
Thân quặng dạng đới mạch là loại hình thân quặng công nghiệp chủ
yếu và phổ biến ở hầu hết các mỏ khoáng, điểm quặng vàng trong
vùng Đak Rông - A Lưới, đặc trưng cho kiểu quặng thạch anh – pyrit
– pyrotin – vàng và thạch anh – sulfur đa kim - vàng.
3.3. Đặc điểm biến đổi nhiệt dịch vây quanh quặng
- Propylit hóa: Phát triển trong đá phun trào mafic xen kẹp
trong hệ tầng Núi Vú và đá phun trào hệ tầng A Lin, tạo các đới
propylit hóa rộng 20 ÷ 50 mét, dài 300 ÷ 1.500 mét, có liên quan các
đới khoáng hoá vàng ở khu vực A Pey, Nhâm, A Dang. Tổ hợp
khoáng vật đặc trưng: actinolit + epidot-zoisit + thạch anh + chlorit và
khoáng vật sulfur, thuộc vào kiểu propylit phân đới từ nhiệt độ cao
tướng epidot-actinolit đến nhiệt độ thấp tướng epidot-chlorit.
- Berezit hóa: Trong đới tiếp xúc của xâm nhập phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn có quá trình berezit hoá, tạo các đới đá biến đổi sáng
màu rộng 3 ÷ 30 m đi cùng các thân quặng vàng. Tổ hợp khoáng vật
mới gồm thạch anh + sericit + ankerit và khoáng hoá sulfur.
- Thạch anh hoá, sericit hoá: Xảy ra mạnh mẽ trên các đá

biến chất hệ tầng Núi Vú, hệ tầng A Vương, tạo các đới đá biến đổi
sáng màu gắn bó chặt chẽ với các thân quặng vàng. Tổ hợp khoáng
vật mới gồm thạch anh + sericit + muscovit và khoáng hoá sulfur.
Ngoài các hiện tượng trên, trong vùng nghiên cứu còn các quá
trình biến đổi nhiệt dịch riêng rẽ khác như: albit hóa, calcit hoá….
Chúng được mô tả chi tiết trong luận án.

Chương 4. Đặc điểm thành phần vật chất quặng vàng
vùng Đak Rông - A Lưới
4.1. Phân chia các kiểu quặng vàng vùng Đak Rông-A Lưới
Kết quả nghiên cứu của luận án đã phân chia quặng vàng trong
vùng Đak Rông - A Lưới thuộc kiểu mỏ thạch anh – sulfur – vàng
trong đá biến chất tướng phiến lục, gồm 3 kiểu quặng tương ứng 3 tổ
hợp cộng sinh khoáng vật hình thành trong 3 giai đoạn tạo khoáng:
- Kiểu quặng thạch anh – vàng: Có tổ hợp khoáng vật đặc
trưng: thạch anh (97 – 99,9 %) + pyrit (0,1 – 2 %) và vàng tự sinh.
Vàng tự sinh có kích thước hạt 0,05 – 2 mm; độ tinh khiết cao, từ 965
– 990, trung bình 969. Thân quặng dạng mạch, phân bố trong đá biến
chất hệ tầng A Vương hoặc đới nội, ngoại tiếp xúc của phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn. Biến đổi nhiệt dịch đi kèm phổ biến berezit hoá,
thạch anh hoá. Điểm quặng điển hình là Tà Rẹc, Ba Ngày, A Vao.
- Kiểu quặng thạch anh – pyrit – pyrotin – vàng: Kiểu quặng
phổ biến và có giá trị công nghiệp nhất trong vùng Đak Rông - A
Lưới, phân bố phổ biến ở trường quặng A Pey – A Dang, Nhâm và
Phú Vinh – Cầu Ba. Tổ hợp khoáng vật quặng đặc trưng gồm: thạch
anh + pyrit + pyrotin và vàng tự sinh. Vàng tự sinh có kích thước hạt
từ 0,01 – 0,18 mm, đôi khi 0,2 mm, độ tinh khiết từ 884 – 957, trung
bình 921. Thân quặng dạng đới mạch, phân bố trong đá biến chất hệ
tầng Núi Vú và hệ tầng A Vương. Biến đổi nhiệt dịch đặc trưng đi kèm
là propylit hoá, thạch anh hoá. Điểm quặng điển hình là A Pey, A Du.

- Kiểu quặng thạch anh – sulfur đa kim – vàng: Tổ hợp
khoáng vật đặc trưng gồm: thạch anh + pyrit + galenit + sphalerit +
chalcopirit và vàng. Vàng tồn tại ở dạng electrum, có độ hạt từ 0,04 –
0,15 mm, độ tinh khiết từ 556 - 650, trung bình 592. Thân quặng dạng
đới mạch phân bố trong đá biến chất hệ tầng Núi Vú. Biến đổi nhiệt
dịch đi kèm đặc trưng là propylit hoá, calcit hoá. Điển hình cho kiểu
quặng này là điểm quặng A Dang.


17

18

4.2. Thành phần vật khoáng vật quặng
Thành phần khoáng vật quặng trong vùng nghiên cứu gồm
các khoáng vật phổ biến: pyrit, pyrotin, magnetit, chalcopyrit,
arsenopyrit, electrum và vàng tự sinh; các khoáng vật ít gặp: sphalerit,
galenit; khoáng vật mạch: thạch anh, chlorit, sericit và epidot-zoisit.
- Vàng tự sinh (Au). Đã xác định được 3 thế hệ vàng với đặc
điểm chung như sau:
+ Vàng tồn tại ở dạng khoáng vật vàng tự sinh và electrum.
+ Các khoáng vật chứa vàng và cộng sinh chặt chẽ với vàng
gồm: thạch anh, pyrit, pyrotin, chalcopyrit, galenit, sphalerit, goethit.
+ Cấu tạo: xâm tán, mạch xâm tán, đám hạt xâm tán.
+ Kiến trúc: hạt tha hình, hạt đẳng thước, hạt dạng giọt nước,
hạt dạng nhành cây, hạt dạng cầu, tấm tha hình, bao thể rắn oval.
+ Vàng thành tạo trong 3 giai đoạn sản phẩm, trong đó hai giai
đoạn sau phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lượng và hình thức biểu hiện.
+ Độ tinh khiết của vàng tự sinh ở giai đoạn sản phẩm ban
đầu thuộc loại cao (trung bình 964), giảm dần ở giai đoạn giữa (trung

bình 921) và giảm thấp nhất ở giai đoạn cuối cùng (trung bình 592).
Ngoài vàng, các khoáng vật khác được mô tả chi tiết trong
luận án.
4.3. Đặc điểm cấu tạo, kiến trúc quặng
- Đặc điểm cấu tạo quặng: Quặng chủ yếu có cấu tạo xâm
tán, ổ xâm tán, mạch, keo và cấu tạo ổ, ít hơn có cấu tạo dạng bở rời,
cấu tạo lỗ hổng, cấu tạo khung xương (ngăn ô).
- Đặc điểm kiến trúc quặng: Quặng chủ yếu có kiến trúc
nguyên sinh, phổ biến gồm: Kiến trúc hạt tự hình, nửa tự hình, kiến
trúc hạt tha hình, kiến trúc gặm mòn thay thế, kiến trúc xen lấp, kiến
trúc phân huỷ dung dịch cứng, keo, hạt tàn dư.

4.4. Đặc điểm thành phần hoá học
Các nguyên tố đi cùng vàng trong quặng chủ yếu gồm Ag,
Cu, Pb, Zn, Bi, As, W và Sb, trong đó Au có hệ số tập trung cao nhất
ở mỏ khoáng A Pey và A Du, điểm quặng A Vao, A Dang có mức độ
tập trung trung bình, còn Tà Rẹc mức độ tập trung thấp nhất. Ag có
mức độ tập trung tương tự vàng.
Kết quả tính hệ số tương quan giữa các nguyên tố cho thấy:
- Kiểu quặng thạch anh - vàng, Au liên quan khá chặt chẽ (Rx
= 0,64) với Ag, còn không liên quan đến các nguyên tố khác.
- Kiểu quặng thạch anh – pyrit – pyrotin - vàng, Au liên quan
khá chặt chẽ với Cu, Ag (Rx = 0,6 và 0,57)
- Kiểu quặng thạch anh – sulfur đa kim – vàng, Au liên quan
rất chặt chẽ với Ag và Pb (Rx = 0,82 và 0,94).
4.5. Đặc điểm các bao thể trong thạch anh của quặng vàng
Trong thạch anh của các kiểu quặng chỉ gặp các bao thể
nguyên sinh ở dạng lỏng – khí, khí - lỏng, khí và nhiều pha, với nhiệt
độ thành tạo như sau:
- Kiểu quặng thạch anh - vàng được thành tạo trong khoảng

260 – 310oC (nhiệt dịch nhiệt độ cao).
- Kiểu quặng thạch anh – pyrit – pyrotin – vàng thành tạo
trong khoảng 210 – 230oC (nhiệt dịch nhiệt độ trung bình).
- Kiểu quặng thạch anh – sulfur đa kim - vàng được thành tạo
ở nhiệt độ 130 – 170oC (nhiệt dịch nhiệt độ thấp).
5. Thứ tự sinh thành và tổ hợp cộng sinh khoáng vật
Kết quả nghiên cứu của luận án đã chia quá trình tạo khoáng
vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới thành 3 giai đoạn khoáng hoá,
mỗi giai đoạn có một tổ hợp cộng sinh khoáng vật đặc trưng (bảng
4.10).
Giai đoạn tạo khoáng I: Tạo các thân khoáng dạng mạch
thuộc kiểu quặng thạch anh - vàng, với tổ hợp khoáng vật đặc trưng


Thứ tự sinh thành và THCSKV quặng vàng vùng Đak Rông – A Lưới
Bảng 4.10
Thời kỳ tạo khoáng
Giai đoạn tạo
khoáng
Tên khoáng vật
Thạch anh
Calcit
Sericit
Magnetit
Hematit
Pyrit
Pyrotin
Arsenopyrit
Chalcopyrit
Sphalerit

Galenit
Vàng tự sinh
Electrum
Menhicovit
Limonit
Goethit
Covelin
Xeruxit

Nội sinh
I

T.anhvàng

II

Ngoại sinh
III

T.anh- pyrit T.anh - pyrotin - sulfur đa
vàng
kim - vàng

IV

Kiến trúc đặc trưng

Hạt tha hình

Limonitgoethit-vàng

tàn dư
Keo, hạt tàn dư

Cấu tạo đặc trưng

Xâm tán Mạch xâm tán, ổ xâm tán

Ổ, lỗ hổng

Tổ hợp cộng sinh
khoáng vật

Thạch anh T.A hoá, Calcit hoá,
hoá,
sericit,
propylit hoá
berezit hoá propylit hoá
Hàm lượng >10%,
hàm lượng 1 – 10%,

Biến đổi nhiệt dịch
vây quanh
Ghi chú:
lượng <1%.

hàm


19


20

gồm: vàng I - thạch anh, thành tạo ở nhiệt độ từ 260 đến 310oC. Điểm
quặng đặc trưng: La Sam, Ba Tưng, Trầm Cóc, Ba Ngày.
Giai đoạn tạo khoáng II: Đặc trưng bởi tổ hợp khoáng vật
vàng II - thạch anh - pyrit II - pyrotin. Nhiệt độ thành tạo từ 210 đến
230oC. Điểm quặng đặc trưng: A Pey, A Du - Tam Moi, A Vao.
Giai đoạn tạo khoáng III: Thành tạo thân quặng dạng đới
mạch, đặc trưng bởi tổ hợp cộng sinh khoáng vật thạch anh – vàng III
– pyrit III – galenit – sphalerit – chalcopyrit. Quặng thuộc kiểu thạch
anh – sulfur đa kim – vàng, nhiệt độ thành tạo từ 130 đến 170oC. Điển
hình là điểm quặng A Dang.
Giai đoạn phong hoá: Hình thành các khoáng vật limonit,
goethit, covelin… và giải phóng vàng trong các mạch khoáng để cung
cấp cho sa khoáng. Tổ hợp khoáng vật thường gặp vàng tàn dư,
limonit, goethit.

+ Về khả năng sinh vàng của các thành tạo magma: Áp dụng
các phương pháp đánh giá khả năng sinh vàng dựa vào: Tương quan
số lượng nguyên tử K – Na và Mg – K; tương quan số lượng phân tử
Mg-Na (theo V. Satran, M. Fisher, J. Khominxki); tương quan hàm
lượng Na2O – K2O – CaO (theo M.M.Konstantinov (1984), các modul
thạch hoá độ silic (q), độ canxi (c), độ kiềm (α), độ sắt (f) và kiểu
kiềm (n) (theo BN. Permiacov (1983), cho thấy xâm nhập Bến Giằng
- Quế Sơn (pha 2) có khả năng sinh vàng.
- Yếu tố thạch học - địa tầng: Kết quả nghiên cứu cho thấy
trầm tích biến chất hệ tầng Núi và A Vương là yếu tố thuận lợi cho
quá trình tạo khoáng vàng. Nguyên nhân do trong quá trình biến chất,
các đá hệ tầng Núi Vú chuyển từ môi trường femic sang salic, đá hệ
tầng A Vương có hàm lượng silic tăng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho

quá trình lắng đọng dung dịch quặng.
- Yếu tố cấu trúc - kiến tạo: Hệ thống đứt gãy Đak Rông - A
Lưới khống chế toàn bộ quặng hoá vàng trong vùng. Các đứt gãy cấp
II kết hợp đứt gãy cấp III khống chế các trường quặng; các cấu trúc kiến tạo cục bộ gồm: các đới khe nứt, các nếp uốn nhỏ và các cấu trúc
thuận lợi khác có vai trò khống chế các thân quặng.
- Yếu tố biến chất: Trầm tích hệ tầng Núi Vú và A Vương bị
biến chất khu vực đạt tướng đá phiến lục và đôi nơi tướng amphibolit.
Trong quá trình biến chất đá có sự chuyển tiếp môi trường từ femic
sang salic tạo điều kiện thuận lợi cho sự lắng đọng quặng.
- Yếu tố bóc mòn
Kết quả nghiên cứu đã xác định các thân quặng vàng trong
vùng Đak Rông – A Lưới có mức độ bóc mòn yếu. Khu A Vao có
mức độ bóc mòn ít nhất, tiếp đến khu A Dang, A Pey, khu Nhâm, khu
Tà Rẹc có mức độ bóc mòn lớn nhất.

Chương 5. Các yếu tố khống chế quặng hóa và các tiền đề,
dấu hiệu tìm kiếm quặng vàng vùng Đak Rông - A Lưới
5.1. Các yếu tố địa chất khống chế sự thành tạo quặng vàng
- Yếu tố magma: Kết quả nghiên cứu đã xác định xâm nhập
phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn, phun trào hệ tầng Núi Vú là yếu tố
magma khống chế quặng vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới, thể
hiện:
+ Về không gian và đặc điểm phân bố: Các thân quặng vàng
và các thành tạo magma đều phân bố trong cùng một cấu trúc và được
khống chế bởi hệ đứt gãy sâu Đak Rông - A Lưới.
+ Về tính chuyên hoá địa hoá của magma: Phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn thuộc kiểu I granit, có hàm lượng As, Cu, Pb, Zn
trội cao, có tính chuyên hoá địa hoá Au, Ag; phun trào mafic trong hệ
tầng Núi Vú có chứa vàng 6 – 17ppb, tạo yếu tố sinh vàng.



21

22

5.2. Tuổi thành tạo quặng vàng
Khoáng hoá vàng được thành tạo sau Permi muộn - Trias sớm
(thân quặng cắt xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn tuổi Permi
giữa - muộn), nhưng trước Jura (thân quặng bị hệ tầng A Ngo tuổi J1-2
phủ lên và trong lớp đáy hệ tầng có vàng sa khoáng), trong khoảng
thời gian ngay sau Trias giữa-muộn và liên quan đến chu kỳ hoạt
động kiến tạo cuối Mezozoi.
5.3. Nguồn gốc và mô hình tạo quặng
Quặng vàng trong vùng nghiên cứu thuộc kiểu mỏ thạch anh
– sulfur – vàng trong đá biến chất tướng phiến lục. Thân quặng là
mạch, hệ mạch, đới vi mạch thạch anh sulfur và đá biến đổi nhiệt dịch
vây quanh chứa vàng, là sản phẩm của dung dịch tạo quặng có nguồn
biến chất trong vỏ ở độ sâu trung bình hoặc từ nguồn magma ở dưới
sâu di chuyển lên theo các kênh dẫn kiến tạo, kết hợp với các dung
dịch nông trong những đới kiến tạo thích hợp sẽ dẫn đến sự tích tụ
quặng. Khi dung dịch tạo quặng đi qua các tầng đá phiến lục có chứa
vàng sẽ có sự tái huy động vàng trong đá vây quanh và lắng đọng ở
các cấu trúc thuận lợi gần kề các mạch quặng đã có (hình 5.3).
5.4. Các tiền đề và dấu hiệu tìm kiếm
+ Tiền đề thạch học địa tầng: Các tập đá phun trào mafic bị
biến chất tướng phiến lục thuộc hệ tầng Núi Vú, các lớp đá phiến
thạch anh – felspat – sericit phân phiến mỏng thuộc hệ tầng A Vương
là tiền đề thạch học địa tầng tìm kiếm quặng vàng.
+ Tiền đề cấu trúc kiến tạo: Hệ thống đứt gãy tây bắc - đông
nam và các cấu trúc đi kèm, nhất là các kiến trúc cục bộ (nếp oằn, nếp

uốn nhỏ, nơi giao nhau giữa đứt gãy với tập đá thuận lợi, giao nhau
giữa đứt gãy với đứt gãy, các đới khe nứt tách) là cấu trúc thuận lợi
cho quá trình tích tụ quặng.
+ Tiền đề magma: Các đới đá biến đổi, đới tiếp xúc của xâm
nhập Bến Giằng - Quế Sơn, khu vực phát triển mạnh các thể xâm

nhập nhỏ phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn là yếu tố thuận lợi cho tạo
khoáng vàng.
- Các dấu hiệu tìm kiếm: Các vành phân tán trọng sa, các dấu
hiệu khai thác vàng gốc, các hiện tượng biến đổi nhiệt dịch thạch anh
hoá, sericit hóa, sulfur hóa, các dải dị thường phân cực kích thích là
những dấu hiệu tìm kiếm quặng vàng.

Hình 5.3. Mô hình tạo quặng vàng vùng Đak Rông - A Lưới
5.5. Phân vùng triển vọng quặng vàng
Kết quả nghiên cứu của luận án đã phân chia được 11 diện
tích có các mức triển vọng khác nhau, trong đó có 5 diện tích triển
vọng cấp A, 4 diện tích triển vọng cấp B, 2 diện tích triển vọng cấp C
(xem bảng 5.4). Trên các diện tích đã đánh giá tiềm năng quặng vàng
và chỉ rõ những nhiệm vụ cần nghiên cứu tiếp theo trong giai đoạn
tìm kiếm thăm dò và khai thác chúng.


Phân vùng triển vọng khoáng sản vàng vùng Dakrông – A Lưới
TT
1

2

Vùng

Diện
Tên
triển
tích
diện tích
vọng
(km2)
1AI

2AI

A Pey
A Du –
Tam Moi

5

3

3

1AII

A Vao

25

4

2AII


A Dang –
La Sam

25

5

3AII

Tia Ria –
Ca Lanh

30

6

1B

Phú Vinh
- Cầu Ba

65

7

2B

Ba Ngày


30

8

3B

Làng Hu

70

9

4B

Làng
Vây

70

10

1C

Vùng
đông bắc
A Dang

120

11


2C

Tây nam
Đak
Rông

100

12

D

Diện tích
còn lại

500

Bảng 5.4
Tài
Điểm
Nghiên
nguyên
cứu tiếp
Đặc điểm địa chất khoáng sản
điển
theo
dự báo
hình
- Vùng phân bố đá hệ tầng Núi Vú; nằm ở 15.960 kg A Pey A, Thăm dò,

mái xâm nhập phức hệ Quế Sơn. Có đứt
vàng
A Pey B khai thác

gãy cấp II - cấp III và các đới khe nứt tách
phương tây bắc - đông nam và các yếu tố
2.680 kg
kiến trúc khác.
vàng
- Đã điều tra được 8 đới quặng vàng (A Pey
6, A Du – Tam Moi 2).
- Vùng có đá hệ tầng A Vương bị vò nhàu,
dập vỡ mạnh và biến đổi nhiệt dịch; có xâm
nhập phức hệ Quế Sơn và đứt gãy phương
kinh tuyến và các đới khe nứt đi kèm
3.510kg
- Đã phát hiện được 7 đới quặng vàng; các
đới biến đổi nhiệt dịch sericit hoá, thạch
anh hoá, chlorit hoá và có 4 vành phân tán
vàng sa khoáng bậc cao (>5hạt/10dcm3)
- Đá trầm tích biến chất tướng phiến lục hệ
tầng Núi Vú; có các đứt gãy, khe nứt
6.450kg
phương tây bắc - đông nam.
- Có 4 đới quặng vàng và các dấu hiệu
- Vùng có đá hệ tầng Núi Vú bị dập vỡ
5.170 kg
- Đã biết các điểm quặng Nhâm, Tia Ria,
vàng
Ca Lanh và các dấu hiệu khác

- Vùng phát triển trầm tích hệ tầng A
Vương bị dập vỡ, có xâm nhập phức hệ
Quế Sơn; Có 5 điểm quặng vàng gốc: A To, 5.600kg
Phú Vinh, Cầu Ba, Cầu Bản, Sơn Thuỷ và
các dấu hiệu khác
- Vùng phát triển đá hệ tầng A Vương có
các đới khe nứt
1000kg
- Đã phát hiện điểm quặng vàng Ba Ngày
vàng.
và nhiều dấu hiệu khác, là phần kéo dài của
điểm quặng A Vao
- Có đá hệ tầng Núi Vú bị dập vỡ, bị xâm
TNDB
nhập phức hệ Quế Sơn xuyên cắt
- Có điểm quặng vàng Làng Hu các dấu 8.000kg
hiệu khác
- Vùng phát triển đá hệ tầng A Vương bị TNDB
xâm nhập phức hệ Quế Sơn xuyên cắt gây
100.000
biến đổi sừng hoá, thạch anh hoá.
tấn Cu và
- Có 1 điểm quặng đồng (nam Làng Vây)
và 1 điểm quặng vàng (Làng Vây) và các 2000kg
vàng
dấu hiệu khác.
- Vùng phát triển đá lục nguyên xen phun
trào hệ tầng A Lin nằm gần kề đứt gãy
Dakrông – A Lưới
- Có vành phân tán trọng sa vàng bậc I diện

tích rộng.
- Vùng phát triển đá xâm nhập phức hệ
Quế Sơn bị nứt nẻ, dập vỡ và biến đổi
thạch anh hoá, sericit hoá mạnh.
- Có các vành phân tán vàng bậc I, II.
Phát triển trầm tích hệ tầng A Ngo là chủ
yếu và không có biểu hiện khoáng sản vàng

A Du

Thăm dò,
khai thác

Đánh giá
Khe Ho, 1:2.000
A Vao hoặc thăm


A Dang,
La Sam
Nhâm,
Tia Ria
Sơn
Thuỷ,
Cầu Ba

Ba Ngày

Đánh giá
hoặc thăm



Điều tra,
đánh giá

Điều tra,
đánh giá

Lang Hu

Điều tra,
đánh giá

Nam
Làng
Vây

Điều tra,
đánh giá

Xi Pa,
đông A
Dang

Chưa điều
tra

Chưa điều
tra
Không điều

tra


23

24

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Từ các kết quả nghiên cứu của luận án có thể rút ra các kết
luận sau:
1. Quặng vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới thuộc kiểu mỏ
thạch anh – sulfur - vàng trong đá biến chất tướng phiến lục gồm 3
giai đoạn tạo khoáng chính, tương ứng 3 kiểu quặng: Thạch anh –
vàng, thạch anh – pyrit – pyrotin - vàng, thạch anh - sulfur đakim vàng.
Trong quặng, vàng tồn tại ở dạng vàng tự sinh và electrum và
cộng sinh chặt chẽ với thạch anh, pyrit, pyrotin, chalcopyrit, galenit
và sphalerit. Vàng được thành tạo trong 3 giai đoạn tạo khoáng, trong
đó hai giai đoạn sau phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lượng và hình
thức biểu hiện. Độ tinh khiết của vàng tự sinh khá cao, giai đoạn đầu
trung bình là 964, giai đoạn giữa là 921 và giai đoạn cuối là 592.
2. Quặng vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới được khống
chế bởi các yếu tố địa chất sau:
- Yếu tố cấu trúc kiến tạo: Hệ thống đứt gãy phương tây bắc –
đông nam khống chế toàn bộ vùng quặng vàng Đak Rông - A Lưới và
các trường quặng. Các đứt gãy kéo theo và các cấu trúc sinh kèm
khống chế các mỏ khoáng, thân quặng.
- Yếu tố thạch học địa tầng: Trầm tích lục nguyên xen phun
trào mafic bị biến chất tướng phiến lục của hệ tầng Núi Vú và trầm
tích lục nguyên biến chất tướng phiến lục hệ tầng A Vương là yếu tố
thuận lợi, có vai trò mang quặng, đồng thời đây cũng là nguồn cung

cấp vật chất bổ sung cho quá trình tạo khoáng vàng trong vùng.
- Yếu tố magma: Xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn có
vai trò là yếu tố cung cấp vật chất (dung dịch tạo quặng), đồng thời là
yếu tố cung cấp năng lượng cho quá trình tạo khoáng và quá trình tái
chiết tách và tập trung vàng trong đá phun trào mafic bị lục hoá.
- Yếu tố biến chất: Có vai trò tạo các tập đá có thành phần hoá

học thuận lợi (đá phiến lục) cho quá trình tạo khoáng, đồng thời thúc
đẩy quá trình chiết tách vàng trong đá phun trào mafic.
3. Quặng vàng trong vùng Đak Rông - A Lưới được thành tạo
sau Permi muộn - Trias sớm và trước Jura, là kết quả của quá trình
dung dịch tạo quặng từ nguồn biến chất hoặc từ nguồn magma ở dưới
sâu di chuyển lên theo các kênh dẫn kiến tạo, tích tụ lại ở các vị trí
thuận lợi trong đá trầm tích biến chất tướng phiến lục và khi dung
dịch tạo quặng đi qua tầng đá phiến lục có chứa vàng sẽ có tham gia
của vàng trong đá vây quanh vào quá trình tạo khoáng.
4. Kết quả nghiên cứu đã phân chia được 11 diện tích có các
mức triển vọng khác nhau, trong đó có 5 diện tích triển vọng cấp A, 4
diện tích triển vọng cấp B, 2 diện tích triển vọng cấp C. Trên các diện
tích này cũng đã chỉ rõ những nhiệm vụ cần nghiên cứu tiếp theo
trong giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác chúng.
KIẾN NGHỊ
1. Tiến hành thăm dò đối với các diện tích triển vọng cấp AI,
thăm dò hoặc đánh giá quặng vàng ở tỷ lệ 1:2000 đối với diện tích
triển vọng cấp AII và điều tra chuyên khoáng vàng các diện tích triển
vọng cấp B.
2. Trong quá trình điều tra, thăm dò vàng cần chú ý các đới
dập vỡ, khe nứt phương tây bắc – đông nam phát triển trong các tập
đá phun trào mafic bị biến chất tướng phiến lục và biến đổi propylit
hoá, thạch anh hoá, sericit hoá. Ở trường quặng Tà Rẹc – Nam Làng

Vây cần chú ý phát hiện quặng đồng đi kèm vàng trong các đới khe
nứt, dập vỡ ở phần vòm các thể xâm nhập ẩn có thành phần granit
porphyr thuộc pha 3 phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn.
3. Vàng tự sinh trong quặng vàng ở vùng Đak Rông - A Lưới
có độ hạt rất nhỏ, xâm tán không đều trong thạch anh và trong đá biến
đổi, nên cần nghiên cứu công nghệ tuyển đãi để thu hồi vàng có hiệu
quả trong quá trình thăm dò, khai thác.



×