Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Thảo luận hóa vô cơ: Những biện pháp bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 31 trang )


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………….3
NỘI DUNG……………………………………………………………………….4
1. Môi trường và vai trò của môi trường………………………………………4
2. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay…………………….....5
2.1.Ô nhiễm môi trường nước………………………………………………….5
2.2.Ô nhiễm không khí………………………………………………………...6
2.3.Ô nhiễm đất………………………………………………………………..7
3. Nguyên nhân gây ô nhiễm……………………………………………………11
3.1.Ý thức của người dân……………………………………………………...12
3.2.Các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, quan liêu, thiếu chặt 
chẽ…………...12
3.3.Những hạn chế, bất cập trong bảo vệ môi 
trường………………………....13
4. Một số hậu quả của ô nhiễm môi trường ở Việt Nam……………………...14
4.1.Khí hậu biến 
đổi…………………………………………………………...15
4.2.Biến đổi hệ sinh 
thái……………………………………………………….15
4.3.Ảnh hưởng đến sức khỏe con người………………………………………
15
5. Những biện pháp bảo vệ môi trường ở Việt Nam………………………….16
5.1.Nâng cao ý thức, tuyên truyền giáo dục, hoàn thiện luật môi trường, 
tăng cường quản lí, xử phạt hiệu quả những hành vi phá hoại môi 
trường……………………………………………………………………...16


5.2.Phát triển kinh tế xanh, bền vững kết hợp bảo vệ môi 
trường…………….17
5.3.Tăng cường dự  báo thiên tai,  ứng phó biến đổi khí hậu,ứng dụng công 


nghệ   tiên   tiến,   hạn   chế   công   nghệ   lạc   hậu   gây   ô   nhiễm……………….
………….…17
 KẾT LUẬN…………….………………………………..………………………18
 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………....20


MỞ ĐẦU
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không những đối với 
các nước phát triển mà còn là sự  thách thức đối với các nước đang phát 
triển trong đó có Việt Nam. 
Thời kỳ  công nghiệp phát triển, việc khai thác các nguồn tài nguyên 
quá mức, gây nạn ô nhiễm môi trường, phá rừng, làm suy thoái lớp thổ 
nhưỡng, gây ra những tai hoạ  và tổn thất lớn lao cho con người. Rõ ràng  
vấn đề bảo vệ môi trường trở thành vấn đề thời sự cấp bách đối với mọi  
quốc gia, của toàn nhân loại.  Ở Việt Nam trong những năm gần đây cùng 
với nhịp độ  phát triển của nền kinh tế, nâng cao đời sống xã hội thì môi 
trường sống ngày càng bị ô nhiễm, môi trường bị ô nhiễm ở  mọi nơi mọi 
chỗ,   từng   ngày   từng   giờ   ảnh   hưởng   trực   tiếp   đến   sức khoẻ   của   con 
người. Thực trạng đang diễn ra ngày càng cấp bách và nan giải, chính vì  
vậy chúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về  thực trạng ô nhiễm môi 
trường ở nước ta hiện nay từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục, bảo vệ 
môi trường sống của chúng ta xanh sạch đẹp hơn.
 


NỘI DUNG
1. Môi trường và vai trò của môi trường
Môi trường là gì ?
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo 
quan hệ  mật thiết với nhau, bao quanh con người, có  ảnh hưởng tới đời 

sống, sản xuất, sự  tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Môi 
trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh  
học tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác 
động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, sông núi, biển cả, động thực 
vật, đất, nước, không khí…

Vai trò của môi trường :
Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật. 
Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt  
động sản xuất của con người. Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế 
thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình. 
Môi trường là nơi giảm nhẹ  các tác động có hại của thiên nhiên tới con  
người và sinh vật trên trái đất. Môi trường là nơi lưu trữ  và cung cấp  
thông tin cho con người.
Môi trường tự  nhiên cho ta không khí để  thở, đất để  xây nhà cửa, 
trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng 
sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, 
cung cấp cho ta cảnh đẹp để  giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm 
phong phú. Môi trường nhân tạo bao gồm tất cả các nhân tố do con người  
tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống như ô tô, máy bay, nhà 
ở, công sở, các đô thị, công viên…
Ô nhiễm môi trường là gì ?


         Theo luật bảo vệ môi trường Việt Nam:” Ô nhiễm môi trường là sự 
làm thay
đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường”. Trên thế 
giới ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải và năng 
lượng vào môi trường đến mức có khả  năng gây hại đến sức khỏe con 
người,   sự   phát   triển   của   sinh   vật   hoặc   làm   suy   giảm   chất   lượng   môi 

trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí(khí thải), 
lỏng(nước thải), rắn(chất thải rắn) chứa hóa chất và các tác nhân vật lý, 
sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ
2.Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay
2.1.Ô nhiễm môi trường nước

.

Hình 1.Nước sông ô nhiễm chuyển màu đen, rác thải trôi lềnh bềnh ­ nguy  
cơ gây bệnh cho con người rất cao.


Nước là nguồn tài nguyên quý báu và hết sức thiết yếu đối với sự 
sống trên 
trái đất. Thực tiễn chỉ ra rằng quốc gia nào quan tâm đến công tác bảo vệ 
môi   trường,   trong   đó   có   việc   khai   thác,   sử   dụng   hợp   lý   nguồn   nước,  
thường xuyên bảo đảm cho nguồn nước trong sạch, thì hạn chế   được  
nhiều dịch bệnh, chất lượng cuộc sống được nâng lên. Bởi vậy, ở nước ta,  
một mặt khai thác nguồn nước phục vụ  sản xuất, xây dựng, nhưng mặt 
khác cần coi trọng việc bảo đảm nguồn nước sinh hoạt sạch.
                     Hiện nay, hầu hết các sông hồ   ở  các thành phố  lớn như  Hà Nội và 
tp.Hồ Chí Minh, nơi có dân cư  đông đúc và nhiều các khu công nghiệp lớn này  
đều  bị  ô nhiễm. Phần lớn lượng nước thải sinh hoạt(khoảng 600.000m³ mỗi 
ngày,với khoảng 250 tấn rác được thải ra các sông  ở  khu vực Hà Nội) và công  
nghiệp(khoảng 260.000 m³ và chỉ có 10% được xử lý) đều không được xử lý mà  
đổ  thẳng vào các ao hồ,sau đó chảy ra các con sông lớn tại vùng châu thổ  sông 
Hồng và sông Mê Kông.  Nhiều nhà máy và cơ sở  sản xuất như các lò mổ, các 
khu công nghiệp, làng nghề và ngay cả bệnh viện(khoảng 7000 m³ mỗi ngày,và 
chỉ có 30% là được xử lý)cũng không được trang bị hệ thống xử lý nước thải. 
         Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải,  

nước thải nên ô nhiễm môi trường  ở  các thành phố  lớn, các khu công nghiệp, 
khu đô thị  đang  ở  mức báo động. Trong tổng số  183 khu công nghiệp trong cả 
nước, có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung.  
Các đô thị chỉ có khoảng 60% ­ 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng  
thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa đáp  ứng yêu cầu về  bảo vệ 
môi trường.... Một ví dụ đau lòng của việc xả nước thải, là trường hợp sông Thị 
Vải bị ô nhiễm bởi hoá chất thải ra từ nhà máy của công ti bột ngọt Vê Đan suốt 
14 năm liền.
         Nước ngầm do khai thác quá mức, vượt khả năng tự lạp lại, làm suy thoái  
về  lượng và chất của nước. Dung lượng nước trong các giếng giảm dần, có 


giếng mới chỉ  khải thác chưa được 10 năm mà mức nước trong giếng đã hạ 
thấp hàng chục mét. Hậu quả này sẽ dần tới sự xâm nhập của nước mặn, nước 
thải sinh hoạt, công nghiệp, thậm chí gây ra lún đất. Tại Hà Nội, phân tích 660 
mẫu nước lấy tại 106 giếng khoan đang khai thác cho thấy nước đã có biểu 
hiện nhiễm bẩn NH4+ và NO2­
2.2.Ô nhiễm không khí

Hình 2.Toàn cảnh ô nhiễm không khí tại Việt Nam được Forbes 
Việt Nam minh họa.
Ở Việt Nam, chỉ số chất lượng không khí vẫn duy trì ở mức tương 
đối cao, hơn 50% số  ngày trong năm có chất lượng không khí kém; trong  
đó, Hà Nội là một trong những thành phố có mức độ ô nhiễm cao hơn thế 
giới. Giai đoạn từ 2011 – 2015 số ngày Hà Nội có chỉ  số chất lượng không 
khí kém chiếm tới 40­60% tổng số ngày quan trắc và có những ngày chất  
lượng không khí suy giảm đến ngưỡng xấu.
          Chất lượng không khí  ở  khu vực nông thôn, các làng nghề  đang có 
chiều hướng suy giảm, nhất là  ở  các làng nghề  tái chế  chất thải, tái chế 
nhựa,   kim   loại,   giấy,   sản   xuất   vật   liệu   xây   dựng…   Kết   quả   khảo   sát  

những năm gần đây cho thấy, nồng độ  bụi  ở  những làng nghề  sản xuất 


vật liệu xây dựng tại một số địa phương vượt quy chuẩn từ 3 đến 8 lần,  
hàm lượng SO2 có nơi vượt ngưỡng 6,5 lần. Trong 3 năm gần đây, do việc 
đốt rơm rạ  sau thu hoạch cũng dẫn tới tình trạng “khói mù”  ảnh hưởng 
đến giao thông công cộng và bầu không khí trong khu vực.

      Hình 3. Khói mù do đốt rơm rạ sau thu hoạch
  
           Ở Việt Nam, ô nhiễm không khí phổ biến nhất là ô nhiễm khói bụi, sau 
đó là ô nhiễm CO2 và một số loại khí khác như SO2, NOx... Hai tác nhân chủ 
yếu gây ra ô nhiễm không khí là khí thải từ các phương tiện cơ giới và hoạt 
động sản xuất công nghiệp. Theo một số nghiên cứu, hiện tại khí thải từ các 
phương tiện giao thông cơ giới chiếm 70% tác nhân gây ô nhiễm không khí tại 
Việt Nam. Lượng khí thải lớn như vậy đến từ 43 triệu xe máy và 2 triệu ô tô 
đang lưu hành trên đường phố Việt Nam mỗi ngày, theo thống kê từ Cục Đăng 
kiểm Việt Nam. Nồng độ bụi trong các khu dân cư bên cạnh các nhà máy, xí 
nghiệp hoặc gần các đường giao thông lớn vượt chỉ số cho phép từ 1,5­3 lần; 
tại những nơi đang xây dựng nhà cửa, đường xá vượt mức cho phép từ 10­20 
lần. Tại các nút giao thông lớn, nồng độ chì, khí CO khá cao.


Hình 4. Khói bụi do phương tiện giao thông
2.3.Ô nhiễm đất
Trên thế  giới, cùng với ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí 
thì ô nhiễm đất cũng đang là vấn đề  đáng báo động hiện nay. Tại Việt  
Nam, môi trường đất cũng đang phải chịu tác động từ  nhiều nguồn gây ô  
nhiễm.



Hình 5. Phế  thải từ  các khu công nghiệp một trong những tác 
nhân gây ô nhiễm đất.
Ô nhiễm từ phân bón hóa học tăng cao
          Báo cáo môi trường Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015 cho thấy, phân  
bón hóa học được sử  dụng phổ  biến trong sản xuất nông nghiệp do  ưu 
thế  về  chi phí và hiệu quả  nhanh đối với cây trồng. Theo kết quả  nghiên 
cứu, cây trồng hấp thụ  trung bình khoảng 40 ­ 50% lượng phân bón (hấp 
thụ  phân đạm khoảng 30 ­ 45%, phân lân 40 ­ 45%, phân kali 50 ­ 60%). 
Lượng phân bón còn lại được thải ra môi trường. Tại một số vùng chuyên 
canh nông nghiệp, mức độ  sử  dụng phân bón khá cao, vượt so với mức 
khuyến cáo nhiều lần, điều đó dẫn đến dư lượng phân bón tồn đọng trong 
đất khá lớn, làm ô nhiễm môi trường đất.
Phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong nông nghiệp 
được sử  dụng phổ  biến  ở tất cả các vùng nông thôn và có xu hướng tăng  
qua các năm. Cùng với đó là việc sử  dụng phân bón tùy tiện hoặc không 
tuân thủ  quy trình kỹ  thuật vẫn chưa được quản lý, kiểm soát... Kết quả 
đánh giá chất lượng đất ở nhiều vùng canh tác trong cả nước cho thấy, hệ 
quả  của việc sử  dụng phân bón không hợp lý là đất bị  chua hóa. Kết cấu  
đất suy giảm, có sự tích đọng hàm lượng các chất Nitrat, Amoni và một số 
kim loại nặng.

Hình 6. Ô nhiễm đất do sử dụng thuốc trừ sâu


          Tại một số vùng chuyên canh nông nghiệp ở cả khu vực phía Bắc và 
phía Nam qua quan trắc nhiều năm có phản  ứng chua đến trung tính, giá 
trị  PhKCI dao động trong khoảng 4,56 ­ 6,62. Ô nhiễm đất bởi phân bón 
hóa học trong những năm gần đây có xu hướng tăng do việc gia tăng liều 
lượng, tần suất sử dụng. Đất ở nhiều vùng nông nghiệp có hàm lượng kim  

loại nặng vượt mức cho phép đối với đất nông nghiệp.
Bên cạnh phân bón hóa học, tình trạng lạm dụng thuốc BVTV phòng 
trừ sâu bệnh dịch hại đối với cây trồng khiến dư lượng hóa chất BVTV ở 
một số vùng nông thôn đã có những dấu hiệu gia tăng.
Gia tăng nguồn thải
Một trong những tác nhân gây ô nhiễm đất thường do chất thải từ 
hoạt động công nghiệp, xây dựng và sinh hoạt. Môi trường đất chịu tác 
động do các chất ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp, xây dựng và sinh họat 
thể  hiện rõ nhất  ở  các vùng ven các đô thị  lớn như: TP. Hà Nội, TP. Hồ 
Chí Minh hoặc các vùng tập trung hoạt động sản xuất công nghiệp, khai 
khoáng như: Thái Nguyên, Đồng Nai,...
Trên toàn bộ lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có 114 KCN đang hoạt  
động tập trung ở 4 địa phương: Bình Dương, Đồng Nai, TP. HCM, Bà Rịa  
­ Vũng Tàu, chỉ  có 79/114 KCN có hệ  thống xử  lý nước thải. Sự  gia tăng 
nước thải từ  các KCN các tỉnh phía Nam trong những năm gần đây là rất  
lớn. Theo thống kê mới nhất từ Sở TN&MT TP. HCM, mỗi ngày các KCN  
trên địa bàn TP thải ra 6.700 tấn chất thải rắn. Trong đó có 1.500 ­ 2.000 
tấn chất thải rắn công nghiệp và nguy hại. Chính điều này đã và đang làm  
cho môi truờng đất ngày càng ô nhiễm.
Tại các khu vực chịu tác động của nước thải chất thải làng nghề đặc 
biệt làng nghề tái chế, chất lượng đất bị  suy giảm. Các điều tra cho thấy 
các mẫu đất bị  tác động bởi hoạt động tái chế  sắt của làng nghề  tái chế 
Châu Khê ­ Bắc Ninh có hàm lượng kim loại nặng trong vùng xấp xỉ  hoặc  
vượt ngưỡng cho phé 1,2 ­ 1,4 lần so với QCVN 03:2008/BTNMT đối với 
đất nông nghiệp.


Bên cạnh đó, môi trường đất của Việt Nam còn bị  tác động bởi các  
điểm ô nhiễm chất độc hóa học tồn lưu do hậu quả  của chiến tranh để 
lại. Theo Danh mục điểm tồn lưu hóa chất BVTV gây ô nhiễm môi trường 

nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, hiện nay, toàn quốc có 240 điểm 
tồn lưu hóa chất BVTV tại 15 tỉnh/thành.
Đất bị nhiễm các loại hợp chất có hàm lượng các chất độc cao, thời 
gian tồn lưu trong môi trường lâu, khó phân huỷ, khó xử  lý hoặc cải tạo. 
Tại   các   điểm   tồn   lưu   hóa   chất   BVTV   thuộc   loại   ô   nhiễm   môi   trường  
nghiêm trọng các chất tồn lưu chủ  yếu gồm: Lindan vượt từ  37,4  đến 
3.458 lần, ĐT vượt từ  1,3 đến 9.057,8 lần, Aldrin vượt 218,9 lần, DD vượt 
98,4 lần... so với QCVN 15:2008.
Hiện các Bộ, ngành, địa phương đã thúc đẩy hợp tác quốc tế  thông 
qua   các   Chương   trình   Phát   triển   Liên   Hợp   Quốc   (UNDP)   và   Quỹ   Môi 
trường toàn cầu (GEF), đã thu gom được hơn 500 tấn hóa chất BVTV và 
đất ô nhiễm nặng tại các khu vực: Núi Căng thuộc địa phận Phú Bình,  
Thái Nguyên; khu vực Thạch Lưu thuộc địa phận Thạch Hà, Hà Tĩnh ...
Chính từ những nguyên nhân này, theo ông Bùi Cách Tuyến – nguyên 
Thứ  trưởng Bộ  TN&MT, vấn đề  ô nhiễm đất cần phải nhận được sự 
quan tâm thích đáng từ phía xã hội và người dân.
3.Nguyên nhân gây ô nhiễm
3.1.Ý thức của người dân
           Đầu tiên, đó chính là sự  thiếu ý thức nghiêm trọng và thờ  ơ  của người  
dân. Nhiều người cho rằng những việc mình làm là quá nhỏ  bé, không đủ  để 
làm hại môi trường. Một số người lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách  
nhiệm của nhà nước, của các cấp chính quyền...trong khi số khác lại nghĩ rằng  
việc môi trường đã bị  ô nhiễm thì có làm gì cũng "chẳng ăn thua", và ô nhiễm 
môi trường cũng không  ảnh hưởng đến mình nhiều. Và chính những suy nghĩ 
này sẽ   ảnh hưởng không nhỏ  đến việc giáo dục cũng như  tư  duy bảo vệ  môi 
trường của các thế hệ trẻ về sau.


         Thật vậy, người lớn không làm gương để giáo dục trẻ em. Theo quan sát, 
tại các trường học, chúng tôi nhiều lần chứng kiến phụ  huynh đưa con đi học  

đến cổng trường dừng lại ăn sáng và sau khi ăn xong, thay vì bỏ  hộp xôi, hộp 
bánh vào thùng rác thì họ  lại vứt ngay tại chỗ. Mặc dù, các trường học có treo  
rất nhiều tấm biến, khẩu hiệu cấm xả rác bừa bãi nhưng phụ  huynh vẫn thản  
nhiên xả rác nơi công cộng thì rất khó hình thành ý thức tốt cho thế hệ trẻ.

Hình 7. Người dân thờ ơ và thiếu ý thức trong việc bảo vệ môi trường, khó làm 
gương cho trẻ em.
         
        Việc phá hoại môi trường của một người chỉ  ảnh hưởng nhỏ nhưng nếu  
gọp nhiều người lại thì rất lớn. Một tờ giấy, vỏ hộp sữa, túi ni­lông,... tuy nhỏ 
nhưng tích tụ lại lâu ngày sẽ gây ô nhiễm, mất mỹ quan, rác thải đọng lại trong  
các lô­cốt gây ra tình trạng cống thoát nước bị nghẹt mỗi khi mưa lớn hay thủy 
triều lên.
3.2.Các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, quan liêu, thiếu chặt chẽ
          Nguyên nhân thứ  hai gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự  thiếu trách 
nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không 


ít doanh nghiệp  đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi 
trường đáng kể.
 Mặt khác, hệ  thống xử  lý nước thải tại một số  khu công nghiệp chưa hoạt 
động hiệu quả, nước thải sinh hoạt bị ô nhiễm được thải liên tục ra sông, hồ 
gây nhiễm độc nguồn nước tự nhiên.
      Bên cạnh đó, chính sự quan liêu, thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý bảo  
vệ   môi   trường   của  nhà   nước   cũng   đang  tiếp   tay  cho   hành   vi  phá   hoại  môi 
trường.
      Ngoài ra, lượng xe cộ lưu thông ngày càng nhiều ở nước ta cũng góp phần  
không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
3.3.Những hạn chế, bất cập trong bảo vệ môi trường
       Theo thống kê của Bộ Tư Pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật  

về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt  
động kinh tế, các quy trình kỹ  thuật, quy trình sử  dụng nguyên liệu trong sản  
xuất,... Tuy nhiên, hệ  thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu 
đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban  
hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu 
quả  điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ  chức, các hoạt động kinh tế... trong  
việc bảo vệ môi trường.
         Quyền hạn pháp lý của các tổ  chức bảo vệ  môi trường, nhất là của lực  
lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự  đủ  mạnh, nên đã hạn chế  hiệu quả 
hoạt động nắm tình hình, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm về  bảo vệ 
môi trường. Các cơ  sở  pháp lý, chế  tài xử  phạt đối với các loại hành vi gây ô  
nhiễm môi trường về các loại tội phạm còn hạn chế chưa đủ mạnh. Cụ thể, có 
rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lý hình sự, còn các biện pháp xử 
lý khác như: buộc phải di dời ra khỏi khu vực ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉ 
hoạt động của cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, 
hoặc có  áp dụng nhưng các cơ  quan chức năng thiếu kiên quyết nên doanh  
nghiệp "lỳ đòn" cũng không có hiệu quả.
       Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với  
công tác bảo vệ  môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm 
trong việc kiểm tra, giám sát về  môi trường. Ngoài ra, công tác tuyên truyền,  
giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế.
4. Một số hậu quả của ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
4.1 .Khí hậu biến đổi


        Một trong những ảnh hưởng của môi trường đó là làm biến đổi khí hậu. 

Những năm gần đây, người dân Việt Nam chúng ta kinh nghiệm rất rõ về sự 
biến đổi khí hậu. Khảo sát của Viện Khoa Học Khí Tượng Thuỷ Văn cho biết, 
tại Bến Tre, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20 cm so với cách đây 10 năm. 

Những hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều. Biến đổi khí 
hậu đã làm gia tăng thiên tai tại nhiều nơi ở Việt Nam. Điều này được thể hiện 
rõ nét qua hiện tượng bão lụt xảy ra liên miên trong những năm gần đây, đặc 
biệt là tại miền trung. Thậm chí, những vùng trước đây không hề có bão, nhưng 
những năm gần đây cũng đã có. Chỉ tính riêng tại Huế, từ năm 1952 đến 2005 đã 
có 32 cơn bão; đồng thời cường độ mưa cũng tăng lên rõ rệt (chúng ta có thể 
thấy rõ điều này trong mấy tháng vừa qua).
Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của ông Chritophe Bahuet cảnh báo 
rằng nếu nhiệt độ tăng lên từ 3­4 độ C, các quốc đảo nhỏ và các nước đang phát 
triển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển dâng lên 1m, Việt Nam 
sẽ có khoảng 22 triệu người bị mất nhà cửa.
 
4.2. Biến đổi hệ sinh thái
    Việt Nam là một trong mười quốc gia có đa dạng sinh học thuộc loại cao nhất 

thế giới, trong đó có các hệ sinh thái đặc thù với nhiều giống, loài đặc hữu có 
giá trị khoa học và kinh tế cao, nhiều nguồn gien quí hiếm. Ngoài ra, một số loài 
động vật trên thế giới lần đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam.
    Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự đa dạng về sinh học ở Việt Nam 
đang bị suy giảm mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do cháy rừng, chuyển đổi mục 
đích sử dụng đất đai dẫn tới việc thu hẹp dần nơi cư trú của các loài, việc buôn 
bán trái phép động thực vật quí hiếm và ô nhiễm môi trường. Trong 50 năm qua, 
diện tích rừng ngập mặn đã bị giảm đến 80%, 96% các rạn san hô đang trong 
nguy cơ bị huỷ hoại nghiêm trọng, nhiều giống loài hoang dã đã bị biến mất 
vĩnh viễn.
4.3. Ảnh hưởng đến sức khoẻ con người
         Theo đánh giá của tiến sĩ Trần Hồng Hà, hiện nay Việt Nam chúng ta đang 

bắt đầu phải trả giá về mặt sức khoẻ con người do một thời gian dài chưa thật 
sự quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường dẫn đến nguy cơ ô 

nhiễm môi trường. Cụ thể là ngày càng xuất hiện nhiều điểm “nóng” về ô 
nhiễm môi trường, chẳng hạn như những “làng ung thư” ở Hà Tây, Phú Thọ, 
Hải Phòng…


          Theo thống kê của Bộ Y Tế, hàng năm, cả nước có gần 200 ngàn người bị 
mắc bệnh ung thư mới phát hiện. Riêng bệnh viện K Hà Nội, trong vòng 5 năm 
trở lại đây, mỗi năm tiếp nhận trung bình khoảng 150 ngàn người bị ung thư 
mới phát hiện. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ung thư ngày càng tăng, theo 
đánh giá tổng hợp của bộ Y Tế và bộ Tài Nguyên Môi Trường, chính là do môi 
trường sống ngày càng xuống cấp trầm trọng.
       Trong khi đó, tổ chức y tế thế giới ghi nhận, tại Việt Nam, trung bình mỗi 
năm có trên 9 ngàn ca tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Số 
người chết vì nguyên do ô nhiễm không khí là hơn 16 ngàn người.
        Ngoài ra, khi nói về tác động của môi trường trên sức khoẻ của con người, 
không thể không kể đến bệnh nghề nghiệp và nhiễm độc thuốc bảo vệ thực 
vật. Tỷ lệ người mắc bệnh nghề nghiệp cao nhất (hơn 40%) là nhóm người 
thường xuyên làm việc trong môi trường bụi như: công nhân mỏ, công nhân xây 
dựng, công nhân dệt… Đa số họ đều mắc những chứng bệnh về đường phổi 
như: viêm mũi, viêm phế quản, viên phổi… Thậm chí, khi đã ngừng tiếp súc với 
bụi, bệnh của họ vẫn tiếp tục phát triển. Trong khi đó, các loại thuốc bảo vệ 
thực vật không thận trọng ngoài đồng hay được cất giữ không phù hợp trong 
nhà dễ dàng làm nhiễm bẩn nguồn nước, không khí hay thực phẩm. Những 
người bị nhiễm độc cấp hay tiếp xúc ở nồng độ thấp với các loại thuốc bảo vệ 
thực vật sẽ có nguy cơ bị ung thư, con cái bị dị tật bẩm sinh. Ngoài ra họ còn bị 
ảnh hưởng đến thần kinh và chức năng của tuyến nội tiết.
5. Những biện pháp bảo vệ môi trường ở Việt Nam


Hình 8. Những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường


          Việt Nam cũng như các nước khác, vấn đề môi trường luôn luôn phải gắn  
liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Sau nhiều năm chiến tranh tàn phá,  
cộng với việc khai thác không hợp lý nên tài nguyên rừng, đất, nước, khoáng  
sản bị  suy giảm nhiều. Nước ta đang đứng trước những thử  thách lớn về  môi 
trường nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Luật bảo vệ môi trường của Nhà nước ta đã công bố, đó là cơ sở pháp lý 
để  thực thi những biện pháp bảo vệ  tốt môi trường. Những biện pháp bảo vệ 
môi trường ở nước ta đã được đề cập toàn diện trong kế hoạch quốc gia, đó là:
5.1.Nâng cao ý thức, tuyên truyền giáo dục, hoàn thiện luật môi
trường,tăng cường quản lí, xử phạt hiệu quả những hành vi phá hoại môi
trường.
                 Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ  thống pháp luật về  bảo vệ  môi  
trường, trong đó những chế  tài xử  phạt (cưỡng chế  hành chính và xử  lí 
hình sự) phải thực sự đủ  mạnh để  đủ  sức răn đe các đối tượng vi phạm.  
Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ  cho đội ngũ cán bộ  phụ  trách 
công tác môi trường và trang bị  các phương tiện kỹ  thuật hiện  đại để 
phục vụ  có hiệu quả  cho các lực lượng này. Bên cạnh đó, cần xây dựng 
đồng   bộ   hệ   thống   xử   lý   môi   trường   trong   các   nhà   máy,   các   khu   công 
nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ  chức giám sát chặt chẽ 
nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
 
         Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám 
sát về  môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ 
giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường  
với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và 
xử  lí kịp thời, triệt để  những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ 
chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ  cho  
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện  



kỹ  thuật hiện đại để  phục vụ  có hiệu quả  hoạt động của các lực lượng 
này.
          
         Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong 
toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp 
hành pháp luật bảo vệ  môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, 
doanh nghiệp trong việc gìn giữ  và bảo vệ  môi trường; xây dựng ý thức  
sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về  vị  trí, vai trò,  
mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên ­ con người ­ xã hội. Tại các khu du  
lịch, khu đông dân cư, tuyến đường lớn,... nên bổ  sung thêm nhiều thùng 
rác và các nhà vệ sinh công cộng.
      Bốn là, thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả 
nạn phá rừng, cháy rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Khai 
thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân bằng 
sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế  xanh, thân thiện với môi trường; 
Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển “năng 
lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng sạch”; Tăng cường hợp tác quốc 
tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế 
cho công tác bảo vệ  tài nguyên và môi trường,  ứng phó với biến đổi khí 
hậu; Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.

5.2.Phát triển kinh tế xanh, bền vững kết hợp bảo vệ môi trường
                    Một là, chú trọng và tổ  chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định,  

đánh giá tác động môi trường đối với các dự  án đầu tư, trên cơ  sở  đó, cơ 
quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét  
quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các  
dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt  
với những  ảnh hưởng của nó đến môi trường về  lâu dài. Thực hiện công 

khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi 
tổ  chức và công dân có thể  tham gia phản biện xã hội về  tác động môi  
trường của những quy hoạch và dự án đó.


 
         Hai là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm 
công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ 
sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách 
phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo 
như   ở  nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác 
quản   lí   nói   chung,   quản   lí   môi   trường   nói   riêng.   Đối   với   các   khu   công 
nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư  hạ  tầng phải xây  
dựng hệ  thống thu gom, xử  lí nước thải , phân tích môi trường tập trung 
hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo 
định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
 

5.3.Tăng cường dự báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu,ứng dụng công
nghệ tiên tiến, hạn chế công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm
           Một trong những biện pháp cấp bách để bảo vệ môi trường đó là dự báo, 
cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy văn, chung sức và 
chủ  động  ứng phó với biến đổi khí hậu. Tập trung triển khai thực hiện chiến 
lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề  án: Hiện đại  
hóa công nghệ  dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí tượng thủy  
văn; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ  chức và cộng 
đồng quốc tế  trong việc tham gia  ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; lồng 
ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10  
năm (2011­2020) và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2011­2015), xác 
định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi, bố  trí các nguồn lực cần 

thiết để tổ chức và triển khai thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia ứng 
phó với biến đổi khí hậu. 
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong công tác bảo vệ môi trường: thiết lập sơ 
đồ  mô hình cảnh báo, điều khiển từ  xa phục vụ  quan trắc các thông số  môi 
trường; phương án công nghệ  xử  lý nước thải có tính thân thiện môi trường;  


xây dựng phương pháp và tiêu chí đánh giá công nghệ;  Ứng dụng GIS và  ảnh  
viễn thám quang học Landsat, Quickbird và ảnh Palsar theo dõi sự biến động của 
một số thành phần môi trường,….

 KẾT LUẬN
             Tóm lại, tình trạng ô nhiễm môi trường  ở  Việt Nam tuy nghiêm trọng  
nhưng vẫn còn có thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung  
tay bảo vệ  môi trường. Hãy hô vang khẩu hiệu "Vì môi trường xanh ­ sạch ­ 
đẹp" và cũng là vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như các thế hệ sau.


              

Trả lời câu hỏi phản biện


Câu 1: Những vấn đề môi trường bức bách của Việt Nam cần được ưu tiên  
giải quyết là những vấn đề nào ?
Chính phủ  Việt Nam được sự  giúp đỡ  của các tổ  chức Quốc tế  đã xác định 8  
vấn đề môi trường bức bách nhất cần được ưu tiên giải quyết là:
   ­ Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ cả nước, và trong thực tế 
tai hoạ mất rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, mất rừng 
là một thảm hoạ quốc gia.

    ­ Sự  suy thoái nhanh của chất lượng đất và diện tích đất canh tác theo đầu  
người, việc sử dụng lãng phí tài nguyên đất đang tiếp diễn.
   ­ Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy giảm 
đáng kể, môi trường biển bắt đầu bị ô nhiễm, trước hết do dầu mỏ.
   ­ Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái 
v.v... đang được sử  dụng không hợp lý, dẫn đến sự  cạn kiệt và làm nghèo tài 
nguyên thiên nhiên.
   ­ Ô nhiễm môi trường, trước hết là môi trường nước, không khí và đất đã xuất 
hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc đến mức trầm trọng, nhiều vấn đề  về  vệ  sinh môi 
trường phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị, nông thôn.
   ­ Tác hại của chiến tranh, đặc biệt là các hoá chất độc hại đã và đang gây ra 
những hậu quả  cực kỳ  nghiêm trọng đối với môi trường thiên nhiên và con 
người Việt Nam.
    ­ Việc gia tăng quá nhanh dân số  cả  nước, sự  phân bố  không đồng đều và 
không hợp lý lực lượng lao động giữa các vùng và các ngành khai thác tài nguyên 
là những vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ dân số và môi trường.
   ­ Thiếu nhiều cơ sở vật chất ­ kỹ thuật, cán bộ, luật pháp để  giải quyết các  
vấn đề  môi trường, trong khi nhu cầu sử dụng hợp lý tài nguyên không ngừng  
tăng lên, yêu cầu về  cải thiện môi trường và chống ô nhiễm môi trường ngày  
một lớn và phức tạp.
Câu 2: Vì sao không khí ở bờ biển rất trong lành ?
Không khí ở vùng bờ biển chứa một lượng khá lớn anion. Các anion này được 
gọi là "vitamin không khí", chúng theo đường hô hấp vào cơ thể con người, cải 
thiện hoạt động của phổi, tăng thêm khả năng hấp thụ oxy và thải khí cacbonic. 
Thông thường ở những nơi công cộng trong thành phố, mỗi xăngtimet khối 
không khí có từ 10­20 anion, trong phòng ở có từ 40­50 anion/cm3, ở bãi cỏ hoặc 


công viên có 100­200 anion/cm3, trong khi đó ở vùng bờ biển có tới 10.000 
anion/cm3, nhiều gấp mấy trăm lần so với trong phòng ở.

Các anion này là các ion mang điện nên có tác dụng hạn chế vi khuẩn sinh sôi 
nảy nở. Môi trường nhiều anion sẽ làm tăng công năng thần kinh giao cảm của 
con người, khiến con người cảm thấy sảng khoái vui vẻ, tăng thêm hồng cầu 
trong máu.
Vì thế, không khí ở vùng bờ biển rất có lợi cho sức khoẻ con người. Hầu như ai 
cũng cảm thấy không khí ở bờ biển rất trong lành, hít thở thật sảng khoái, đặc 
biệt có lợi cho những người mắc bệnh thiếu máu, sưng phổi, cao huyết áp, suy 
nhược thần kinh, hen suyễn,... Ðó cũng chính là lý do vì sao các trại điều dưỡng 
ngày càng được xây dựng nhiều ở vùng bờ biển.
Câu 3: Việt Nam đã có những sự kiện về hoạt động bảo vệ môi trường 
nào?
Năm 1982: Hội thảo khoa học về môi trường lần thứ nhất với chủ đề "Các vấn 
đề môi trường của Việt Nam". Hội thảo đề cập đến các vấn đề môi trường và 
tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên rừng, nước, không khí, dân số.
Năm 1982: Hội thảo khoa học về môi trường lần thứ nhất với chủ đề "Các vấn 
đề môi trường của Việt Nam". Hội thảo đề cập đến các vấn đề môi trường và 
tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên rừng, nước, không khí, dân số.
Năm 1983: Hội thảo quốc tế  về  bảo vệ  môi trường và sử  dụng hợp lý tài  
nguyên thiên nhiên do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước* (nay là Bộ Khoa 
học, Công nghệ và Môi trường) tổ chức.
Năm 1984: Tổng kết công tác điều tra cơ bản về  tài nguyên và môi trường trên  
quy mô toàn quốc do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước chủ trì.
Năm   1985:   Hội   đồng   Bộ   trưởng   (nay   là   Chính   phủ)   ban   hành   Nghị   định  
246/HĐBT về  việc "Đẩy mạnh công tác điều tra cơ  bản, sử  dụng hợp lý tài 
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường".
Năm 1987: Hội thảo khoa học "Bảo vệ môi trường bằng pháp luật" do Uỷ ban 
Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức.
Năm 1988: Thành lập Hội Địa lý Việt Nam, Hội Bảo vệ  Thiên nhiên và Môi  
trường Việt Nam.



Năm 1990: Hội nghị quốc tế về "Môi trường và phát triển bền vững" do Uỷ ban 
Khoa học và Kỹ  thuật Nhà nước phối hợp với Chương trình Môi trường của  
Liên Hợp Quốc (UNEP) tổ chức tại Hà Nội.
Năm 1991: Chính phủ  thông qua "Kế  hoạch quốc gia về  môi trường và phát 
triển bền vững 1991­2000".
Năm 1992: "Hội thảo quốc tế về nghèo khó và bảo vệ môi trường" do Hội Bảo 
vệ  thiên nhiên và môi trường phối hợp cùng UNEP tổ  chức tại Thành phố  Hồ 
Chí Minh.
Năm 1993: "Hội thảo Hoá học và Bảo vệ  môi trường" do Hội Bảo vệ  thiên 
nhiên và môi trường Việt Nam và Hội Hoá học Việt Nam phối hợp tổ chức.
Năm 1994: Luật Bảo vệ Môi trường có hiệu lực.
Năm 1995: Chính phủ  thông qua Kế  hoạch quốc gia về  bảo tồn đa dạng sinh  
học.
Năm 1996: Chính phủ  ban hành Nghị  định 26/CP ngày 26/4/1996 Quy định Xử 
phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
Năm 1997: Quốc hội thông qua Nghị quyết về tiêu chuẩn các chương trình trọng  
điểm quốc gia.
Hội thảo 3 năm thực hiện Luật Bảo vệ môi trường.
Cuộc Thanh tra diện rộng chuyên đề về môi trường.
Triển lãm Môi trường Việt Nam.
Năm   1998:   Bộ   Chính   trị   BCHTW   Đảng   ban   hành   Chỉ   thị   36   CT/TW,   ngày 
25/6/1998   về   "Tăng   cường   công   tác   bảo   vệ   môi   trường   trong   thời   kỳ   công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Hội nghị Môi trường toàn quốc 1998 tại Hà Nội.
Năm 1999: Việt Nam có các sự kiện quan trọng sau:
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam Khoá X thông qua Bộ 
Luật hình sự trong đó có chương XVII ­ Các tội phạm về môi trường.
Diễn đàn Môi trường ASEAN lần thứ nhất.
Bộ  Khoa học, Công nghệ  và Môi trường xây dựng Chiến lược bảo vệ  môi  

trường quốc gia 2001­2010 và Kế hoạch hành động 2001­2005.
Hoàn thiện xây dựng 4 đề án thực hiện Chỉ thị 36­CT/TW của Bộ Chính trị Ban 
chấp hành Trung ương Đảng về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong  
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Quản lý chất thải rắn đô thị và Khu  
công nghiệp Việt Nam và Quy chế Quản lý chất thải nguy hại.
Việt Nam ký Tuyên ngôn quốc tế về Sản xuất sạch hơn.


×