MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………….3
NỘI DUNG……………………………………………………………………….4
1. Môi trường và vai trò của môi trường………………………………………4
2. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay…………………….....5
2.1.Ô nhiễm môi trường nước………………………………………………….5
2.2.Ô nhiễm không khí………………………………………………………...6
2.3.Ô nhiễm đất………………………………………………………………..7
3. Nguyên nhân gây ô nhiễm……………………………………………………11
3.1.Ý thức của người dân……………………………………………………...12
3.2.Các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, quan liêu, thiếu chặt
chẽ…………...12
3.3.Những hạn chế, bất cập trong bảo vệ môi
trường………………………....13
4. Một số hậu quả của ô nhiễm môi trường ở Việt Nam……………………...14
4.1.Khí hậu biến
đổi…………………………………………………………...15
4.2.Biến đổi hệ sinh
thái……………………………………………………….15
4.3.Ảnh hưởng đến sức khỏe con người………………………………………
15
5. Những biện pháp bảo vệ môi trường ở Việt Nam………………………….16
5.1.Nâng cao ý thức, tuyên truyền giáo dục, hoàn thiện luật môi trường,
tăng cường quản lí, xử phạt hiệu quả những hành vi phá hoại môi
trường……………………………………………………………………...16
5.2.Phát triển kinh tế xanh, bền vững kết hợp bảo vệ môi
trường…………….17
5.3.Tăng cường dự báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu,ứng dụng công
nghệ tiên tiến, hạn chế công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm……………….
………….…17
KẾT LUẬN…………….………………………………..………………………18
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………....20
MỞ ĐẦU
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không những đối với
các nước phát triển mà còn là sự thách thức đối với các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam.
Thời kỳ công nghiệp phát triển, việc khai thác các nguồn tài nguyên
quá mức, gây nạn ô nhiễm môi trường, phá rừng, làm suy thoái lớp thổ
nhưỡng, gây ra những tai hoạ và tổn thất lớn lao cho con người. Rõ ràng
vấn đề bảo vệ môi trường trở thành vấn đề thời sự cấp bách đối với mọi
quốc gia, của toàn nhân loại. Ở Việt Nam trong những năm gần đây cùng
với nhịp độ phát triển của nền kinh tế, nâng cao đời sống xã hội thì môi
trường sống ngày càng bị ô nhiễm, môi trường bị ô nhiễm ở mọi nơi mọi
chỗ, từng ngày từng giờ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con
người. Thực trạng đang diễn ra ngày càng cấp bách và nan giải, chính vì
vậy chúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng ô nhiễm môi
trường ở nước ta hiện nay từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục, bảo vệ
môi trường sống của chúng ta xanh sạch đẹp hơn.
NỘI DUNG
1. Môi trường và vai trò của môi trường
Môi trường là gì ?
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Môi
trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh
học tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác
động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, sông núi, biển cả, động thực
vật, đất, nước, không khí…
Vai trò của môi trường :
Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt
động sản xuất của con người. Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế
thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con
người và sinh vật trên trái đất. Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp
thông tin cho con người.
Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây nhà cửa,
trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng
sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải,
cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm
phong phú. Môi trường nhân tạo bao gồm tất cả các nhân tố do con người
tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống như ô tô, máy bay, nhà
ở, công sở, các đô thị, công viên…
Ô nhiễm môi trường là gì ?
Theo luật bảo vệ môi trường Việt Nam:” Ô nhiễm môi trường là sự
làm thay
đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường”. Trên thế
giới ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải và năng
lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con
người, sự phát triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi
trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí(khí thải),
lỏng(nước thải), rắn(chất thải rắn) chứa hóa chất và các tác nhân vật lý,
sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ
2.Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay
2.1.Ô nhiễm môi trường nước
.
Hình 1.Nước sông ô nhiễm chuyển màu đen, rác thải trôi lềnh bềnh nguy
cơ gây bệnh cho con người rất cao.
Nước là nguồn tài nguyên quý báu và hết sức thiết yếu đối với sự
sống trên
trái đất. Thực tiễn chỉ ra rằng quốc gia nào quan tâm đến công tác bảo vệ
môi trường, trong đó có việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nước,
thường xuyên bảo đảm cho nguồn nước trong sạch, thì hạn chế được
nhiều dịch bệnh, chất lượng cuộc sống được nâng lên. Bởi vậy, ở nước ta,
một mặt khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất, xây dựng, nhưng mặt
khác cần coi trọng việc bảo đảm nguồn nước sinh hoạt sạch.
Hiện nay, hầu hết các sông hồ ở các thành phố lớn như Hà Nội và
tp.Hồ Chí Minh, nơi có dân cư đông đúc và nhiều các khu công nghiệp lớn này
đều bị ô nhiễm. Phần lớn lượng nước thải sinh hoạt(khoảng 600.000m³ mỗi
ngày,với khoảng 250 tấn rác được thải ra các sông ở khu vực Hà Nội) và công
nghiệp(khoảng 260.000 m³ và chỉ có 10% được xử lý) đều không được xử lý mà
đổ thẳng vào các ao hồ,sau đó chảy ra các con sông lớn tại vùng châu thổ sông
Hồng và sông Mê Kông. Nhiều nhà máy và cơ sở sản xuất như các lò mổ, các
khu công nghiệp, làng nghề và ngay cả bệnh viện(khoảng 7000 m³ mỗi ngày,và
chỉ có 30% là được xử lý)cũng không được trang bị hệ thống xử lý nước thải.
Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải,
nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp,
khu đô thị đang ở mức báo động. Trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả
nước, có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Các đô thị chỉ có khoảng 60% 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng
thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ
môi trường.... Một ví dụ đau lòng của việc xả nước thải, là trường hợp sông Thị
Vải bị ô nhiễm bởi hoá chất thải ra từ nhà máy của công ti bột ngọt Vê Đan suốt
14 năm liền.
Nước ngầm do khai thác quá mức, vượt khả năng tự lạp lại, làm suy thoái
về lượng và chất của nước. Dung lượng nước trong các giếng giảm dần, có
giếng mới chỉ khải thác chưa được 10 năm mà mức nước trong giếng đã hạ
thấp hàng chục mét. Hậu quả này sẽ dần tới sự xâm nhập của nước mặn, nước
thải sinh hoạt, công nghiệp, thậm chí gây ra lún đất. Tại Hà Nội, phân tích 660
mẫu nước lấy tại 106 giếng khoan đang khai thác cho thấy nước đã có biểu
hiện nhiễm bẩn NH4+ và NO2
2.2.Ô nhiễm không khí
Hình 2.Toàn cảnh ô nhiễm không khí tại Việt Nam được Forbes
Việt Nam minh họa.
Ở Việt Nam, chỉ số chất lượng không khí vẫn duy trì ở mức tương
đối cao, hơn 50% số ngày trong năm có chất lượng không khí kém; trong
đó, Hà Nội là một trong những thành phố có mức độ ô nhiễm cao hơn thế
giới. Giai đoạn từ 2011 – 2015 số ngày Hà Nội có chỉ số chất lượng không
khí kém chiếm tới 4060% tổng số ngày quan trắc và có những ngày chất
lượng không khí suy giảm đến ngưỡng xấu.
Chất lượng không khí ở khu vực nông thôn, các làng nghề đang có
chiều hướng suy giảm, nhất là ở các làng nghề tái chế chất thải, tái chế
nhựa, kim loại, giấy, sản xuất vật liệu xây dựng… Kết quả khảo sát
những năm gần đây cho thấy, nồng độ bụi ở những làng nghề sản xuất
vật liệu xây dựng tại một số địa phương vượt quy chuẩn từ 3 đến 8 lần,
hàm lượng SO2 có nơi vượt ngưỡng 6,5 lần. Trong 3 năm gần đây, do việc
đốt rơm rạ sau thu hoạch cũng dẫn tới tình trạng “khói mù” ảnh hưởng
đến giao thông công cộng và bầu không khí trong khu vực.
Hình 3. Khói mù do đốt rơm rạ sau thu hoạch
Ở Việt Nam, ô nhiễm không khí phổ biến nhất là ô nhiễm khói bụi, sau
đó là ô nhiễm CO2 và một số loại khí khác như SO2, NOx... Hai tác nhân chủ
yếu gây ra ô nhiễm không khí là khí thải từ các phương tiện cơ giới và hoạt
động sản xuất công nghiệp. Theo một số nghiên cứu, hiện tại khí thải từ các
phương tiện giao thông cơ giới chiếm 70% tác nhân gây ô nhiễm không khí tại
Việt Nam. Lượng khí thải lớn như vậy đến từ 43 triệu xe máy và 2 triệu ô tô
đang lưu hành trên đường phố Việt Nam mỗi ngày, theo thống kê từ Cục Đăng
kiểm Việt Nam. Nồng độ bụi trong các khu dân cư bên cạnh các nhà máy, xí
nghiệp hoặc gần các đường giao thông lớn vượt chỉ số cho phép từ 1,53 lần;
tại những nơi đang xây dựng nhà cửa, đường xá vượt mức cho phép từ 1020
lần. Tại các nút giao thông lớn, nồng độ chì, khí CO khá cao.
Hình 4. Khói bụi do phương tiện giao thông
2.3.Ô nhiễm đất
Trên thế giới, cùng với ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm không khí
thì ô nhiễm đất cũng đang là vấn đề đáng báo động hiện nay. Tại Việt
Nam, môi trường đất cũng đang phải chịu tác động từ nhiều nguồn gây ô
nhiễm.
Hình 5. Phế thải từ các khu công nghiệp một trong những tác
nhân gây ô nhiễm đất.
Ô nhiễm từ phân bón hóa học tăng cao
Báo cáo môi trường Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015 cho thấy, phân
bón hóa học được sử dụng phổ biến trong sản xuất nông nghiệp do ưu
thế về chi phí và hiệu quả nhanh đối với cây trồng. Theo kết quả nghiên
cứu, cây trồng hấp thụ trung bình khoảng 40 50% lượng phân bón (hấp
thụ phân đạm khoảng 30 45%, phân lân 40 45%, phân kali 50 60%).
Lượng phân bón còn lại được thải ra môi trường. Tại một số vùng chuyên
canh nông nghiệp, mức độ sử dụng phân bón khá cao, vượt so với mức
khuyến cáo nhiều lần, điều đó dẫn đến dư lượng phân bón tồn đọng trong
đất khá lớn, làm ô nhiễm môi trường đất.
Phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong nông nghiệp
được sử dụng phổ biến ở tất cả các vùng nông thôn và có xu hướng tăng
qua các năm. Cùng với đó là việc sử dụng phân bón tùy tiện hoặc không
tuân thủ quy trình kỹ thuật vẫn chưa được quản lý, kiểm soát... Kết quả
đánh giá chất lượng đất ở nhiều vùng canh tác trong cả nước cho thấy, hệ
quả của việc sử dụng phân bón không hợp lý là đất bị chua hóa. Kết cấu
đất suy giảm, có sự tích đọng hàm lượng các chất Nitrat, Amoni và một số
kim loại nặng.
Hình 6. Ô nhiễm đất do sử dụng thuốc trừ sâu
Tại một số vùng chuyên canh nông nghiệp ở cả khu vực phía Bắc và
phía Nam qua quan trắc nhiều năm có phản ứng chua đến trung tính, giá
trị PhKCI dao động trong khoảng 4,56 6,62. Ô nhiễm đất bởi phân bón
hóa học trong những năm gần đây có xu hướng tăng do việc gia tăng liều
lượng, tần suất sử dụng. Đất ở nhiều vùng nông nghiệp có hàm lượng kim
loại nặng vượt mức cho phép đối với đất nông nghiệp.
Bên cạnh phân bón hóa học, tình trạng lạm dụng thuốc BVTV phòng
trừ sâu bệnh dịch hại đối với cây trồng khiến dư lượng hóa chất BVTV ở
một số vùng nông thôn đã có những dấu hiệu gia tăng.
Gia tăng nguồn thải
Một trong những tác nhân gây ô nhiễm đất thường do chất thải từ
hoạt động công nghiệp, xây dựng và sinh hoạt. Môi trường đất chịu tác
động do các chất ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp, xây dựng và sinh họat
thể hiện rõ nhất ở các vùng ven các đô thị lớn như: TP. Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh hoặc các vùng tập trung hoạt động sản xuất công nghiệp, khai
khoáng như: Thái Nguyên, Đồng Nai,...
Trên toàn bộ lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có 114 KCN đang hoạt
động tập trung ở 4 địa phương: Bình Dương, Đồng Nai, TP. HCM, Bà Rịa
Vũng Tàu, chỉ có 79/114 KCN có hệ thống xử lý nước thải. Sự gia tăng
nước thải từ các KCN các tỉnh phía Nam trong những năm gần đây là rất
lớn. Theo thống kê mới nhất từ Sở TN&MT TP. HCM, mỗi ngày các KCN
trên địa bàn TP thải ra 6.700 tấn chất thải rắn. Trong đó có 1.500 2.000
tấn chất thải rắn công nghiệp và nguy hại. Chính điều này đã và đang làm
cho môi truờng đất ngày càng ô nhiễm.
Tại các khu vực chịu tác động của nước thải chất thải làng nghề đặc
biệt làng nghề tái chế, chất lượng đất bị suy giảm. Các điều tra cho thấy
các mẫu đất bị tác động bởi hoạt động tái chế sắt của làng nghề tái chế
Châu Khê Bắc Ninh có hàm lượng kim loại nặng trong vùng xấp xỉ hoặc
vượt ngưỡng cho phé 1,2 1,4 lần so với QCVN 03:2008/BTNMT đối với
đất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, môi trường đất của Việt Nam còn bị tác động bởi các
điểm ô nhiễm chất độc hóa học tồn lưu do hậu quả của chiến tranh để
lại. Theo Danh mục điểm tồn lưu hóa chất BVTV gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, hiện nay, toàn quốc có 240 điểm
tồn lưu hóa chất BVTV tại 15 tỉnh/thành.
Đất bị nhiễm các loại hợp chất có hàm lượng các chất độc cao, thời
gian tồn lưu trong môi trường lâu, khó phân huỷ, khó xử lý hoặc cải tạo.
Tại các điểm tồn lưu hóa chất BVTV thuộc loại ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng các chất tồn lưu chủ yếu gồm: Lindan vượt từ 37,4 đến
3.458 lần, ĐT vượt từ 1,3 đến 9.057,8 lần, Aldrin vượt 218,9 lần, DD vượt
98,4 lần... so với QCVN 15:2008.
Hiện các Bộ, ngành, địa phương đã thúc đẩy hợp tác quốc tế thông
qua các Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Quỹ Môi
trường toàn cầu (GEF), đã thu gom được hơn 500 tấn hóa chất BVTV và
đất ô nhiễm nặng tại các khu vực: Núi Căng thuộc địa phận Phú Bình,
Thái Nguyên; khu vực Thạch Lưu thuộc địa phận Thạch Hà, Hà Tĩnh ...
Chính từ những nguyên nhân này, theo ông Bùi Cách Tuyến – nguyên
Thứ trưởng Bộ TN&MT, vấn đề ô nhiễm đất cần phải nhận được sự
quan tâm thích đáng từ phía xã hội và người dân.
3.Nguyên nhân gây ô nhiễm
3.1.Ý thức của người dân
Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng và thờ ơ của người
dân. Nhiều người cho rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để
làm hại môi trường. Một số người lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của nhà nước, của các cấp chính quyền...trong khi số khác lại nghĩ rằng
việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì cũng "chẳng ăn thua", và ô nhiễm
môi trường cũng không ảnh hưởng đến mình nhiều. Và chính những suy nghĩ
này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục cũng như tư duy bảo vệ môi
trường của các thế hệ trẻ về sau.
Thật vậy, người lớn không làm gương để giáo dục trẻ em. Theo quan sát,
tại các trường học, chúng tôi nhiều lần chứng kiến phụ huynh đưa con đi học
đến cổng trường dừng lại ăn sáng và sau khi ăn xong, thay vì bỏ hộp xôi, hộp
bánh vào thùng rác thì họ lại vứt ngay tại chỗ. Mặc dù, các trường học có treo
rất nhiều tấm biến, khẩu hiệu cấm xả rác bừa bãi nhưng phụ huynh vẫn thản
nhiên xả rác nơi công cộng thì rất khó hình thành ý thức tốt cho thế hệ trẻ.
Hình 7. Người dân thờ ơ và thiếu ý thức trong việc bảo vệ môi trường, khó làm
gương cho trẻ em.
Việc phá hoại môi trường của một người chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng nếu
gọp nhiều người lại thì rất lớn. Một tờ giấy, vỏ hộp sữa, túi nilông,... tuy nhỏ
nhưng tích tụ lại lâu ngày sẽ gây ô nhiễm, mất mỹ quan, rác thải đọng lại trong
các lôcốt gây ra tình trạng cống thoát nước bị nghẹt mỗi khi mưa lớn hay thủy
triều lên.
3.2.Các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, quan liêu, thiếu chặt chẽ
Nguyên nhân thứ hai gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách
nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không
ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi
trường đáng kể.
Mặt khác, hệ thống xử lý nước thải tại một số khu công nghiệp chưa hoạt
động hiệu quả, nước thải sinh hoạt bị ô nhiễm được thải liên tục ra sông, hồ
gây nhiễm độc nguồn nước tự nhiên.
Bên cạnh đó, chính sự quan liêu, thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý bảo
vệ môi trường của nhà nước cũng đang tiếp tay cho hành vi phá hoại môi
trường.
Ngoài ra, lượng xe cộ lưu thông ngày càng nhiều ở nước ta cũng góp phần
không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
3.3.Những hạn chế, bất cập trong bảo vệ môi trường
Theo thống kê của Bộ Tư Pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật
về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt
động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản
xuất,... Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu
đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban
hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu
quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong
việc bảo vệ môi trường.
Quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực
lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả
hoạt động nắm tình hình, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm về bảo vệ
môi trường. Các cơ sở pháp lý, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô
nhiễm môi trường về các loại tội phạm còn hạn chế chưa đủ mạnh. Cụ thể, có
rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lý hình sự, còn các biện pháp xử
lý khác như: buộc phải di dời ra khỏi khu vực ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉ
hoạt động của cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều,
hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết nên doanh
nghiệp "lỳ đòn" cũng không có hiệu quả.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với
công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm
trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Ngoài ra, công tác tuyên truyền,
giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế.
4. Một số hậu quả của ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
4.1 .Khí hậu biến đổi
Một trong những ảnh hưởng của môi trường đó là làm biến đổi khí hậu.
Những năm gần đây, người dân Việt Nam chúng ta kinh nghiệm rất rõ về sự
biến đổi khí hậu. Khảo sát của Viện Khoa Học Khí Tượng Thuỷ Văn cho biết,
tại Bến Tre, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20 cm so với cách đây 10 năm.
Những hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều. Biến đổi khí
hậu đã làm gia tăng thiên tai tại nhiều nơi ở Việt Nam. Điều này được thể hiện
rõ nét qua hiện tượng bão lụt xảy ra liên miên trong những năm gần đây, đặc
biệt là tại miền trung. Thậm chí, những vùng trước đây không hề có bão, nhưng
những năm gần đây cũng đã có. Chỉ tính riêng tại Huế, từ năm 1952 đến 2005 đã
có 32 cơn bão; đồng thời cường độ mưa cũng tăng lên rõ rệt (chúng ta có thể
thấy rõ điều này trong mấy tháng vừa qua).
Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của ông Chritophe Bahuet cảnh báo
rằng nếu nhiệt độ tăng lên từ 34 độ C, các quốc đảo nhỏ và các nước đang phát
triển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển dâng lên 1m, Việt Nam
sẽ có khoảng 22 triệu người bị mất nhà cửa.
4.2. Biến đổi hệ sinh thái
Việt Nam là một trong mười quốc gia có đa dạng sinh học thuộc loại cao nhất
thế giới, trong đó có các hệ sinh thái đặc thù với nhiều giống, loài đặc hữu có
giá trị khoa học và kinh tế cao, nhiều nguồn gien quí hiếm. Ngoài ra, một số loài
động vật trên thế giới lần đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự đa dạng về sinh học ở Việt Nam
đang bị suy giảm mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do cháy rừng, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất đai dẫn tới việc thu hẹp dần nơi cư trú của các loài, việc buôn
bán trái phép động thực vật quí hiếm và ô nhiễm môi trường. Trong 50 năm qua,
diện tích rừng ngập mặn đã bị giảm đến 80%, 96% các rạn san hô đang trong
nguy cơ bị huỷ hoại nghiêm trọng, nhiều giống loài hoang dã đã bị biến mất
vĩnh viễn.
4.3. Ảnh hưởng đến sức khoẻ con người
Theo đánh giá của tiến sĩ Trần Hồng Hà, hiện nay Việt Nam chúng ta đang
bắt đầu phải trả giá về mặt sức khoẻ con người do một thời gian dài chưa thật
sự quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường dẫn đến nguy cơ ô
nhiễm môi trường. Cụ thể là ngày càng xuất hiện nhiều điểm “nóng” về ô
nhiễm môi trường, chẳng hạn như những “làng ung thư” ở Hà Tây, Phú Thọ,
Hải Phòng…
Theo thống kê của Bộ Y Tế, hàng năm, cả nước có gần 200 ngàn người bị
mắc bệnh ung thư mới phát hiện. Riêng bệnh viện K Hà Nội, trong vòng 5 năm
trở lại đây, mỗi năm tiếp nhận trung bình khoảng 150 ngàn người bị ung thư
mới phát hiện. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ung thư ngày càng tăng, theo
đánh giá tổng hợp của bộ Y Tế và bộ Tài Nguyên Môi Trường, chính là do môi
trường sống ngày càng xuống cấp trầm trọng.
Trong khi đó, tổ chức y tế thế giới ghi nhận, tại Việt Nam, trung bình mỗi
năm có trên 9 ngàn ca tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Số
người chết vì nguyên do ô nhiễm không khí là hơn 16 ngàn người.
Ngoài ra, khi nói về tác động của môi trường trên sức khoẻ của con người,
không thể không kể đến bệnh nghề nghiệp và nhiễm độc thuốc bảo vệ thực
vật. Tỷ lệ người mắc bệnh nghề nghiệp cao nhất (hơn 40%) là nhóm người
thường xuyên làm việc trong môi trường bụi như: công nhân mỏ, công nhân xây
dựng, công nhân dệt… Đa số họ đều mắc những chứng bệnh về đường phổi
như: viêm mũi, viêm phế quản, viên phổi… Thậm chí, khi đã ngừng tiếp súc với
bụi, bệnh của họ vẫn tiếp tục phát triển. Trong khi đó, các loại thuốc bảo vệ
thực vật không thận trọng ngoài đồng hay được cất giữ không phù hợp trong
nhà dễ dàng làm nhiễm bẩn nguồn nước, không khí hay thực phẩm. Những
người bị nhiễm độc cấp hay tiếp xúc ở nồng độ thấp với các loại thuốc bảo vệ
thực vật sẽ có nguy cơ bị ung thư, con cái bị dị tật bẩm sinh. Ngoài ra họ còn bị
ảnh hưởng đến thần kinh và chức năng của tuyến nội tiết.
5. Những biện pháp bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Hình 8. Những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Việt Nam cũng như các nước khác, vấn đề môi trường luôn luôn phải gắn
liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Sau nhiều năm chiến tranh tàn phá,
cộng với việc khai thác không hợp lý nên tài nguyên rừng, đất, nước, khoáng
sản bị suy giảm nhiều. Nước ta đang đứng trước những thử thách lớn về môi
trường nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Luật bảo vệ môi trường của Nhà nước ta đã công bố, đó là cơ sở pháp lý
để thực thi những biện pháp bảo vệ tốt môi trường. Những biện pháp bảo vệ
môi trường ở nước ta đã được đề cập toàn diện trong kế hoạch quốc gia, đó là:
5.1.Nâng cao ý thức, tuyên truyền giáo dục, hoàn thiện luật môi
trường,tăng cường quản lí, xử phạt hiệu quả những hành vi phá hoại môi
trường.
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường, trong đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí
hình sự) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm.
Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ phụ trách
công tác môi trường và trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để
phục vụ có hiệu quả cho các lực lượng này. Bên cạnh đó, cần xây dựng
đồng bộ hệ thống xử lý môi trường trong các nhà máy, các khu công
nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ
nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám
sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường
với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và
xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ
chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện
kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng
này.
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong
toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân,
doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức
sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò,
mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên con người xã hội. Tại các khu du
lịch, khu đông dân cư, tuyến đường lớn,... nên bổ sung thêm nhiều thùng
rác và các nhà vệ sinh công cộng.
Bốn là, thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả
nạn phá rừng, cháy rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Khai
thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân bằng
sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển “năng
lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng sạch”; Tăng cường hợp tác quốc
tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế
cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu; Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
5.2.Phát triển kinh tế xanh, bền vững kết hợp bảo vệ môi trường
Một là, chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định,
đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ
quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét
quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các
dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt
với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công
khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi
tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi
trường của những quy hoạch và dự án đó.
Hai là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm
công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ
sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách
phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo
như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác
quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công
nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây
dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải , phân tích môi trường tập trung
hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo
định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
5.3.Tăng cường dự báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu,ứng dụng công
nghệ tiên tiến, hạn chế công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm
Một trong những biện pháp cấp bách để bảo vệ môi trường đó là dự báo,
cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy văn, chung sức và
chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tập trung triển khai thực hiện chiến
lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề án: Hiện đại
hóa công nghệ dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí tượng thủy
văn; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cộng
đồng quốc tế trong việc tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; lồng
ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10
năm (20112020) và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (20112015), xác
định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi, bố trí các nguồn lực cần
thiết để tổ chức và triển khai thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu.
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong công tác bảo vệ môi trường: thiết lập sơ
đồ mô hình cảnh báo, điều khiển từ xa phục vụ quan trắc các thông số môi
trường; phương án công nghệ xử lý nước thải có tính thân thiện môi trường;
xây dựng phương pháp và tiêu chí đánh giá công nghệ; Ứng dụng GIS và ảnh
viễn thám quang học Landsat, Quickbird và ảnh Palsar theo dõi sự biến động của
một số thành phần môi trường,….
KẾT LUẬN
Tóm lại, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng
nhưng vẫn còn có thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung
tay bảo vệ môi trường. Hãy hô vang khẩu hiệu "Vì môi trường xanh sạch
đẹp" và cũng là vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như các thế hệ sau.
Trả lời câu hỏi phản biện
Câu 1: Những vấn đề môi trường bức bách của Việt Nam cần được ưu tiên
giải quyết là những vấn đề nào ?
Chính phủ Việt Nam được sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế đã xác định 8
vấn đề môi trường bức bách nhất cần được ưu tiên giải quyết là:
Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ cả nước, và trong thực tế
tai hoạ mất rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, mất rừng
là một thảm hoạ quốc gia.
Sự suy thoái nhanh của chất lượng đất và diện tích đất canh tác theo đầu
người, việc sử dụng lãng phí tài nguyên đất đang tiếp diễn.
Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy giảm
đáng kể, môi trường biển bắt đầu bị ô nhiễm, trước hết do dầu mỏ.
Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái
v.v... đang được sử dụng không hợp lý, dẫn đến sự cạn kiệt và làm nghèo tài
nguyên thiên nhiên.
Ô nhiễm môi trường, trước hết là môi trường nước, không khí và đất đã xuất
hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc đến mức trầm trọng, nhiều vấn đề về vệ sinh môi
trường phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị, nông thôn.
Tác hại của chiến tranh, đặc biệt là các hoá chất độc hại đã và đang gây ra
những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với môi trường thiên nhiên và con
người Việt Nam.
Việc gia tăng quá nhanh dân số cả nước, sự phân bố không đồng đều và
không hợp lý lực lượng lao động giữa các vùng và các ngành khai thác tài nguyên
là những vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ dân số và môi trường.
Thiếu nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật, cán bộ, luật pháp để giải quyết các
vấn đề môi trường, trong khi nhu cầu sử dụng hợp lý tài nguyên không ngừng
tăng lên, yêu cầu về cải thiện môi trường và chống ô nhiễm môi trường ngày
một lớn và phức tạp.
Câu 2: Vì sao không khí ở bờ biển rất trong lành ?
Không khí ở vùng bờ biển chứa một lượng khá lớn anion. Các anion này được
gọi là "vitamin không khí", chúng theo đường hô hấp vào cơ thể con người, cải
thiện hoạt động của phổi, tăng thêm khả năng hấp thụ oxy và thải khí cacbonic.
Thông thường ở những nơi công cộng trong thành phố, mỗi xăngtimet khối
không khí có từ 1020 anion, trong phòng ở có từ 4050 anion/cm3, ở bãi cỏ hoặc
công viên có 100200 anion/cm3, trong khi đó ở vùng bờ biển có tới 10.000
anion/cm3, nhiều gấp mấy trăm lần so với trong phòng ở.
Các anion này là các ion mang điện nên có tác dụng hạn chế vi khuẩn sinh sôi
nảy nở. Môi trường nhiều anion sẽ làm tăng công năng thần kinh giao cảm của
con người, khiến con người cảm thấy sảng khoái vui vẻ, tăng thêm hồng cầu
trong máu.
Vì thế, không khí ở vùng bờ biển rất có lợi cho sức khoẻ con người. Hầu như ai
cũng cảm thấy không khí ở bờ biển rất trong lành, hít thở thật sảng khoái, đặc
biệt có lợi cho những người mắc bệnh thiếu máu, sưng phổi, cao huyết áp, suy
nhược thần kinh, hen suyễn,... Ðó cũng chính là lý do vì sao các trại điều dưỡng
ngày càng được xây dựng nhiều ở vùng bờ biển.
Câu 3: Việt Nam đã có những sự kiện về hoạt động bảo vệ môi trường
nào?
Năm 1982: Hội thảo khoa học về môi trường lần thứ nhất với chủ đề "Các vấn
đề môi trường của Việt Nam". Hội thảo đề cập đến các vấn đề môi trường và
tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên rừng, nước, không khí, dân số.
Năm 1982: Hội thảo khoa học về môi trường lần thứ nhất với chủ đề "Các vấn
đề môi trường của Việt Nam". Hội thảo đề cập đến các vấn đề môi trường và
tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên rừng, nước, không khí, dân số.
Năm 1983: Hội thảo quốc tế về bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước* (nay là Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường) tổ chức.
Năm 1984: Tổng kết công tác điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường trên
quy mô toàn quốc do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước chủ trì.
Năm 1985: Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định
246/HĐBT về việc "Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường".
Năm 1987: Hội thảo khoa học "Bảo vệ môi trường bằng pháp luật" do Uỷ ban
Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức.
Năm 1988: Thành lập Hội Địa lý Việt Nam, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi
trường Việt Nam.
Năm 1990: Hội nghị quốc tế về "Môi trường và phát triển bền vững" do Uỷ ban
Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Chương trình Môi trường của
Liên Hợp Quốc (UNEP) tổ chức tại Hà Nội.
Năm 1991: Chính phủ thông qua "Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát
triển bền vững 19912000".
Năm 1992: "Hội thảo quốc tế về nghèo khó và bảo vệ môi trường" do Hội Bảo
vệ thiên nhiên và môi trường phối hợp cùng UNEP tổ chức tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Năm 1993: "Hội thảo Hoá học và Bảo vệ môi trường" do Hội Bảo vệ thiên
nhiên và môi trường Việt Nam và Hội Hoá học Việt Nam phối hợp tổ chức.
Năm 1994: Luật Bảo vệ Môi trường có hiệu lực.
Năm 1995: Chính phủ thông qua Kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh
học.
Năm 1996: Chính phủ ban hành Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 Quy định Xử
phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
Năm 1997: Quốc hội thông qua Nghị quyết về tiêu chuẩn các chương trình trọng
điểm quốc gia.
Hội thảo 3 năm thực hiện Luật Bảo vệ môi trường.
Cuộc Thanh tra diện rộng chuyên đề về môi trường.
Triển lãm Môi trường Việt Nam.
Năm 1998: Bộ Chính trị BCHTW Đảng ban hành Chỉ thị 36 CT/TW, ngày
25/6/1998 về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Hội nghị Môi trường toàn quốc 1998 tại Hà Nội.
Năm 1999: Việt Nam có các sự kiện quan trọng sau:
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá X thông qua Bộ
Luật hình sự trong đó có chương XVII Các tội phạm về môi trường.
Diễn đàn Môi trường ASEAN lần thứ nhất.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường xây dựng Chiến lược bảo vệ môi
trường quốc gia 20012010 và Kế hoạch hành động 20012005.
Hoàn thiện xây dựng 4 đề án thực hiện Chỉ thị 36CT/TW của Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Quản lý chất thải rắn đô thị và Khu
công nghiệp Việt Nam và Quy chế Quản lý chất thải nguy hại.
Việt Nam ký Tuyên ngôn quốc tế về Sản xuất sạch hơn.