Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Bài tiểu luận Tài chính tiền tệ: Lạm phát của Việt Nam từ 2004 đến nay - Nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.59 KB, 35 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
­­­­­­­­­­

BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Tên đề tài:LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN  
NAY. NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP  
KHẮC PHỤC

Sinh viên thực hiện: Lê Đức Minh Hiếu
Lớp: 56KT1

Nha Trang, tháng 9 năm 2015

1


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia 
đều đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng  
gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia  
còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát  
triển. 
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trường.Nó 
là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế  kỷ  XXI và đụng 
chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế  hàng 
hoá tiền tệ. Nó có  tính thường  trực,  nếu không thường  xuyên kiểm soát,  
không có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu 
thì lạm phát có thể  xảy ra  ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế 


độ xã hội nào.
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế 
thị trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay 
để đánh giá sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà.
Cơ  chế  thị  trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự  đổi thay của 
nền kinh tế  Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế  thị 
trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận 
cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế  cũng như  các doanh 
nghiệp phải nhanh chóng để  tiếp cận, nắm bắt những vấn đề  của nền kinh 
tế mới. Bên cạnh bao vấn đề  cần có để kinh doanh còn là những vấn đề  nổi 
cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề  nổi cộm  ấy là lạm phát. 
Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết 
sức phức tạp đòi hỏi sự  đầu tư  lớn về  thời gian trí tuệ  mới có thể  mong  
muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các 
nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ  của chính phủ. Lạm phát  ảnh hưởng 
toàn bộ  đến nền kinh tế  quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao 
động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn  
2


định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế  xã hội,  
nâng cao đời sống nhân dân. 
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, 
nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và  
chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. 
Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của 
hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm  
nhanh. 
Bài viết này với đề tài: “LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN 
NAY. NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC”. 

Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt 
thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến thức còn 
hạn chế, chúng em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp 
để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn.
PHẦN II : NỘI DUNG
          I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.  Định nghĩa lạm phát 


   Quan niệm cổ  điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền 

vượt quá số  lượng tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này 
không giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế 
giới từ những năm 70 hoặc  ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn  
có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ  coi là lạm phát khi sự 
tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ  dẫn đến coi thường 
các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra. 


  Một quan điểm phổ  biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện 

tượng tăng 
lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian.  
Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá 
cả chỉ tăng tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán 
ở  Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả  của những biến động 
cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh  

3



tế. Những trường hợp như  vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ  dẫn đến sự 
cường điệu hoá nguy cơ lạm phát. 
 Các nhà kinh tế  học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là 
Milton Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả  tăng nhanh và  
liên tục trong một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự  tăng lên của mức 
giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của 
lạm phát được thể  hiện  ở tính chất của sự  tăng giá đó: đó là sự  tăng giá với 
tốc độ  cao và kéo dài. Chính sự  tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến 
thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy,  
cái gọi là tỷ  lệ  tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể  nghe trên đài, báo hay 
vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng  
trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể  chỉ là sự  thay 
đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ  không kéo dài. Chỉ  khi 
nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu  
hiện của lạm phát cao.  

2. Lạm phát được tính như thế nào?
     Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự  thay đổi trong giá cả  của  
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường  
4


dựa trên dữ  liệu được thu thập bởi các tổ  chức Nhà nước, mặc dù các liên  
đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này).
    Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa  
ra một chỉ  số  giá cả  để  đo mức giá cả  trung bình, là mức giá trung bình của 
một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ  lạm phát là tỷ  lệ  phần trăm mức tăng của 
chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị  của 

chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ 
số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.  
Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ  biến nhất chính là CPI – Chỉ  số  giá tiêu 
dùng (consumer price index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá  
và dịch vụ  khác nhau, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch 
vụ y tế…, được mua bởi “người tiêu dùng thông thường”.

   
Hiện nay, CPI của Việt Nam đo giá cả  của khoảng 400 loại hàng hoá, trong 
khi đó để tính CPI ở Mỹ người ta điều tra tới 80.000 loại hàng hoá và dịch vụ. 
Không những thế, CPI còn được tính riêng cho nhóm người tiêu dùng nông 
thôn, thành thị, công nhân viên chức thành thị…
 
5


3. Phân loại lạm phát
Căn cứ  vào tỷ  lệ  lạm phát, các nhà kinh tế  chia lạm phát thành 3 loại  
khác nhau: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. 
Lạm phát vừa phải 



Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ 
thấp, dưới 10% một năm. Chính phủ các nước luôn mong muốn duy trì một tỷ 
lệ lạm phát nhất định ở mức độ vừa phải (lạm phát mục tiêu) vì nó mang lại 
tác dụng tốt cho nền  kinh tế. Thông thường, mức lạm phát mục tiêu nằm 
trong giới hạn của mức lạm phát vừa phải. Với mức lạm phát này, giá cả 
tăng chậm đến nỗi người ta không cảm nhận là  đang có lạm phát và do đó 
được coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong trường hợp  này, dân chúng vẫn 

còn tin vào giá trị đồng tiền.
Lạm phát phi mã 



Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số  trong vòng một năm (từ 
10% đến 100%). Với mức lạm phát này, mức độ  tăng giá gây tác hại nghiêm 
trọng

 

đối

 

với

 

nền kinh tế, thể  hiện bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong 
trường hợp này người  dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới  
dạng phi tiền tệ. Việt Nam trong những năm của thập niên 80 rơi vào tình 
trạng lạm phát này. Giá cả luôn luôn tăng ở mức 3 con số. 
 Siêu lạm phát 
Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ  tăng giá trên ba con số  trong  
vòng một năm.  Đồng tiền bị  mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm 
ngập trong khối tiền để  tìm kiếm một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết 
sức khan hiếm. Trong trường hợp này, chức năng quan trọng đầu tiên của tiền 
là làm phương tiện trao đổi bị triệt tiêu. Tiền có sẵn nhưng không mua được 
hàng hóa vì không ai muốn bán hàng hóa để đổi lấy những đồng tiền bị mất giá 

quá mức. 

6


II.

THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN 2015

     1. Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam 
Tốc độ  tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2010. Chi  
tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ  5% năm 2000 lên trên 8% từ  sau 
năm 2005. Tỉ  lệ  vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến  
40% từ  năm 2004 đến nay (2007). Từ  đây các nhân tố  lạm phát được nuôi 
dưỡng.  Đến hôm nay lạm phát quay trở  lại. Năm 2004 đã xuất hiện những  
dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng  
đã không có những giải pháp thoả  đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu 
hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố 
mạnh mẽ  “lạm phát không thể  đến mức hai con số”. Thực tế  cho thấy thì 
lạm phát năm 2007 khoảng 12%, năm 2008 thi lên đến 22% một con số đáng  
báo động cho một nền kinh tế  non trẻ  như  việt nam.Cùng với những biện 
pháp kiềm chế  lạm phát bước sang năm 2009 lạm đã giảm chỉ  con 6%. Dự 
báo mới nhất cho thấy, tăng trưởng kinh tế  của Việt Nam trong năm 2010 ở 
mức 6%. Lạm phát có thể tăng từ  7% trong năm 2009 lên mức hai con số  do 
tăng trưởng tín dụng mạnh trong thời gian gần đây. Giá hàng hóa thế giới cao 
trở  lại cũng sẽ  tác động đến giá cả  trong nước. Bên cạnh nguy cơ  lạm phát 
lên 2 con số. Đây là một bài toán đau đầu cho các nhà kinh tế làm sao để đạt  
được các mục tiêu kinh tế đề ra.
2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2015


    Biểu đồ về thực trạng lạm phát ở VIỆT NAM trong 10 năm gần 
đây
7




Giai đoạn từ năm 2004 đến 2008
Năm 2004: tỷ lệ lạm phát giảm từ giai đoạn 1998 đến năm 2000,đặc 
biệt năm 2000 tỷ lệ lạm phát là 0,1% và năm 2001 là ­ 0,6%.Thế nhưng 
lạm phát bắt đầu tăng lại từ năm 2002 và trở nên mạnh hơn vào đầu 
năm 2004 với tỉ lệ lạm phát đạt mức 9,5%. Đây là con số cao nhất kể 
từ năm 1995 đến 2004.
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng 
đồng quốc tế  đánh giá cao về  tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư  nước  
ngoài đổ  vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư 
trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ  USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ 
USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư  trong nền kinh tế. Dòng vốn 
đầu tư  gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007  ước  
tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện 
trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD  
(năm 2007 là 2 tỷ  USD, 2008 2.2 tỷ  USD). Kiều hối chuyển về  Vi ệt  
Nam hàng năm từ  5­7 tỷ  USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị  thâm hụt 
thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển 
vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ 
ngoại tệ  của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng 
4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ 
ngoại tệ  của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương  ứng  
VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện 
biện pháp Vô hiệu hóa   lượng tiền bơm vào nền kinh tế  do vậy tiền  

trong nền kinh tế tăng lên.
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ 
thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 
đạt 49.1%.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố  quan trọng nhất của mọi quốc gia  
(tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số 
8


dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 
con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc  
gia. Điều này dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính 
phủ: làm suy vong nền kinh tế  quốc gia.Có sự  tác động mạnh tới đời  
sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. 
Sau 12 năm kiểm soát được lạm phát(1995­2007) thì tình hình lạm phát  
hiện nay   ở  Việt   Nam lên  tới  mức  báo   động là  2 con  số,  vượt  qua  
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ 
dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ. Lạm phát 
trong năm 2011 sẽ không vượt quá 7% và chỉ trong quý một năm 2011,  
lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1%. Thực trạng này đã khiến mục tiêu 
kìm chân lạm phát  ở  mức 7% của Quốc hội trở  thành một nhiệm vụ 
bất khả  thi trong năm nay.  Chỉ  số  tăng trưởng  GDP hiện nay giảm 
xuống rất thấp và lạm phát  ở  mức rất cao (trên 20%). Chỉ  số  tăng 
trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng 
của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng  
trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề  ra từ kỳ họp cuối năm trước là  
8,5­ 9%, Thủ  tướng Chính phủ  chỉ  đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy  
nhiên, tăng trưởng kinh tế  quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ  của 
quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát 
năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ 

số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba 
lần cùng kỳ  và bằng gần ba phần tư  mức cả  năm 2007, đã vượt qua 
mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về 
kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về 
tỷ  lệ  nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)...     Nhà cầm 
quyền trung ương cũng nhắm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng 7% cho năm 
nay, so với 6.8% của năm 2010. Trong năm 2010, tỷ  lệ  lạm phát của  
Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình có vẻ như 
không có dấu hiệu khả quan hơn. Tín dụng dự trù chỉ  tăng 23% so với  
năm ngoái. Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ 
vào Việt Nam trong năm 2007 có thể  đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn 
9


các dòng vốn khác có thể  đạt khoảng 8,9 tỷ  USD (12,7% GDP). Cùng 
với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị  trường  
chứng khoán cũng phát triển bùng nổ, giá cả  các mặt hàng phi lương 
thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ  năm ngoái do tăng trưởng 
kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở 
Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát.Chỉ số 
tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất  
cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% 
mặc dù tốc độ  tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10  
năm qua. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để 
mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong 
lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức 
tăng 38%, đây là cuộc  lạm phát tiền tệ. Ngoài ra giá nguyên liệu, nhiên  
liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) 
trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh 
tế  nước ta phụ  thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 

90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị  trường trong 
nước. Cuộc lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị 
trường thế  giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình 
quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo 
cầu   về   lương   thực   trong   nước   cho   xuất   khẩu   tăng.   Mục   tiêu   tăng  
trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề  ra từ kỳ họp cuối năm trước là  
8,5­ 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tác động 
lạm phát của Việt Nam năm nay 2011 là nhập khẩu lạm phát. Bởi vì tác 
nhân của Việt Nam là tình trạng nhập siêu rất là lớn, mà trong đó các 
yếu tố  về  hàng hóa nguyên liệu cơ  bản trên thế  giới dự  kiến gia tăng 
trong năm nay. Theo đó Tổ  chức Lương nông Quốc tế  (FAO) công bố 
chỉ số giá lương thực cuối năm 2010 là 214,7 điểm vượt qua mức 213,5  
điểm thời gian khủng hoảng lương thực 2008. Giá ngũ cốc toàn cầu  
tăng nhanh, ngoại trừ giá gạo vẫn đứng thấp hơn nhiều so với mức kỷ 
lục. Giá đường tăng cao nhất trong vòng 30 năm gần đây, giá các loại 
hạt có dầu và thịt cùng leo thang.Lạm phát được đẩy lên cao vì giá 

10


lương thực tăng, đây là mối quan ngại lớn lao của những nền kinh tế 
mới nổi trong đó có Việt Nam. Trong tình hình biến động giá thế  giới 
như  vậy, rõ ràng ‘ẩn số  lớn của lạm phát Việt Nam 2011 là giá thực  
phẩm.Tăng trưởng kinh tế  quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ  của 
quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát 
năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ 
số  (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục  lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp 
ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua 
mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về 
kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu phí USD), cả 

về   tỷ   lệ   nhập   siêu   so   với   xuất   khẩu   (56,5%   so   với   18,2%).   Năm  
2010,việc giảm tỷ lệ lạm phát cả năm xuống một con số vào cuối năm 
đòi hỏi tỷ lệ lạm phát trung bình từ  giờ  đến hết năm phải xuống dưới 
0,4%,đây là một thách thức. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính 
đến tháng 4/2011, chỉ  số  giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam đã tăng tới 
9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu  
năm.Sau đây là số liệu thu thập được từ năm 2005­2008:

Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Năm 2005
1.1
3.1
3.7
4.3
4.8
5.2
5.6

6.0
6.8
7.0
7.6
8.9

Năm 2006
1.2
2.1
2.8
3.0
3.6
4.0
4.4
4.8
5.1
5.4
6.0
6.6

Năm 2007
1.0
2.1
3.2
3.4
4.3
5.7
6.2
6.8
7.3

8.2
9.4
12.6

Năm 2008
14.1
6.0
9.2
21.4
25.2
26.8
27.04
26.32
27.90
25.7
­­­­
­­­­

Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn: 2005 ­ 2008

11


Các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD  
(8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% 
GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị 
trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ. .  Ở  các nước châu Á khác, 
giá lương thực ­ thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, 
nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 
10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và 

thanh khoản dồi dào

Trong những tháng đầu năm 2011, kiềm chế lạm phát vẫn là ưu tiên hàng  
đầu trong các chính sách kinh tế  của Việt Nam. Lạm phát  ở  mức cao là một 
12


hiện trạng không thể  tránh khỏi đối với một nền kinh tế  đang trên đà phát 
triển như  Việt Nam. Lạm phát giống như  con dao hai lưỡi nếu biết cách sử 
dụng thì con dao  ấy sẽ  là vũ khí sắc bén để  giúp Việt Nam hoàn thành mục  
tiêu phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong tương  
lai gần.
Cuộc chiến chống lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giúp phát hiện hai  
vấn đề: Một về cơ cấu và một về điều hành kinh tế vĩ mô.  Về cơ cấu, nền  
kinh tế  của chúng ta đang đối mặt với một vấn đề  nghiêm trọng về  sung 
dụng tài nguyên. Sử  dụng tài nguyên không hiệu quả  đã làm lãng phí đồng  
vốn, lãng phí nhân lực, lãng phí tài nguyên thiên nhiên trong một thời gian dài. 
Hệ số ICOR cao (4,5) cho thấy nền kinh tế Việt Nam là một trong những nền  
kinh tế có đầu tư kém hiệu quả nhất trong khu vực, và có năng lực cạnh tranh  
rất thấp. Những hệ quả tiếp theo của nó càng ngày càng lộ  rõ như  thâm hụt 
cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng (chỉ  riêng năm tháng đầu năm 
2008, con số này đã lên đến 14,4 tỉ USD), khiếm hụt ngân sách luôn được duy  
trì ở mức 5% GDP trong nhiều năm, và kết quả tất nhiên của nó là tốc độ lạm  
phát của nền kinh tế  ngày càng gia tăng (theo một  ước lượng đáng tin cậy,  
nếu loại trừ  tác động tăng giá của thị  trường thế  giới như  giá dầu và giá 
lương thực, tốc độ lạm phát do tác động nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu 
xuất phát từ  vấn đề  sử  dụng tài nguyên không hiệu quả, đã lên đến từ  8­  
10%/năm). Tuy nhiên, giải quyết vấn đề  cơ  cấu là một việc làm lâu dài, đòi 
hỏi một quyết tâm chính trị rất cao. Bài toán về  cơ cấu là bài toán không thể 
có lời giải một sớm một chiều, nhưng đó là một bài toán phải kiên trì giải 

quyết ngay từ bây giờ, vì rằng đó là bài toán sinh tử, quyết định tương lai phát 
triển và cường thịnh hay không của nền kinh tế Việt.

13


Về  điều hành kinh tế  vĩ mô, chúng ta đang gặp phải các vấn đề  trong 
chính sách ngân sách và chính sách tiền tệ. Nếu mục tiêu của chính sách ngân 
sách vẫn là duy trì một mức khiếm hụt lên đến 5%/GDP tiếp tục trong thời 
gian dài, những nỗ lực kiểm soát lạm phát nhằm ổn định kinh tế vĩ mô sẽ rất 
khó thành công. Mục tiêu cân bằng ngân sách cần phải là một mục tiêu được 
hướng tới kể từ bây giờ. Những nỗ lực chống lạm phát trước hết phải được  
thể hiện bởi một quyết tâm từ phía Chính phủ, cụ thể hóa bởi các hành động  
tiết kiệm ngân sách: tinh giản bộ  máy hành chính, tiết kiệm công chi, giảm  
đầu tư  công. Tất cả  những điều đó sẽ  giúp cho việc sung dụng tài nguyên  
quốc gia trở nên hiệu quả  hơn, đồng thời khuyến khích phát triển đầu tư  tư 
nhân trong và ngoài nước ngay trong các lĩnh vực cần nguồn vốn lớn như xây  
dựng cơ sở hạ tầng. Một ngân sách cân bằng sẽ có tác dụng tích cực hai mặt: 
giảm thiểu tốc độ  lạm phát và tăng cường hiệu quả  của việc sung dụng tài  
nguyên.

14


Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang lúng túng giải quyết bài toán lãi suất 
và tỷ giá. Sự lúng túng này đang gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng và các 
doanh nghiệp. Điều đáng quan tâm hơn là nó làm xói mòn niềm tin và tâm lý  
lạc quan đã có trước đây của các nhà đầu tư  trong và ngoài nước. Một năm 
trước đây, kỳ vọng lạc quan đã là động lực thúc đẩy đầu tư và sự tăng trưởng 
của các thị  trường: thị  trường lao động, thị  trường hàng hóa, thị  trường bất 

động sản, thị trường chứng khoán. Tâm lý lạc quan thái quá có thể  tạo ra sự 
tăng trưởng bong bóng của một số thị trường nhưng một thái độ lạc quan vẫn 
luôn luôn cần thiết để duy trì không những sự  tăng trưởng kinh tế  mà cả  sự 
ổn định. 
 Giai đoạn năm 2009 đến năm 2011
Bước vào năm 2009 nền kinh tế  nước ta gặp nhiều khó khăn, thách  
thức. Thế  nhưng chính phủ  đã kiềm chế  lạm phát thành công  ở  mức 
dưới 7%. CPI dưới mức 7% đã thực sự giúp chính phủ ổn định kinh tế 
vĩ mô và linh hoạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ
Vào năm 2010 mức lạm phát của cả nước ở mức 11,75% chỉ số tiêu 
dùng tăng tới 1,98% so với năm 2009. Con số này vượt xa so với chỉ tiêu 
do quốc hội đề ra là 8%. Trong khi nếu tính theo bình quân từng tháng 
thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009
Năm 2011 chỉ sô CPI đạt mốc >18% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ 
mô rõ rệch vào thời điểm cuối năm cũng như các định hướng cơ cấu 
kinh tế, cắt giảm lãi suất tăng hiệu quả đầu tư. Tháng 12/2011 chỉ số 
tiêu dùng cả nước tăng 0,53% đẩy CPI cả năm tăng 18,58%
a)  Nguyên nhân: 
­ Năm 2009 kiềm chế lạm phát ở mức một con số làm nền kinh tế có 
dấu hiệu phục hồi xong sự nới lỏng của CSTT và CSTK theo chương 
trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu góp phần làm thâm hụt 
ngân sách thương mại lớn. 

15


­ Tỷ giá hối doái biến động tiền VNĐ mất giá vàng đô la thì tăng giá đấy 
lạm phát tăng cao.
­ Việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu quả kèm theo việc CSTT 
phải đáp ứng giá nguyên vật liệu cơ bản. vào năm 2010 chính phủ tăng 

lương tuy nhiên trước khi tăng thì thông tin cũng đã đẩy giá mặt hàng 
thiết yếu tăng cao
­ Việc bơm tiền ra thị trường năm 2009 đã gây ra sức ép lạm phát năm 
2010
b)

 Hậu quả  :

­ Năng   suất   lao  động   xã  hội  của   Việt  Nam   năm   2010  đạt  40,3   triệu 
đồng/người, chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số 
tương  ứng của một số  nước (năm 2008 của Nhật Bản 73.824 USD,  
Brunei  72.500  USD,  Singapore  62.724  USD,  Hàn  Quốc  38.235  USD, 
Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD,  
Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD...).
­  Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ  ra cuối cùng của lạm phát. 
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP. 
­ Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi 
GDP chỉ  gấp trên 2 lần; hệ  số  giữa tốc độ  tăng của tín dụng và của 
GDP   lên   đến   trên   6,2   lần­một   hệ   số   rất   cao.   Do   vậy,   dư   nợ   tín  
dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số  tương ứng của 
nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương  
tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không 
chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ.
 Giai đoạn 2012 đến 2014

16


Vào năm 2012 chỉ  sô CPI tăng  ở  mức 6,81% , theo tổng cục thống kê  
đáng giá lạm phát năm nay chỉ  hơn mức tăng 6,52% năm 2009 một ít. 

Đây là năm có mức suy giảm mạnh và thấp hơn rất nhiều so với năm 
2010 và 2011. Dấu ấn rõ rệch của lạm phát năm 2012 là đã bất ngờ tái 
lập sự   ổn định sau 2 năm đầy bất  ổn, góp phần tích cực vào mục tiêu 
ổn định vĩ mô 
Năm 2013 lạm phát chiếm khoảng 6,4% đây là mức tăng thấp nhất 
trong 10 năm từ  2003 đến 2013. Đạt mục tiêu đề  ra la 8% thấp hơn  
mức tăng cuối 2012 là 6,81%. 
Năm 2014 là năm thứ  2 liên tiếp Việt Nam đạt được mục tiêu kép là 
tăng trưởng cao hơn 5,93% đi kèm với mức lạm phát thấp hơn 1,84% so 
với năm 2013
 6 tháng đầu năm 2015
CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2015 so với cùng kì năm trước tăng  
0,36%. Nó có tốc độ  tăng trưởng tương đối thấp bình quân mỗi tháng 
chỉ  tăng 0,1% ­>nếu không có những đột biến trong 6 tháng cuối năm 
thì CPI năm 2015 sẽ đạt mục tiêu đề ra của quốc hội
III. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
1. Tác động đến lĩnh vực sản xuất
Ở vị trí các nhà sản xuất ,khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và 
đầu ra biến động không ngừng gây ra sự   ổn định giả  tạo của quá trình sản  
xuất. Sự  mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán 
kinh doanh .Hiệu quả  sản xuất – kinh doanh  ở một vài doanh nghiệp có thể 
thay đổi gây ra những biến động về kinh tế .Nếu một doanh nghiệp nào đó có  
tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Tuy nhiên 
,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp ,không gây ảnh hưởng đến kinh 
tế  thì có thể  sẽ  kích thích tăng trưởng kinh tế  .Từ  đó sẽ  khuyến khích các 
doanh nghiệp đi vay để  mở  rộng sản xuất ,sản lượng sẽ  tăng lên. Ngoài ra  
17


cũng khuyến khích tiêu dùng ,cầu tiêu dùng tăng lên ,do đó hàng hoá bán chạy  

và cũng làm sản lượng tăng .
2. Đối với lĩnh vực lưu thông
  Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm  
hàng hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền củamình để vơ 
vét và thu gom hàng hoá ,tài sản ,tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm  
trọng quan hệ  cung – cầu hàng hoá trên thị  trường giá cả  hàng hoá tăng lên  
nhiều hơn. Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào 
lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao .Do có nhiều người tham gia  
vào lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn .Tiền vừa ở trong tay  
người bán hàng xong lại nhanh chóng bị  đẩy vào kênh lưu thông ,tốc độ  lưu  
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
2.

Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng , thương mại và ngân hàng bị thu hẹp.  

Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị 
giảm xuống. Về  phía hệ  thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng 
giảm mạnh nê không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng  với việc 
sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ không làm an 
tâm những cá nhân ,doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong 
tay. Như  vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động  vốn, hệ  thống 
ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Mà  lãi suất thực = 
lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lãi suất 
thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng 
tiền nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống  Ngân hàng không còn bình 
thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn 
bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt.
4. Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước 

Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi 
lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của 
giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được  
những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu 
18


vốn, các khoản thu cho ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà nước  
không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội, các 
nghành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại  
hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị  thâm hụt thì các mục tiêu  
cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện để  thực  
hiện.
Tóm lại: Hậu quả  của lạm phát rất nặng nề  và nghiêm trọng. Lạm phát 
gây ra hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát 
làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế 
qua giá cả  đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm  
phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại  
nặng nề. Nhưng suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của  
người lao động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả  của  
lạm phát.
Chính vì các tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức độ 
hợp lý và tỷ  lệ  lạm phát thấp (Tỷ  lệ  lạm phát phù hợp với nhịp độ  tăng  
trưởng kinh tế) trở  thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế  vĩ mô. 
Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ 
lạm phát bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì 
lạm phát ở một mức độ vừa phải, kiềm chế điều tiết được mức lạm phát đó 
thì có lợi cho sự  phát triển kinh tế, lạm phát đó không còn là một căn bệnh 
nguy hiểm nữa mà nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế
IV. NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

 Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ, theo tổng kết  
của   IMF   thường   xuất   phát   từ   chính   sách   tài   khóa   và   chính   sách   tiền   tệ 
(CSTT):   Sự   thâm   hụt   ngân   sách   kéo   dài   được   bù   đắp   bằng   việc   in   tiền, 
và/hoặc sự  chi tiêu quá mức và thất thoát lớn trong xây dựng cơ  bản của  
chính phủ  sẽ  là nguyên nhân gây ra lạm phát, hoặc CSTT quá nới lỏng, dẫn  
tới tăng cung tiền, tăng đầu tư  tín dụng quá mức v.v… cũng là nguyên nhân 
gây lạm phát. Do vậy, để kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự 
19


phối hợp rất chặt chẽ trong điều hành CSTT và chính sách tài khóa. Xét trong 
giác độ  điều  hành CSTT để  kiểm soát lạm phát (lạm phát được coi là mục 
tiêu cuối cùng của CSTT), tùy điều kiện kinh tế, mức độ  phát triển của thị 
trường   tiền   tệ,   khả   năng   điều   tiết   tiền   tệ   của   Ngân   hàng   Trung   ương  
(NHTW) mà NHTW các nước sử  dụng các công cụ  khác nhau để  kiểm soát 
lạm phát. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với những nước phát triển, là những 
nước có thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, đặc biệt là những nước  
theo đuổi khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát 
Trên cơ  sở  nghiên cứu về  biến động của giá cả  và lạm phát  ở  Việt Nam,  
chúng tôi cho rằng lạm phát  ở  Việt Nam thời gian qua là do những nguyên 
nhân sau: 
1. Về phương pháp tính 
     Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là, các  
nước thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán...; Hai là, giá đó 
là giá giao dịch mua buôn, bán buôn trên thị trường hàng hóa của các nhà kinh  
doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn  
định; Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hóa và 
dịch vụ tính CPI. 
 2. Điều tiết vĩ mô kém 
         Một thực tế  cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước  

những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị 
trường trong nước là còn nhiều bất cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược  
leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối loạn thị trường thuốc  
chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc tân 
dược. 
      3. Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước 
 Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi 
tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này  
về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh toán 
tăng lên trong kỳ  này, thì  ảnh hưởng của nó phát sinh  ở  kỳ  sau, trong ngắn 
hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14 năm qua, 
mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%­26%/năm, phù hợp với  
20


tốc độ  tăng trưởng kinh tế  và không thấy tác động rõ rệt về  lạm phát, cũng 
như giảm phát.
Để  làm sáng tỏ  luận điểm nêu trên, sau đây chúng ta xem xét quan hệ  giữa  
cung tiền và lạm phát. Chúng ta xét tăng trưởng tín dụng và lạm phát trong 
khoảng thời gian ngắn hơn:

Nguồn: IFM và VietstoctFinance
Biểu đồ cho chúng ta thấy giữa 3 yếu tố này có một sự tương quan khá chặt 
chẽ  nhưng thường có độ  trễ  nhất định. Lạm phát thường tăng hay giảm sau 
khi cung tiền tăng giảm từ  3­5. Các kiểm định thống kê chúng tôi thực hiện  
cũng cho thấy lạm phát và độ  trễ  tăng trưởng tín dụng 4­7 tháng có quan hệ 
khá chặt. Đây là một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm phát 
cao ở Việt Nam.
4. Do cầu kéo 
 Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng  

hóa và dịch vụ trên thị  trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do  
đó hầu như  không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị  trường dẫn tới 
tăng giá một hay một số  mặt hàng nào  đó. Song trong năm 2004, do  ảnh 
hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm giảm 

21


mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục  
tăng lên, làm cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến.
5. Do chi phí đẩy 
 Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu  
trên thị  trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên 
liệu nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm  
cho giá bán lẻ  trong nước cũng tăng lên. Chỉ  riêng mặt hàng xăng dầu trong  
năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần. 
 Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời 
gian qua. Với một nền kinh tế  khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% 
GDP (2008), sự biến động của giá cả  trên thế  giới tác động ngay đến giá cả 
trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng  
trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm  
và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự  tăng giá của hầu hết các  
hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát  ở  Việt Nam bùng phát. Tuy 
nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế giới  
không thể  giải thích hoàn toàn cho lạm phát  ở  Việt Nam. Quan sát bảng sau  
chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa  
trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài  
nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên 
nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ  lạm phát ở  Việt Nam chính là lạm phát 
do nguyên nhân cung tiền.


22


(Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm phát ở Việt  
Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác)
6. Do tâm lý dân chúng 
 Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt 
hàng đang leo thang hàng ngày, gây tâm lý bất  ổn trong dân chúng thì tiếp đó 
(đầu năm 2004).
  
V. GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
1. Định hướng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới
Đối với Việt Nam mức lạm phat nao la tối ưu cho tăng trưởng kinh tế?
Các ngưỡng cung với các phân tích nêu trên có thể cung cấp một mức chuẩn  
cho Việt Nam, với một thực tế  rằng, các doanh nghiệp Việt Nam và người  
tiêu dùng không thích một mức lạm phát cao và không ổn định. Mức lạm phát 
chuẩn của Việt Nam có thể gần với mức lạm phát của các nước Đông Nam 
Á. Nghiên cứu bước đầu của Quỹ tiền tệ quốc tế(IFM) năm 2006 về mức độ 
lạm phát  ở  Việt Nam với các nước Đông Nam Á cũng đã chỉ  ra răng , mức  
lạm lạm phát tối  ưu cho tăng trưởng kinh tế   ở cac nước vùng Đông Nam Á,  
trong đó có Việt Nam khoảng 3.6%.
Một thực tế  rằng, các kết quả  nghien cứu về  ngưỡng lạm phát tốt cho tăng 
trưởng đều không đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu  
hỏi quan trọng cho Việt Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối 
quan hệ với tăng trưởng kinh tế.
2. Giải pháp kiểm soát lạm phát ở VN hiện nay
       2.1. Giải pháp tình thế 
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm 
phát” trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện 

pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm 
phát.
Thứ  nhất: các biện pháp tình thế  thường được chính phủ  các nước áp 
dụng, trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế  như  ngừng phát 
23


hành tiền vào lưu thông. Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền 
tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các 
biện pháp có thể  đưa đến tăng cung  ứng tiền tệ  như  ngừng thực hiện các  
nghiệp vụ  triết khấu và tái triết khấu đối với các tổ  chức tín dụng , dừng  
việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị  trường tiền tệ  ,không phát 
hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm  
giảm lượng tiền cung  ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung  ương bán 
ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị  trường tiền tệ  , bán ngoại tệ  và vay , 
phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp 
cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi suất 
tiền gửi tiét kiệm dân cư . các biệnpháp này rất có hiệu lực vì trong một thời  
gian ngắn nó có thể  giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi  
trong dân cư  do đó giảm được sức ép lên giá cả  hàng hoá và dịch vụ  trên thị 
trường .  ở việt nam các biện pháp này đã dược áp dụng thành công vào cuối  
những năm 80, đầu những năm 90 .
Thứ hai :thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản  
chi
chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu  
đến mức có thể được .
Thứ ba : tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong 
lưu
thông bằng cách khuyến khichs tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và các 
biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.

Thứ tư : đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .
Thứ năm : cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp 
trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn .
   2.2. Giải pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế 
quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho
 đất nước.

24


Thứ nhất : thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông 
hàng
hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để  hạn chế  lạm phát , duy trì sự 
ổn định tiền tệ  trong nền kinh tế  quốc dân . Sản xuất trong nước càng phát 
triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng thu hút 
ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …
Thứ  hai : kiện toàn bộ  máy hành chính , cắt giảm biên chế  quản lý hành  
chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu  
thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .
Thứ ba : tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ 
sở
tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là 
thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước .
     2.3. Các biện pháp chủ yếu chống lạm phát ở Việt Nam
   Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng 
trong năm 2008 thích hợp trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung  
chỉ  đạo và điều hành nhằm kiềm chế  lạm phát,  ổn định kinh tế  vĩ mô, đảm 
bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. 
 2.3.1  Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng 

 Chính phủ  tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên 
tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ  động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu  
chống lạm phát,  ổn định kinh tế  vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn  
phục vụ phát triển kinh tế. 
 Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về  việc Ngân hàng Nhà nước 
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết 
chặt cho vay... với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy 
nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút 
nào.
Ngay từ  tháng 1/2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương 
mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên 
25


×