Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ: Hợp tác giữa các công ty Fintech và các ngân hàng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.38 KB, 21 trang )

ĐAI HOC QUÔC GIA THANH PHÔ HÔ CHI MINH
̣
̣
́
̀
́ ̀
́
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ­ LUẬT

NHÓM 6

HỢP TÁC GIỮA 
CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC 
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

MÔN: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ


TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019

ii


ĐAI HOC QUÔC GIA THANH PHÔ HÔ CHI MINH
̣
̣
́
̀
́ ̀
́
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ­ LUẬT



    NHÓM 6:
Họ và tên 

Mã số HV

Mail

Đơn vị công tác

Lê Tiêu Ngọc Liên

C18604009 letieungoclien@

2

Vũ Thị Thanh 

gmail.com
GDNK
C18604037 tuyenvtt18604@ Cục thuế 

3

Tuyền
Nguyễn Anh Vũ

sdh.uel.edu.vn
TP.HCM
C18604041 vuna18604@sdh Thanh tra 


1

.uel.edu.vn

Công ty TNHH 

TP.HCM

HỢP TÁC GIỮA 
CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC 
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên nganh: 
̀ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 
MÔN: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

iii


TP.HỒ CHÍ MINH,  NĂM 2019

iv


MỤC LỤC
 MỤC LỤC V
 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..............................................................................VI
 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU.............................................................VII
 TÓM TẮT: .............................................................................................................................1
1. GIỚI THIỆU........................................................................................................................1

2. TỔNG QUAN VỀ FINTECH.....................................................................................................2
3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY FINTECH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM.....5
4. HỢP TÁC GIỮA CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM.........................5
4.1  LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM:.............................................5
4.2  LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TY FINTECH TẠI VIỆT NAM.....................................6
5. MỘT SỐ HỢP TÁC GIỮA FINTECH VÀ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM
..............................................................................................................................................9
6. CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN VÀ HỢP TÁC GIỮA CÁC CÔNG TY FINTECH VÀ CÁC 
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM. .................................................................................................11

6.1 Các vấn đề đặt ra cho các ngân hàng....................................................................11
6.2  Các vấn đề đặt ra cho ngân hàng nhà nước.........................................................11
7. KẾT LUẬN .......................................................................................................................13
 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................1

v


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NH
NHNN
NHTM
TCNH
KH

Ngân hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Tài chính ngân hàng
Khách hàng


vi


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
HÌNH 1: 67 CÔNG TY FINTECH HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM, THỐNG KÊ 
BỞI EY

3

vii


Trang 1/12

Tóm tắt: 
Sự  ra đời và phát triển của các công ty fintech đã làm thay đổi kênh phân 
phối và các sản phẩm dịch vụ truyền thống của ngành TCNH. Xu thế phát triển  
mạnh của các kênh giao dịch trực tuyến như: internet banking, mobile banking, 
mạng xã hội, ví điện tử  … . Sử  dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk 
Research), từ  quan sát thực trạng hoạt động của các NHTM hiện nay và sự  mở 
rộng phát triển của các công ty fintech, có thể  thấy được tại Việt Nam tuy các 
NHTM đã và đang nghiên cứu phát triển các thiết bị  tự  phục vụ  dựa trên công 
nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều nhưng việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng 
vẫn có nhiều mặt hạn chế  và trì trệ  trong khi các công ty fintech đã áp dụng  
thành công nhiều công nghệ đột phá nhưng lại vẫn chưa thể khai thác được hết  
trong thị trường TCNH do thói quen của người Việt Nam, liên quan đến tài chính  
họ thường chỉ nghĩ đến NH, làm thủ tục tại NH, tạo sự yên tâm hoặc chưa quan 
tâm đến công nghệ, mặc dù sản phẩm công nghệ tài chính rất thuận tiện, nhanh  
chóng nhưng KH vẫn còn e ngại. Vì vậy, để  tạo bước đột phá trong ngành tài 

chính, thay đổi quan niệm về cách thức hoạt động tài chính của khách hàng, thu 
hút nhiều khách hàng tiến tới thực hiện ngàng tài chính hiện đại thì việc hợp tác 
giữa các công ty fintech và các NHTM sẽ  là một xu hướng để  phát triển. Đây 
không chỉ là một trong những thách thức lớn không chỉ đối với các NHTM mà còn 
là một thách thức lớn đặc ra cho NHNN khi thực trạng hiện nay tại Việt Nam các  
công ty fintech và các NH đang phát triển mạnh mẽ về công nghệ thì vẫn chưa có  
một khung pháp lí nào trong lĩnh vực này.
Từ Khóa: fintech, tài chính ngân hàng, hợp tác, Việt Nam.
1. Giới thiệu
Cuộc cách mạng công nghệ  lần VI đã mở  ra xu hướng mới trong việc tự 
động hóa, là một cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra với tốc độ nhanh và có tác 
động sâu sắc trên toàn thế  giới. Cuộc cách mạng diễn ra trên 3 lĩnh vực chính: 


Trang 2/12

công nghệ sinh học, kĩ thuật số và vật lí. Đặc biệt, là ở vĩnh vực kĩ thuật số với  
sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), vận vật kết nối (loT) và dữ liệu lớn (Big  
Data). Cuộc cách mạng đã tạo ra một diện mạo mới cho thế giới và tác động đến  
toàn cầu đặc biệt đã tác động đến mô hình tổ chức và quản trị ngành TCNH.
Trong những năm gần đây thì cụm từ fintech không còn xa lạ gì đối với người  
dân trên toàn thế giới. Đặc biệt, tại Việt Nam fintech đã và đang phát triển một 
cách mạng mẽ. Việc áp dụng công nghệ vào lĩnh vực TCNH đã không còn là một  
việc xa lạ  với các NHTM. Khi cơ sở hạ  tầng và các phát triển về  điện tử  viễn 
thông đang ngày càng tiến bộ vượt bậc thì việc tiếp cận là vô cùng dễ dàng với  
KH. Các NHTM đang nghiên cứu triển khai để ứng dụng vào thực tế và việc các 
NHTM bắt tay với các công ty fintech thời gian gần đây đang dần tăng lên. Vậy 
câu   hỏi   đặt   ra   fintech   là   gì?   Fintech   ảnh   hưởng   như   thế   nào   đối   với   ngành  
TCNH? Cũng như các vấn đề đặt ra cho NHTM và NHNN trong thời kì hội nhập 
và phát triển fintech.  

2. Tổng quan về fintech
Fintech là viết tắt của từ Financial Technology ­ công nghệ tài chính, hiện nay 
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào về fintech. Tuy nhiên, vào năm 2018  
theo  Ủy ban Basel về  giám sát NH (BCBS) thì fintech là “các sáng tạo tài chính 
dựa trên nền tảng công nghệ  để  tạo ra các mô hình kinh doanh,  ứng dụng, quy 
trình, sản phẩm mới có tác động cụ thể đến các thị trường và định chế tài chính, 
cũng như trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính”. [1]
Hiện nay, trên toàn thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến fintech, hầu 
hết tất cả  các nghiên cứu về  fintech đều nhận định rằng fintech đã có tác động 
mạnh mẽ  đến các hoạt động TCNH. Trên toàn thế  giới đã có rất nhiều đầu tư 
vào fintech, tại Việt Nam tuy chỉ mới xuất hiện những năm gần đây nhưng tính  
đến hết năm 2017 thì thị trường fintech của Việt Nam đã đạt được 4,4 tỉ USD và  
hiện có 67 công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhưng phần lớn tập 
trung vào mảng thanh toán. Theo ông Nghiêm Thanh Sơn – Phó Trưởng ban chỉ 
đạo fintech NHNN cho biết: "phần lớn các công ty fintech của Việt Nam hoạt  


Trang 3/12

động trong lĩnh vực thanh toán, và đã có 26 doanh nghiệp được Ngân hàng nhà 
nước cấp phép cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán. Hiện đã có 78 ngân hàng  
triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 41 ngân hàng triển khai dịch vụ thanh 
toán qua điện thoại di động"[2] 

Hình 1: 67 công ty Fintech hoạt động tại Việt Nam, thống kê bởi EY

Theo Brian Boldt (2017) thì “Các công ty fintech là các doanh nghiệp sử dụng 
công nghệ mới để tạo ra các dịch vụ tài chính mới và tốt hơn cho cả người tiêu  
dùng và doanh nghiệp. Nó bao gồm những công ty thuộc các loại hình có thể hoạt 
động trong quản lý tài chính, bảo hiểm, thanh toán, quản lý tài sản ...” [3]

Các công ty fintech được chia thành 2 nhóm: 
­   Nhóm thứ  nhất là các công ty cung cấp các sản phẩm tài chính mới cho  
người dùng, bao gồm tất cả  các các sản phẩm fintech tương  ứng với các mảng 
hoạt động hiện tại của ngành tài chính truyền thống gồm thanh toán; huy động 
vốn; cho vay; đầu tư và quản lý tài sản; bảo hiểm được gọi là nhóm kinh doanh.
Trong thanh toán, fintech cung cấp các phương thức thanh toán hiện đại, giúp 
cho  việc   thanh  toán  trở   nên  tiện  lợi,   nhanh  chóng  và   dễ   dàng  ở   mọi  nơi   có  
Internet trên các thiết bị được kết nối với internet bằng phần mềm chuyên dụng, 
như thanh toán di động, ví điện tử, chuyển tiền.
Trong huy động vốn, fintech tạo ra sản phẩm gọi vốn trực tuyến từ  cộng  
đồng cho phép người có dự án hay ý tưởng sản phẩm nhưng lại không có vốn để 
thực hiện, có thể  huy động vốn từ  xã hội. Hiện nay trên thị  trường có các hình  


Trang 4/12

thức gọi vốn như: Gọi vốn theo hình thức ủng hộ, theo hình thức có đãi ngộ, theo 
hình thức góp vốn, theo hình thức cho vay, theo hình thức phát hành tiền ảo.
Trong cho vay, fintech cung cấp sản phẩm cho vay ngang hàng (peer­to­peer  
lending) dựa nền tảng trực tuyến để  kết nối người đi vay và người cho vay,  
nhằm giảm chi phí nhiều nhất cho người đi vay và tăng lợi cho người cho vay do  
giảm bớt khâu trung gian.
Trong bảo hiểm, fintech cung cấp mô hình người môi giới và mô hình công ty  
bảo hiểm giúp thúc đẩy khả  năng tìm kiếm các loại hình bảo hiểm phù hợp và  
mang lại những giải pháp tốt hơn cho KH thông qua việc sử dụng công nghệ.
Trong đầu tư  và quản lý tài sản, fintech cung cấp các giải pháp tư  vấn, lựa  
chọn hình thức và quản lý các khoản đầu tư dựa trên công nghệ thông qua mạng 
giao dịch xã hội và tư vấn tự động.
­


Nhóm thứ  hai là nhóm cung cấp các giải pháp công nghệ  và các công cụ 

hỗ  trợ  mới, còn gọi là nhóm hỗ  trợ  như: các công cụ  bảo mật, nhận diện KH,  
quản lý và phân tích dữ liệu, quản lý rủi ro, quản lý quan hệ KH, các phần mềm 
quản lý tài chính cá nhân và doanh nghiệp.
Trên nền tảng internet và kỹ thuật số, nhiều ứng dụng sản phẩm hay mô hình  
kinh doanh trong lĩnh vực TCNH đã được các doanh nghiệp fintech phát triển. 
Đặc biệt, với sự  phát triển mạnh mẽ  của các công nghệ  mới như  dữ  liệu lớn  
(Big Data), trí tuệ  nhân tạo (AI), blockchain, điện thoại thông minh…, fintech 
đang phát triển mạnh mẽ   ở  nhiều nước trên thế  giới. Những dịch vụ  tài chính  
dựa trên nền tảng công nghệ  mang lại nhiều tiện ích, mở  ra thời đại mới trong  
hoạt động tài chính trên toàn thế giới: thời đại kỹ thuật số.
Sử  dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk Research), nhóm đã thấy  
được rằng khái niệm trên đã gây ra một làn sóng tranh luận giữa các nhà nghiên  
cứu với nhau về việc các NHTM có nên hay không nên hợp tác với các công ty  
fintech. 


Trang 5/12

3. Tác động của các công ty fintech đối với hoạt động ngân hàng tại  
Việt Nam
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay thì việc áp dụng kĩ thuật 
công nghệ đang là vấn đề được rất nhiều sự quan tâm của tất cả các nhà đầu tư 
trong tất cả các lĩnh vực khoa học kĩ thuật, giáo dục, y tế  và đặc biệt là về  lĩnh 
vực TCNH. Theo Ủy ban về ổn định tài chính (2017), sự phát triển mạnh mẽ của 
lĩnh vực fintech trong thời gian qua có thể mang lại những lợi ích và rủi ro, thách  
thức đối với hệ thống NH. Fintech hiện đang có ảnh hưởng tới phần lớn các dịch  
vụ truyền thống mang tính cốt lõi của NH (như  huy động vốn, cho vay và thanh  
toán) với hàng loạt công nghệ mang tính đột phá, hiện đại. 

Cùng với sự phát triển của ngành điện tử viễn thông mà cụ thể hơn đó chính  
là sự phát triển của những chiếc điện thoại thông minh (smartphone), thiết bị di  
động cùng với mạng điện thoại thì hiện nay việc tiếp cận với các sản phẩm dịch  
vụ  NH ngày càng dễ  dàng hơn. Nó cũng góp phần thay đổi thói quen của KH 
trong việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ NH.
Chính vì thế việc hòa nhập với xu hướng phát triển fintech trên toàn cầu là tất  
yếu. Việc thay đổi này không chỉ để thích ứng mà còn là một bước để phát triển  
trong thời kì đổi mới công nghệ  4.0. Nhiều NH trên thế  giới đã giảm bớt số 
lượng các chi nhánh, phòng giao dịch, dần chuyển sang mô hình NH số. Tuy  
nhiên, hiện nay nếu các NHTM tại Việt Nam đầu tư để phát triển NH số sẽ mất  
rất nhiều thời gian, nếu không mau chóng hòa nhập thì sẽ  trở  thành lực cản vô  
hình cho ngành TCNH tại Việt Nam. Vì thế  thay vì chờ  đầu tư  xong để  đi vào 
hoạt động thì các NH có thể  hợp tác cùng các công ty fintech để  phát triển,  ứng  
dụng các công nghệ  hiện đại, không cần bỏ  ra quá nhiều chi phí cho cơ  sở  hạ 
tầng công nghệ ban đầu và có thể đáp ứng được yêu cầu của các KH.
4. Hợp tác giữa các công ty fintech và các ngân hàng tại Việt Nam
4.1  Lợi thế và hạn chế của các ngân hàng tại Việt Nam:
Hệ thống 

NH với bề  dày lịch sử  hình thành và phát triển lớn mạnh, góp 


Trang 6/12

phần rất lớn vào sự  phát triển của thị  trường tài chính, với lợi thế  có sẵn của  
mình như: 
­

Về  uy tín thì NH có sự  bảo đảm về  tiềm lực tài chính, với lịch sử  hình 


thành và phát triển lâu đời và tiềm lực về tài chính lớn, tính ổn định rất cao, do đó 
các nhà đầu tư rất an toan khi chọn NH là một kênh đầu tư. Việc kinh doanh tiền  
tệ  của hê thống ngân hàng phần lớn là hiệu quả, đảm bảo sự  tin tưởng các nhà 
đầu tư.
­

Về  tổ  chức mạng lưới  được tổ  chức   đều khắp nơi, nắm giữ  một số 

lượng rất lớn KH; hệ  thống được giám sát chặt chẽ, đảm bảo cho hệ  thống  
được vận hành ổn định, có khả năng kiểm soát rủi ro và đảm bảo an toàn cho các 
giao dịch của KH.
­

Về vốn thì NH có nguồn vốn lớn, có thể đầu tư mạnh vào hệ thống công  

nghệ phục vụ cho các dự án mới, sản phẩm dịch vụ mới. 
­

Về kinh nghiệm có thể  nói NH là một chuyên gia về  tài chính và quản lý  

tài chính, luôn có một đội ngũ cán bộ  nhân viên chuyên nghiệp và có hiểu biết  
chuyên sâu trong lĩnh vực TCNH và có sẵn mạng lưới KH và cơ sở  dữ  liệu KH  
lớn.
Tuy nhiên, dù lịch sử  hình thành và phát triển lâu đời có tiềm lực lớn nhưng  
hệ  thống ngân hàng và các sản phẩm của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu 
phát triển của thời đại công nghệ, như: 
­

Thủ  tục phức tạp (hồ  sơ  giấy), qua nhiều bước, nhiều cấp để  kiểm tra, 


xác minh, do đó dẫn đến mất rất nhiều thời gian của khách hàng, thời gian để 
hoàn thành giao dịch có thể là nhiều tuần và tốn kém chi phí.
­

Sản phẩm của ngân hàng chưa đáp  ứng được nhiều đối tượng; hệ  thống 

chưa thật sự  gần gũi với nhiều loại đối tượng khách hàng, tạo sự  e ngại của 
khách hàng khi thực hiện giao dịch.
4.2  Lợi thế và hạn chế của các công ty fintech tại Việt Nam
Dù là sinh sau hệ  thống NH nhưng do  ứng dụng công nghệ  vào quản lý tài 
chính, nên bước đầu tạo ra hiệu quả  tốt tring ngành tài chính, đáp  ứng với nhu  


Trang 7/12

cầu phát triển của thời đại, như:
­

Ứng dụng công nghệ nên tạo nhiều sản phẩm tài chính mang tính đột phá 

hơn so với sản phẩm của hệ thống NH truyền thống.
­

Thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng và thuận tiện  ở  mọi nơi có 

thiết bị thông minh được kết nới với internet, KH không cần đến phòng giao dịch 
của NH nhưng vẫn thực hiện vay, cho vay, thanh toán,…. chỉ cần vài thao tác trên  
thiết bị thông minh, kết quả thực hiện trong khoản 10 giây.
­


Giảm bớt khâu trung gian nên tiết kiệm được chi phí.

­

Đối tượng KH được mở rộng, tạo sự thoải mái khi thực hiện giao dịch.

Do đó, với những lợi thê nêu trên thì Fintech là xu hướng tất yếu của tương  
lai ngành TCNH. Tuy fintech đạt được nhiều  ưu thế vượt trội so với  hệ thống  
NH truyền thống nhờ   ứng dụng công nghệ  nhưng vẫn còn những thách thức, 
như:
­

Do ứng dụng công nghệ  nên phải ưu tiên bảo đảm an toàn của hệ  thống,  

bảo mật thông tin, có biện pháp phòng ngừa những gian lận, tội phạm công  
nghệ.
­

Thói quen của KH là giao dịch tại các phòng giao dịch của NH hoặc các tổ 

chức tài chính, do đó để thay đổi thói quen của người dùng là một khó khăn của 
các tổ chức tài chính số (nếu không phải hệ thống NH).
­

Do mới hình thành nên tiềm lực về  tài chính của fintech cũng chưa lớn  

mạnh, chưa thu hút nhiều KH.
4.3  Hợp tác giữa các công ty fintech và các ngân hàng tại Việt Nam
Chính vì những lợi thế ­ hạn chế của NH và fintech do đó để phát triển ngành 
TCNH phù hợp với xu hướng của thời đại thì NH và các công ty fintech hợp tác 

với nhau để cùng nhau phát triển.
Chính vì những lợi ích thiết yếu và  ưu điểm lớn là có sẵn công nghệ  và chi 
phí sử dụng thấp, ngoài ra còn tiết kiệm được thời gian hơn so với việc giao dịch  
thanh toán tại các chi nhánh, phòng giao dịch nếu ứng dụng fintech, nên fintech đã  
và đang tiếp cận nhanh đến các KH. Các NH cũng đã và đang tận dụng lợi thế có 


Trang 8/12

sẵn của mình như: ngân hàng có uy tín, với tiềm lực lớn về tài chính, mạng lưới 
và hệ thống, có khả năng kiểm soát rủi ro và đảm bảo an toàn cho các giao dịch 
của khách hàng, ngân hàng có nguồn vốn lớn nên có thể  đầu tư  mạnh vào hệ 
thống công nghệ  phục vụ  cho các dự  án mới, sản phẩm dịch vụ  mới và bề  dày 
kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính và quản lý tài chính, đội ngũ cán bộ  nhân 
viên chuyên nghiệp và có hiểu biết chuyên sâu trong lĩnh vực TCNH và có sẵn 
mạng lưới KH và cơ  sở  dữ  liệu KH lớn. Đo đó, kết hợp với công nghệ  trong 
hoạt động tài chính thì sẽ tạo ra nhiều sản phẩm mang tính bức phá, phù hợp với  
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Hiện nay một số NH đã và đang và sẽ sẵn sàng bắt tay cùng các công ty fintech.  
Việc bắt tay này là dựa trên thuyết Win – Win, cả hai với vai trò bù trừ cho nhau,  
hạn chế được điểm yếu của mình và tận dụng được lợi thế  của đối tượng còn  
lại (Romānova & Kudinska, 2016).
Theo thống kê của tổng cục thống kê thì dân số  Việt Nam tính đến tháng 6  
năm 2019 là  hơn 97,3 triệu người dân, trong đó 64,08% dân số sống ở vùng nông 
thôn [4]. Vậy nên việc hợp tác này đã góp phần đưa các dịch vụ tài chính tiếp cận 
được với người tiêu dùng đặc biệt là khu vực nông thôn. Vì hiện nay nếu hoạt 
động đơn lẽ  thì việc KH  ở  vùng nông thôn tiếp cận được với các dịch vụ  tài  
chính của NH rất khó do sự  phân bố  vị  trí các chi nhánh, phòng giao dịch không 
đồng đều mà phần lớn là tập trung tại khu vực thành thị, khu vực nông thôn thì 
thưa thớt, có nhiều khu vực còn cách xa vị trí của những người tiêu dùng ở vùng 

nông thôn và cũng như  việc tâm lý e ngại khi đến NH và sử  dụng, cất giữ  tiền  
mặt còn khá là nhiều. Trong khi nhu cầu về dịch vụ tài chính tại khu vực nông 
thôn là một thị phần khá là phát triển. Việc bắt tay hợp tác giữa fintech và NH sẽ 
mang đến cho KH một trải nghiệm hoàn toàn mới, mang đến các sản phẩm phù 
hợp hơn cho KH cũng như sẽ góp phần thúc đẩy phát triển cho hai bên. Hợp tác  
này còn góp phần thúc đẩy việc dịch vụ  thanh toán qua Internet, điện thoại di 
động, thẻ  NH, trung gian thanh toán..., phát triển đề  án thanh toán không dùng 
tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 theo quyết định số  2545/QĐ­TTg  


Trang 9/12

ngày 30/12/2016. Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh – Trưởng Ban Chỉ 
đạo fintech của NHNN nhận định, bên cạnh những dịch vụ  mới mà làn sóng  
fintech mang lại thì sự hợp tác NH – fintech sẽ biến fintech trở thành cánh tay nối  
dài của các NH tới những đối tượng dùng chưa có tài khoản ở NH truyền thống 
hay những đối tượng chưa tiếp cận dịch vụ truyền thống (unbanked), mang lại  
những trải nghiệm tốt, linh hoạt, nhiều tiện ích cho KH, hỗ trợ đắc lực cho phổ 
cập tài chính (financial inclusion) sâu rộng hơn, góp phần quan trọng vào phát 
triển kinh tế xã hội. Bởi một trong những điểm nổi bật của fintech chính là tăng  
cường khả  năng tiếp cận dịch vụ  tài chính cho KH  [5]. Theo ông Trần Phương, 
phó Tổng giám đốc NH BIDV thì “sự hợp tác, chia sẻ về ý tưởng của các fintech  
sẽ  mang đến nhiều lợi ích, trải nghiệm và tiết kiệm cho KH, cắt giảm chi phí 
giao dịch, sự chính xác mọi lúc mọi nơi và đồng thời đảm bảo độ  an toàn và tin  
cậy. Sự hợp tác này là đôi bên cùng có lợi”
5. Một số  hợp tác giữa fintech và các ngân hàng thương mại điển hình 
tại Việt Nam
Thị  trường Việt Nam được đánh giá là một thị  trường fintech tiềm năng với  
dân số hơn 97,3 triệu dân [4] và là quốc gia đứng thứ 16 trên thế giới với hơn 60%  
dân số sử dụng internet mỗi ngày với thời gian sử dụng trung bình 7 tiếng /ngày 

[6]

. Mặc khác, các dịch vụ tài chính được cung cấp bởi NH ngày càng đa dạng và  

phong phú, hiện đại, an toàn về  bảo mật đã đáp  ứng hầu hết các nhu cầu của  
người tiêu dùng. Các NH đang dần thay đổi để  thích nghi với cuộc cách mạng  
công nghiệp 4.0 cũng như  thích nghi với các công ty fintech tạo ra các mô hình  
mới với mông muốn mang lại cho các KH các giải pháp, dịch vụ tài chính minh 
bạch, hiệu quả  và thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ  tài chính 
truyền thống. 
Theo số  liệu của NHNN, hiện nay tại Việt Nam có khoảng 10.000 đơn vị 
chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử và 26 tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử 
như  MoMo, AirPay, ZaloPay, Vimo, VTCPay, SenPay, Ví TrueMoney, Moca... . 
Tính đến cuối năm 2018, đã có 4,2 triệu ví đã liên kết với tài khoản NH, 16 NH  


Trang 10/12

đã triển khai dịch vụ thanh toán QR Code, có hơn 30.000 điểm chấp nhận thanh  
toán QR Code. Việc thanh toán qua ví điện tử  ngày càng phổ  biến  ở  các thành 
phố  lớn như  trả  tiền điện, nước, internet, mua hàng hóa, dịch vụ, thẻ  cào, bảo 
hiểm… Việc thanh toán qua ví điện tử  (quý III/2018) tăng 21% so với cùng kỳ 
năm 2017, giá trị thanh toán qua các loại ví điện tử cùng thời gian này tăng 161%. 
[7]

VietinBank đã ký thỏa thuận hợp tác với Công ty Opportunity Network (ON) 
để cung cấp nền tảng cho việc kết nối doanh nghiệp là KH của VietinBank với  
trên 15.000 doanh nghiệp  ở 113 quốc gia là thành viên của ON, tạo ra cơ hội mở 
rộng thị trường hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước  
ngoài.

BIDV đã hoàn thành kết nối thanh toán với các thương hiệu fintech phổ 
biến trên thị  trường như  Napas, Momo, Zalo, Moca, Airpay, VTC pay, Payoo,  
Baokim, Vimo, Onepay, Wepay, Ngân lượng, Vnpay, Samsungpay, Truemoney, 
Viettel, Vinatti…
VIB cũng đã  kết hợp với công ty fintech Weezi cho ra mắt sản phẩm  
MyVIB Keyboard, một ứng dụng chuyển tiền qua mạng xã hội. 
Techcombank đã cùng với Công ty fintech Fastacash giới thiệu tính năng 
F@st Mobile, phương thức chuyển tiền nhanh chóng qua Facebook và Google+  
(TTXVN, 2018).
MB Bank dựa trên sự hợp tác với đối tác chiến lược Viettel.
Vietcombank và Công ty M_Service trong thanh toán chuyển tiền… .
VPBank đã và đang tận dụng nền tảng NH số Timo để  cung cấp dịch vụ 
tài chính đến giới trẻ. Vào tháng 9 năm 2018, VPBank đã ra mắt NH kỹ thuật số 
độc lập có tên YOLO đi kèm với các dịch vụ NH truyền thống như tài khoản tiết  
kiệm và cho vay, nhưng cũng cung cấp các dịch vụ hàng ngày như đặt taxi, phim, 
đặt phòng khách sạn và đặt hàng thực phẩm và đồ uống... .
Maritime bank đang hợp tác với MEED, một công ty công nghệ  có trụ  sở 
tại Hoa Kỳ  cung cấp nền tảng toàn cầu cho các tổ  chức tài chính. MEED cung 


Trang 11/12

cấp nền tảng NH di động cho NH.
NH Shinhan Việt Nam được cho là đang đàm phán với các công ty fintech  
bao gồm M_Service, VNPay và Payoo ... .
6. Các vấn đề  đặt ra trước sự  phát triển và hợp tác giữa các công ty  
fintech và các ngân hàng tại Việt Nam. 
6.1 Các vấn đề đặt ra cho các ngân hàng.
Các NH nên tìm kiếm các đối tác hợp tác phát triển các dịch vụ, sản phẩm  
phù hợp với chiến lược phát triển của NH.

Các NH có thể  nghiên cứu để  có một công ty fintech riêng, một công ty con 
fintech, liên doanh với người ngoài hoặc sử dụng các công ty fintech khác làm đại 
lý của NH. 
Các NH có thể  tận dụng các thế  mạnh hiện tại như  danh tiếng, mạng lưới,  
cơ sở KH và vốn chủ  sở  hữu để  phát triển các sản phẩm fintech phù hợp với 
thực tế và nhu cầu KH. 
Các NH nên mở  rộng việc nghiên cứu để  da dạng hóa dịch vụ, tăng cường  
chất lượng dịch vụ cung cấp cho KH.
Phát triển các dịch vụ  NH dựa trên nền tảng và sự  phát triển của mạng di  
động.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ  không chỉ  về  chuyên môn  
TCNH mà còn cả về công nghệ tài chính.
6.2  Các vấn đề đặt ra cho ngân hàng nhà nước
Đánh giá cao tầm quan trọng của fintech, đây được xem như  là một cơ  hội 
cũng  như   thách  thức  lớn  đối với  ngành  TCNH,  NHNN   đã  và  đang  tiến  hành 
nghiên cứu để triển khai nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện hệ sinh thái góp phần  
thúc đẩy sự phát triển của các công ty fintech và tạo ra tạo môi trường thuận lợi  
cho sự hợp tác giữa fintech và các NH.
Theo Quyết định 844/QĐ­TTg ngày 18/4/2016 của Thủ  tướng Chính phủ  phê 
duyệt Đề  án “Hỗ  trợ  hệ  sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến  


Trang 12/12

năm   2025",   NHNN   đã   thành   lập   Ban   Chỉ   đạo   lĩnh   vực   Công   nghệ   tài   chính  
(fintech) của NHNN vào tháng 3/2017 nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện  
hệ sinh thái, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp fintech ở Việt Nam phát triển.
Tại   Diễn   đàn   Công   nghệ   tài   chính   (fintech)   Việt   Nam   diễn   ra   vào   ngày 
30/5/2018, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng đã khẳng định, NHNN  ủng hộ  sự 
hợp tác NH và fintech và sẽ  tạo điều kiện hoàn thiện pháp lý cũng như  hệ  sinh  

thái cho sự phát triển fintech. Việc hợp tác giữa fintech và NH được coi là tiền đề 
cho việc nâng cao tiếp cận dịch vụ TCNH cho người sử dụng tại Việt Nam. [7]
Đặc biệt, là gần đây nhất tại dự  thảo Thông tư  sửa đổi, bổ  sung Thông tư 
39/2014/TT­NHNN   của   NHNN   hướng   dẫn   về   dịch   vụ   trung   gian   thanh  toán, 
NHNN đã bổ sung nhiều quy định mới theo hướng kiểm soát việc mở tài khoản  
ví, quy định hạn mức giao dịch... 
Tuy nhiên, đến nay tại Việt nam vẫn chưa có một khung pháp lí nào rõ ràng, 
cụ  thể  NHNN nên sớm có những khung pháp lí dành cho các hoạt động của  
fintech. Hiện nếu vẫn chưa có khung pháp lí chính thức cho fintech NHNN có thể 
xem xét và ban hành khung pháp lý thử  nghiệm (regulatory sandbox). Ngoài ra,  
NHNN cũng như  các cơ  quan có liên quan nên sớm đưa ra những khung pháp lí  
đồng bộ, phù hợp với đặc thù riêng về  các dịch vụ, sản phẩm cho ngành TCNH 
tạo thuận lợi hơn cho việc phát triển cũng như hợp tác cung ứng các sản phẩm, 
dịch vụ  phù hợp, an toàn, sản phẩm đa dạng, có chất lượng, tiết kiệm chi phí 
hoạt động. 
Phần lớn các hoạt động của các công ty fintech cũng như  việc hợp tác giữa  
fintech và các NH đều tập trung vào lĩnh vực thanh toán nên NHNN cũng nên sớm  
có khung pháp lí cụ thể hơn cho hoạt động thanh toán như:
Sửa đổi quy định về  phòng chống rửa tiền liên quan để  cho phép mở  tài 
khoản không bắt buộc phải gặp mặt trực tiếp nhưng vẫn đảm bảo về nhận biết,  
xác thực chính xác KH (e­KYC); 
Nghiên cứu xây dựng khuôn khổ  pháp lý thử  nghiệm (regulatory sandbox) 
cho các công ty fintech, các TCTD... 


Trang 13/12

Tập trung phát triển các hạ tầng thanh toán nền tảng như Trung tâm thanh  
toán bù trừ tự động ACH 
NHNN sớm hoàn thiện khuôn khổ  pháp lý và ban hành văn bản liên quan  

đến nghiệp vụ cũng như dịch vụ NH đại lý (agent banking).
7. Kết luận 
Fintech sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai, chính những sự  phát 
triển này sẽ tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của các ngành nhưng đặc biệt  
hơn hết chính là TCNH trên toàn thế giới. Hiện nay, không chỉ các NH trên toàn  
thế giới mà ngay tại Việt Nam thì việc cùng hợp tác và phát triển với các công ty  
fintech là một trong những hướng đi phù hợp giúp cho đôi bên cùng có lợi và có 
thể  phát huy được hết thế  mạnh của chính mình trong thời gian chờ  các NH 
nghiên cứu để xây dựng một hệ thống riêng cho mình mà không phải lo việc sẽ 
bị giành mất thị phần bởi các công ty fintech. 
NHNN đã đang và sẽ hỗ trợ cho sự hợp tác, phát triển giữa các công ty fintech 
và NH, nhanh chóng nghiên cứu hoàn thiện các khung pháp lí và hệ sinh thái của  
fintech giúp cho ngành TCNH của Việt Nam sớm bắt kịp theo thị trường thế giới  
hòa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Áp dụng AI trong ngành công nghệ Tài chính – Ngân hàng
/>[2] 67 công ty fintech Việt Nam cạnh tranh trong thị trường 4,4 tỷ USD
/>44­ty­usd­20180504224217598
[3] FINTECH: Hệ sinh thái ở các nước và vận dụng tại Việt Nam (số 1)
/> [4] Dân số Việt Nam, tháng 6/2019
/>[5] Hợp tác Fintech ­ Xu hướng phát triển tất yếu của ngân hàng hiện đại
/>[6] Hơn 60% dân số Việt Nam dùng internet, truy cập trung bình 7 tiếng/ngày
/>truy­cap­trung­binh­7­tieng­ngay­c55a1010906.html
[7] 4,24 triệu ví điện tử có liên kết với tài khoản ngân hàng
/>hang­86396.html




×