BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Tên đề tài:LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN
NAY. NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC
Sinh viên thực hiện: Lê Đức Minh Hiếu
Lớp: 56KT1
Nha Trang, tháng 9 năm 2015
1
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia
đều đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng
gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia
còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát
triển.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trường.Nó
là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng
chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng
hoá tiền tệ. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát,
không có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu
thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế
độ xã hội nào.
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế
thị trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay
để đánh giá sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà.
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của
nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị
trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận
cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh
nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh
tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi
cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát.
Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong
muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các
nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng
toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao
động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn
2
định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm,
nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và
chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát.
Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của
hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm
nhanh.
Bài viết này với đề tài: “LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN
NAY. NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC”.
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt
thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến thức còn
hạn chế, chúng em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp
để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn.
PHẦN II : NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Định nghĩa lạm phát
Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền
vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này
không giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế
giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn
có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự
tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường
các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện
tượng tăng
lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian.
Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá
cả chỉ tăng tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán
ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động
cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh
3
tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự
cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.
Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là
Milton Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và
liên tục trong một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức
giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của
lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với
tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến
thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy,
cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể nghe trên đài, báo hay
vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng
trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể chỉ là sự thay
đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi
nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu
hiện của lạm phát cao.
2. Lạm phát được tính như thế nào?
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường
4
dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên
đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này).
Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa
ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của
một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của
chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ
số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.
Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là CPI – Chỉ số giá tiêu
dùng (consumer price index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá
và dịch vụ khác nhau, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch
vụ y tế…, được mua bởi “người tiêu dùng thông thường”.
Hiện nay, CPI của Việt Nam đo giá cả của khoảng 400 loại hàng hoá, trong
khi đó để tính CPI ở Mỹ người ta điều tra tới 80.000 loại hàng hoá và dịch vụ.
Không những thế, CPI còn được tính riêng cho nhóm người tiêu dùng nông
thôn, thành thị, công nhân viên chức thành thị…
5
3. Phân loại lạm phát
Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế chia lạm phát thành 3 loại
khác nhau: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ
thấp, dưới 10% một năm. Chính phủ các nước luôn mong muốn duy trì một tỷ
lệ lạm phát nhất định ở mức độ vừa phải (lạm phát mục tiêu) vì nó mang lại
tác dụng tốt cho nền kinh tế. Thông thường, mức lạm phát mục tiêu nằm
trong giới hạn của mức lạm phát vừa phải. Với mức lạm phát này, giá cả
tăng chậm đến nỗi người ta không cảm nhận là đang có lạm phát và do đó
được coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong trường hợp này, dân chúng vẫn
còn tin vào giá trị đồng tiền.
Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số trong vòng một năm (từ
10% đến 100%). Với mức lạm phát này, mức độ tăng giá gây tác hại nghiêm
trọng
đối
với
nền kinh tế, thể hiện bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong
trường hợp này người dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới
dạng phi tiền tệ. Việt Nam trong những năm của thập niên 80 rơi vào tình
trạng lạm phát này. Giá cả luôn luôn tăng ở mức 3 con số.
Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ tăng giá trên ba con số trong
vòng một năm. Đồng tiền bị mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm
ngập trong khối tiền để tìm kiếm một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết
sức khan hiếm. Trong trường hợp này, chức năng quan trọng đầu tiên của tiền
là làm phương tiện trao đổi bị triệt tiêu. Tiền có sẵn nhưng không mua được
hàng hóa vì không ai muốn bán hàng hóa để đổi lấy những đồng tiền bị mất giá
quá mức.
6
II.
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 2004 ĐẾN 2015
1. Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2010. Chi
tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau
năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến
40% từ năm 2004 đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi
dưỡng. Đến hôm nay lạm phát quay trở lại. Năm 2004 đã xuất hiện những
dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng
đã không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu
hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố
mạnh mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”. Thực tế cho thấy thì
lạm phát năm 2007 khoảng 12%, năm 2008 thi lên đến 22% một con số đáng
báo động cho một nền kinh tế non trẻ như việt nam.Cùng với những biện
pháp kiềm chế lạm phát bước sang năm 2009 lạm đã giảm chỉ con 6%. Dự
báo mới nhất cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở
mức 6%. Lạm phát có thể tăng từ 7% trong năm 2009 lên mức hai con số do
tăng trưởng tín dụng mạnh trong thời gian gần đây. Giá hàng hóa thế giới cao
trở lại cũng sẽ tác động đến giá cả trong nước. Bên cạnh nguy cơ lạm phát
lên 2 con số. Đây là một bài toán đau đầu cho các nhà kinh tế làm sao để đạt
được các mục tiêu kinh tế đề ra.
2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2015
Biểu đồ về thực trạng lạm phát ở VIỆT NAM trong 10 năm gần
đây
7
Giai đoạn từ năm 2004 đến 2008
Năm 2004: tỷ lệ lạm phát giảm từ giai đoạn 1998 đến năm 2000,đặc
biệt năm 2000 tỷ lệ lạm phát là 0,1% và năm 2001 là 0,6%.Thế nhưng
lạm phát bắt đầu tăng lại từ năm 2002 và trở nên mạnh hơn vào đầu
năm 2004 với tỉ lệ lạm phát đạt mức 9,5%. Đây là con số cao nhất kể
từ năm 1995 đến 2004.
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước
ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư
trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ
USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn
đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước
tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện
trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD
(năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Vi ệt
Nam hàng năm từ 57 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt
thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển
vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ
ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng
4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ
ngoại tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng
VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện
biện pháp Vô hiệu hóa lượng tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền
trong nền kinh tế tăng lên.
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ
thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007
đạt 49.1%.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia
(tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số
8
dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2
con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc
gia. Điều này dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính
phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia.Có sự tác động mạnh tới đời
sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.
Sau 12 năm kiểm soát được lạm phát(19952007) thì tình hình lạm phát
hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ
dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ. Lạm phát
trong năm 2011 sẽ không vượt quá 7% và chỉ trong quý một năm 2011,
lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1%. Thực trạng này đã khiến mục tiêu
kìm chân lạm phát ở mức 7% của Quốc hội trở thành một nhiệm vụ
bất khả thi trong năm nay. Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm
xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng
trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng
trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là
8,5 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy
nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của
quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát
năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ
số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba
lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua
mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về
kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về
tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)... Nhà cầm
quyền trung ương cũng nhắm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng 7% cho năm
nay, so với 6.8% của năm 2010. Trong năm 2010, tỷ lệ lạm phát của
Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình có vẻ như
không có dấu hiệu khả quan hơn. Tín dụng dự trù chỉ tăng 23% so với
năm ngoái. Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ
vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn
9
các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng
với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường
chứng khoán cũng phát triển bùng nổ, giá cả các mặt hàng phi lương
thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng
kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở
Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát.Chỉ số
tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất
cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7%
mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10
năm qua. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để
mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong
lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức
tăng 38%, đây là cuộc lạm phát tiền tệ. Ngoài ra giá nguyên liệu, nhiên
liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…)
trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh
tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến
90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong
nước. Cuộc lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị
trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình
quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo
cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Mục tiêu tăng
trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là
8,5 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tác động
lạm phát của Việt Nam năm nay 2011 là nhập khẩu lạm phát. Bởi vì tác
nhân của Việt Nam là tình trạng nhập siêu rất là lớn, mà trong đó các
yếu tố về hàng hóa nguyên liệu cơ bản trên thế giới dự kiến gia tăng
trong năm nay. Theo đó Tổ chức Lương nông Quốc tế (FAO) công bố
chỉ số giá lương thực cuối năm 2010 là 214,7 điểm vượt qua mức 213,5
điểm thời gian khủng hoảng lương thực 2008. Giá ngũ cốc toàn cầu
tăng nhanh, ngoại trừ giá gạo vẫn đứng thấp hơn nhiều so với mức kỷ
lục. Giá đường tăng cao nhất trong vòng 30 năm gần đây, giá các loại
hạt có dầu và thịt cùng leo thang.Lạm phát được đẩy lên cao vì giá
10
lương thực tăng, đây là mối quan ngại lớn lao của những nền kinh tế
mới nổi trong đó có Việt Nam. Trong tình hình biến động giá thế giới
như vậy, rõ ràng ‘ẩn số lớn của lạm phát Việt Nam 2011 là giá thực
phẩm.Tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của
quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát
năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ
số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp
ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua
mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về
kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu phí USD), cả
về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%). Năm
2010,việc giảm tỷ lệ lạm phát cả năm xuống một con số vào cuối năm
đòi hỏi tỷ lệ lạm phát trung bình từ giờ đến hết năm phải xuống dưới
0,4%,đây là một thách thức. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính
đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam đã tăng tới
9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu
năm.Sau đây là số liệu thu thập được từ năm 20052008:
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Năm 2005
1.1
3.1
3.7
4.3
4.8
5.2
5.6
6.0
6.8
7.0
7.6
8.9
Năm 2006
1.2
2.1
2.8
3.0
3.6
4.0
4.4
4.8
5.1
5.4
6.0
6.6
Năm 2007
1.0
2.1
3.2
3.4
4.3
5.7
6.2
6.8
7.3
8.2
9.4
12.6
Năm 2008
14.1
6.0
9.2
21.4
25.2
26.8
27.04
26.32
27.90
25.7
Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn: 2005 2008
11
Các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD
(8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7%
GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị
trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ. . Ở các nước châu Á khác,
giá lương thực thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát,
nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên
10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và
thanh khoản dồi dào
Trong những tháng đầu năm 2011, kiềm chế lạm phát vẫn là ưu tiên hàng
đầu trong các chính sách kinh tế của Việt Nam. Lạm phát ở mức cao là một
12
hiện trạng không thể tránh khỏi đối với một nền kinh tế đang trên đà phát
triển như Việt Nam. Lạm phát giống như con dao hai lưỡi nếu biết cách sử
dụng thì con dao ấy sẽ là vũ khí sắc bén để giúp Việt Nam hoàn thành mục
tiêu phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong tương
lai gần.
Cuộc chiến chống lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giúp phát hiện hai
vấn đề: Một về cơ cấu và một về điều hành kinh tế vĩ mô. Về cơ cấu, nền
kinh tế của chúng ta đang đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng về sung
dụng tài nguyên. Sử dụng tài nguyên không hiệu quả đã làm lãng phí đồng
vốn, lãng phí nhân lực, lãng phí tài nguyên thiên nhiên trong một thời gian dài.
Hệ số ICOR cao (4,5) cho thấy nền kinh tế Việt Nam là một trong những nền
kinh tế có đầu tư kém hiệu quả nhất trong khu vực, và có năng lực cạnh tranh
rất thấp. Những hệ quả tiếp theo của nó càng ngày càng lộ rõ như thâm hụt
cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng (chỉ riêng năm tháng đầu năm
2008, con số này đã lên đến 14,4 tỉ USD), khiếm hụt ngân sách luôn được duy
trì ở mức 5% GDP trong nhiều năm, và kết quả tất nhiên của nó là tốc độ lạm
phát của nền kinh tế ngày càng gia tăng (theo một ước lượng đáng tin cậy,
nếu loại trừ tác động tăng giá của thị trường thế giới như giá dầu và giá
lương thực, tốc độ lạm phát do tác động nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu
xuất phát từ vấn đề sử dụng tài nguyên không hiệu quả, đã lên đến từ 8
10%/năm). Tuy nhiên, giải quyết vấn đề cơ cấu là một việc làm lâu dài, đòi
hỏi một quyết tâm chính trị rất cao. Bài toán về cơ cấu là bài toán không thể
có lời giải một sớm một chiều, nhưng đó là một bài toán phải kiên trì giải
quyết ngay từ bây giờ, vì rằng đó là bài toán sinh tử, quyết định tương lai phát
triển và cường thịnh hay không của nền kinh tế Việt.
13
Về điều hành kinh tế vĩ mô, chúng ta đang gặp phải các vấn đề trong
chính sách ngân sách và chính sách tiền tệ. Nếu mục tiêu của chính sách ngân
sách vẫn là duy trì một mức khiếm hụt lên đến 5%/GDP tiếp tục trong thời
gian dài, những nỗ lực kiểm soát lạm phát nhằm ổn định kinh tế vĩ mô sẽ rất
khó thành công. Mục tiêu cân bằng ngân sách cần phải là một mục tiêu được
hướng tới kể từ bây giờ. Những nỗ lực chống lạm phát trước hết phải được
thể hiện bởi một quyết tâm từ phía Chính phủ, cụ thể hóa bởi các hành động
tiết kiệm ngân sách: tinh giản bộ máy hành chính, tiết kiệm công chi, giảm
đầu tư công. Tất cả những điều đó sẽ giúp cho việc sung dụng tài nguyên
quốc gia trở nên hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích phát triển đầu tư tư
nhân trong và ngoài nước ngay trong các lĩnh vực cần nguồn vốn lớn như xây
dựng cơ sở hạ tầng. Một ngân sách cân bằng sẽ có tác dụng tích cực hai mặt:
giảm thiểu tốc độ lạm phát và tăng cường hiệu quả của việc sung dụng tài
nguyên.
14
Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang lúng túng giải quyết bài toán lãi suất
và tỷ giá. Sự lúng túng này đang gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng và các
doanh nghiệp. Điều đáng quan tâm hơn là nó làm xói mòn niềm tin và tâm lý
lạc quan đã có trước đây của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một năm
trước đây, kỳ vọng lạc quan đã là động lực thúc đẩy đầu tư và sự tăng trưởng
của các thị trường: thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường bất
động sản, thị trường chứng khoán. Tâm lý lạc quan thái quá có thể tạo ra sự
tăng trưởng bong bóng của một số thị trường nhưng một thái độ lạc quan vẫn
luôn luôn cần thiết để duy trì không những sự tăng trưởng kinh tế mà cả sự
ổn định.
Giai đoạn năm 2009 đến năm 2011
Bước vào năm 2009 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Thế nhưng chính phủ đã kiềm chế lạm phát thành công ở mức
dưới 7%. CPI dưới mức 7% đã thực sự giúp chính phủ ổn định kinh tế
vĩ mô và linh hoạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ
Vào năm 2010 mức lạm phát của cả nước ở mức 11,75% chỉ số tiêu
dùng tăng tới 1,98% so với năm 2009. Con số này vượt xa so với chỉ tiêu
do quốc hội đề ra là 8%. Trong khi nếu tính theo bình quân từng tháng
thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009
Năm 2011 chỉ sô CPI đạt mốc >18% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ
mô rõ rệch vào thời điểm cuối năm cũng như các định hướng cơ cấu
kinh tế, cắt giảm lãi suất tăng hiệu quả đầu tư. Tháng 12/2011 chỉ số
tiêu dùng cả nước tăng 0,53% đẩy CPI cả năm tăng 18,58%
a) Nguyên nhân:
Năm 2009 kiềm chế lạm phát ở mức một con số làm nền kinh tế có
dấu hiệu phục hồi xong sự nới lỏng của CSTT và CSTK theo chương
trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu góp phần làm thâm hụt
ngân sách thương mại lớn.
15
Tỷ giá hối doái biến động tiền VNĐ mất giá vàng đô la thì tăng giá đấy
lạm phát tăng cao.
Việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu quả kèm theo việc CSTT
phải đáp ứng giá nguyên vật liệu cơ bản. vào năm 2010 chính phủ tăng
lương tuy nhiên trước khi tăng thì thông tin cũng đã đẩy giá mặt hàng
thiết yếu tăng cao
Việc bơm tiền ra thị trường năm 2009 đã gây ra sức ép lạm phát năm
2010
b)
Hậu quả :
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu
đồng/người, chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số
tương ứng của một số nước (năm 2008 của Nhật Bản 73.824 USD,
Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc 38.235 USD,
Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD,
Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD...).
Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP.
Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi
GDP chỉ gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của
GDP lên đến trên 6,2 lầnmột hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín
dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số tương ứng của
nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương
tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không
chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ.
Giai đoạn 2012 đến 2014
16
Vào năm 2012 chỉ sô CPI tăng ở mức 6,81% , theo tổng cục thống kê
đáng giá lạm phát năm nay chỉ hơn mức tăng 6,52% năm 2009 một ít.
Đây là năm có mức suy giảm mạnh và thấp hơn rất nhiều so với năm
2010 và 2011. Dấu ấn rõ rệch của lạm phát năm 2012 là đã bất ngờ tái
lập sự ổn định sau 2 năm đầy bất ổn, góp phần tích cực vào mục tiêu
ổn định vĩ mô
Năm 2013 lạm phát chiếm khoảng 6,4% đây là mức tăng thấp nhất
trong 10 năm từ 2003 đến 2013. Đạt mục tiêu đề ra la 8% thấp hơn
mức tăng cuối 2012 là 6,81%.
Năm 2014 là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam đạt được mục tiêu kép là
tăng trưởng cao hơn 5,93% đi kèm với mức lạm phát thấp hơn 1,84% so
với năm 2013
6 tháng đầu năm 2015
CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2015 so với cùng kì năm trước tăng
0,36%. Nó có tốc độ tăng trưởng tương đối thấp bình quân mỗi tháng
chỉ tăng 0,1% >nếu không có những đột biến trong 6 tháng cuối năm
thì CPI năm 2015 sẽ đạt mục tiêu đề ra của quốc hội
III. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
1. Tác động đến lĩnh vực sản xuất
Ở vị trí các nhà sản xuất ,khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và
đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản
xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán
kinh doanh .Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể
thay đổi gây ra những biến động về kinh tế .Nếu một doanh nghiệp nào đó có
tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Tuy nhiên
,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp ,không gây ảnh hưởng đến kinh
tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế .Từ đó sẽ khuyến khích các
doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra
17
cũng khuyến khích tiêu dùng ,cầu tiêu dùng tăng lên ,do đó hàng hoá bán chạy
và cũng làm sản lượng tăng .
2. Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm
hàng hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền củamình để vơ
vét và thu gom hàng hoá ,tài sản ,tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm
trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên
nhiều hơn. Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào
lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao .Do có nhiều người tham gia
vào lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn .Tiền vừa ở trong tay
người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông ,tốc độ lưu
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
2.
Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng , thương mại và ngân hàng bị thu hẹp.
Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị
giảm xuống. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng
giảm mạnh nê không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc
sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ không làm an
tâm những cá nhân ,doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong
tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, hệ thống
ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Mà lãi suất thực =
lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lãi suất
thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng
tiền nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình
thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn
bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt.
4. Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi
lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của
giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được
những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu
18
vốn, các khoản thu cho ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà nước
không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội, các
nghành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại
hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu
cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện để thực
hiện.
Tóm lại: Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát
gây ra hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát
làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế
qua giá cả đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm
phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại
nặng nề. Nhưng suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của
người lao động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của
lạm phát.
Chính vì các tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức độ
hợp lý và tỷ lệ lạm phát thấp (Tỷ lệ lạm phát phù hợp với nhịp độ tăng
trưởng kinh tế) trở thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ
lạm phát bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì
lạm phát ở một mức độ vừa phải, kiềm chế điều tiết được mức lạm phát đó
thì có lợi cho sự phát triển kinh tế, lạm phát đó không còn là một căn bệnh
nguy hiểm nữa mà nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế
IV. NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ, theo tổng kết
của IMF thường xuất phát từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
(CSTT): Sự thâm hụt ngân sách kéo dài được bù đắp bằng việc in tiền,
và/hoặc sự chi tiêu quá mức và thất thoát lớn trong xây dựng cơ bản của
chính phủ sẽ là nguyên nhân gây ra lạm phát, hoặc CSTT quá nới lỏng, dẫn
tới tăng cung tiền, tăng đầu tư tín dụng quá mức v.v… cũng là nguyên nhân
gây lạm phát. Do vậy, để kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự
19
phối hợp rất chặt chẽ trong điều hành CSTT và chính sách tài khóa. Xét trong
giác độ điều hành CSTT để kiểm soát lạm phát (lạm phát được coi là mục
tiêu cuối cùng của CSTT), tùy điều kiện kinh tế, mức độ phát triển của thị
trường tiền tệ, khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
(NHTW) mà NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau để kiểm soát
lạm phát. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với những nước phát triển, là những
nước có thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, đặc biệt là những nước
theo đuổi khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát
Trên cơ sở nghiên cứu về biến động của giá cả và lạm phát ở Việt Nam,
chúng tôi cho rằng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua là do những nguyên
nhân sau:
1. Về phương pháp tính
Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là, các
nước thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán...; Hai là, giá đó
là giá giao dịch mua buôn, bán buôn trên thị trường hàng hóa của các nhà kinh
doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn
định; Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hóa và
dịch vụ tính CPI.
2. Điều tiết vĩ mô kém
Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước
những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị
trường trong nước là còn nhiều bất cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược
leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối loạn thị trường thuốc
chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc tân
dược.
3. Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi
tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này
về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh toán
tăng lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong ngắn
hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14 năm qua,
mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%26%/năm, phù hợp với
20
tốc độ tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm phát, cũng
như giảm phát.
Để làm sáng tỏ luận điểm nêu trên, sau đây chúng ta xem xét quan hệ giữa
cung tiền và lạm phát. Chúng ta xét tăng trưởng tín dụng và lạm phát trong
khoảng thời gian ngắn hơn:
Nguồn: IFM và VietstoctFinance
Biểu đồ cho chúng ta thấy giữa 3 yếu tố này có một sự tương quan khá chặt
chẽ nhưng thường có độ trễ nhất định. Lạm phát thường tăng hay giảm sau
khi cung tiền tăng giảm từ 35. Các kiểm định thống kê chúng tôi thực hiện
cũng cho thấy lạm phát và độ trễ tăng trưởng tín dụng 47 tháng có quan hệ
khá chặt. Đây là một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm phát
cao ở Việt Nam.
4. Do cầu kéo
Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng
hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do
đó hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới
tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó. Song trong năm 2004, do ảnh
hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm giảm
21
mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục
tăng lên, làm cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến.
5. Do chi phí đẩy
Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu
trên thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên
liệu nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm
cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong
năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần.
Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời
gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90%
GDP (2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả
trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng
trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm
và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các
hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát. Tuy
nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế giới
không thể giải thích hoàn toàn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan sát bảng sau
chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa
trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài
nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên
nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam chính là lạm phát
do nguyên nhân cung tiền.
22
(Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm phát ở Việt
Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác)
6. Do tâm lý dân chúng
Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt
hàng đang leo thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn trong dân chúng thì tiếp đó
(đầu năm 2004).
V. GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
1. Định hướng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới
Đối với Việt Nam mức lạm phat nao la tối ưu cho tăng trưởng kinh tế?
Các ngưỡng cung với các phân tích nêu trên có thể cung cấp một mức chuẩn
cho Việt Nam, với một thực tế rằng, các doanh nghiệp Việt Nam và người
tiêu dùng không thích một mức lạm phát cao và không ổn định. Mức lạm phát
chuẩn của Việt Nam có thể gần với mức lạm phát của các nước Đông Nam
Á. Nghiên cứu bước đầu của Quỹ tiền tệ quốc tế(IFM) năm 2006 về mức độ
lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á cũng đã chỉ ra răng , mức
lạm lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở cac nước vùng Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam khoảng 3.6%.
Một thực tế rằng, các kết quả nghien cứu về ngưỡng lạm phát tốt cho tăng
trưởng đều không đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu
hỏi quan trọng cho Việt Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối
quan hệ với tăng trưởng kinh tế.
2. Giải pháp kiểm soát lạm phát ở VN hiện nay
2.1. Giải pháp tình thế
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm
phát” trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện
pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm
phát.
Thứ nhất: các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp
dụng, trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát
23
hành tiền vào lưu thông. Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền
tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các
biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các
nghiệp vụ triết khấu và tái triết khấu đối với các tổ chức tín dụng , dừng
việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ ,không phát
hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm
giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán
ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , bán ngoại tệ và vay ,
phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp
cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi suất
tiền gửi tiét kiệm dân cư . các biệnpháp này rất có hiệu lực vì trong một thời
gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi
trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị
trường . ở việt nam các biện pháp này đã dược áp dụng thành công vào cuối
những năm 80, đầu những năm 90 .
Thứ hai :thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản
chi
chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu
đến mức có thể được .
Thứ ba : tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong
lưu
thông bằng cách khuyến khichs tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và các
biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.
Thứ tư : đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .
Thứ năm : cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp
trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn .
2.2. Giải pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho
đất nước.
24
Thứ nhất : thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông
hàng
hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy trì sự
ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân . Sản xuất trong nước càng phát
triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng thu hút
ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …
Thứ hai : kiện toàn bộ máy hành chính , cắt giảm biên chế quản lý hành
chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu
thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .
Thứ ba : tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ
sở
tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là
thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước .
2.3. Các biện pháp chủ yếu chống lạm phát ở Việt Nam
Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng
trong năm 2008 thích hợp trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung
chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm
bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế.
2.3.1 Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên
tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu
chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn
phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết
chặt cho vay... với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy
nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút
nào.
Ngay từ tháng 1/2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương
mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên
25