Danh mục chữ viết tắt.
Danh mục bảng biểu.
Danh mục hình.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài
Làng Vạn Phúc thuộc quận Hà Đông thành phố Hà Nội được biết đến là môt
1 trong hơn 1000 làng nghề truyền thống đã và đang tồn tại ở Việt Nam. Làng lụa
Vạn Phúc có 9.420 nhân khẩu, trong đó có gần 3.000 người tham gia nghề dệt. Hiện
nay, Vạn Phúc có khoảng 400 lao động thời vụ từ quanh vùng đến đây làm việc.
Cửa hàng bán lụa tơ tằm mọc lên ngày càng nhiều, hình thành ba dãy phố lụa với
trên 100 cửa hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách. Trong những
năm qua, cùng với quá trình phát triển kinh tếxã hội, đời sống nhân dân ngày càng
cải thiện và khởi săc. Tuy nhiên, cùng với đó nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường
phát sinh ngày càng phức tạp. Tình trạng ô nhiễm môi trường chủ yếu do q uá trình
sản xuất dẫn đến ô nhiễm môi trường ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng khiến
cho môi trường sống tại phường Vạn Phúc ngày càng xuống cấp.
Bảo vệ môi trường sống là trách nhiệm của cộng đồng và hơn hết là của
người dân, đó không phải là điều mới mẻ, thế nhưng chưa mấy ai làm được nhất là
đối với những người dân đã quen với công việc hằng ngày của mình được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực trạng này đã và đang xảy ra trên địa bàn
phường Vạn Phúc. Do điều kiện sống, tập quán, và ý thức bảo vệ môi trường còn
hạn chế nên lâu nay, người dân vẫn xả rác, nước thải từ quá trình sản xuất ra ngoài
môi trường trong nhiều năm qua, chính quyền địa phương luôn vận động, tuyên
truyền nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường sống trong nhân dân. Quá trình
xả thải khí thải, nước thải, rác thải sau quá trình sản xuất không được xử lý gây ô
nhiễm môi trường, đặc biệt trong đó là việc xả nước thải trực tiếp từ quá trình sản
xuất ra ngoài môi trường. Tuy nhiên việc chuyển biến trong hành động của người
dân còn rất chậm.
Hương ước bảo vệ môi trường ( BVMT) được xây dựng trên cơ sở tham gia
và đồng thuận của tất cả các thành viên trong cộng đồng dân cư tại địa phương,
nhằm tuyên truyền vận động, giáo dục nhân dân xóa bỏ các hủ tục, thói quen mất
vệ sinh, có hại cho môi trường. Đồng thời hương ước BVMT có tác dụng nâng cao
trách nhiệm tính tự lực của từng người dân đối với nhiệm vụ BVMT tại địa
phương, làm cho que hương làng xóm ngày càng xanh sạch đẹp, nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống cho cả cộng đồng. Bên cạnh đó, góp phần thực hiện tốt và
đạt tiêu chí 17 về môi trường trong bộ chỉ tiêu quốc gia về nông thôn mới.
Việc xây dựng hương ước, quy ước bảo vệ môi trường ở thôn, xã cần có
tham gia của cộng đồng trong việc phân tích hiện trạng môi trường tại địa phương,
xác định những hành động và quy định nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường. Đặc
điểm quan trọng của mô hình này là tập trung vào sự tham gia của cộng đồng và
long ghép các hoạt động truyền thong và nâng cao nhận thức cộng đồng trong tất cả
các giai đoạn của dự án Hương ước, quy ước gồm những quy định cụ thể về vệ
sinh nơi ở và những khu vực chung, quản lý rác thải, khí thải nước thải, chất tẩy
nhuộm, đồng thời quy định về việc bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Vì vậy trong báo cáo đồ án tốt nghiệp em đã chọn đề tài “ Xây dựng mô
hình hương ước, quy ước bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng
tại làng lụa Vạn Phúc phường Vạn phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.”
2. Vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu mô hình hương ước và quy ước bảo vệ môi trường tại làng Lụa
Vạn Phúc Hà Đông.
Mô hình hương ước quy ước khi có sự tham gia của cộng đồng, các yếu tổ
tác động đến hương ước quy ước bảo vệ môi trường tại làng Lụa Vạn Phúc Hà
Đông.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Xây dựng được mô hình hương ước, quy ước bảo vệ môi trường với sự
tham gia của cộng đồng tại lang Lua Van Phuc ph
̀
̣
̣
́ ương Van Phuc, quân Ha Đông,
̀
̣
́
̣
̀
thanh phô Ha Nôi.
̀
́ ̀ ̣
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu dựa trên phương pháp nghiên cứu mô tả, sử dụng kỹ thuật
phỏng vấn trực tiếp với những người có chức tránh tại làng Lụa Vạn Phúc Hà
Đông, kết hợp việc phân tích, tổng hợp các số liệu tại địa phương để xây dựng mô
hình nghiên cứu.
5. Nôi dung nghiêm c
̣
ứu
Hiện trạng môi trường tại lang Lua Van Phuc, ph
̀
̣
̣
́
ương Van Phuc, quân Ha
̀
̣
́
̣
̀
Đông, thanh phô Ha Nôi.
̀
́ ̀ ̣
Hiện trạng về công tác quản lý môi trường tại phương Van Phuc, quân Ha
̀
̣
́
̣
̀
Đông, thanh phô Ha Nôi
̀
́ ̀ ̣
Xây dựng hương ước, quy ước bao vê môi tr
̉
̣
ương v
̀ ới sự tham gia của cộng
đồng tại lang Lua Van Phuc, ph
̀
̣
̣
́
ương Van Phuc, quân Ha Đông, thanh phô Ha Nôi.
̀
̣
́
̣
̀
̀
́ ̀ ̣
6. Kết cấu đề tài
Đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về hương ước quy ước.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện hương ước quy ước ở làng Lụa Vạn Phúc
Hà Đông.
Chương 3: Đề xuấ xây dựng mô hình hương ước quy ước bảo vệ môi trường với
sự tham gia của cộng đồng tại làng Lụa Vạn Phúc Hà Đông.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HƯƠNG ƯỚC QUY ƯỚC
1.1. Tổng quan về hương ước và quy ước
1.1.1. Các khái niệm
a. nguồn gốc hương ước
Mỗi người Việt Nam từ trong tiềm thức có lẽ ai cũng hiểu câu thành ngữ
“phép vua thua lệ làng”. Lệ là một từ Hán Việt; Làng là một từ Nôm dùng để chỉ
một đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng nó chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất của người nông
dân Việt. Trong các văn bản, để cho đơn giản, các nhà nghiên cứu thay vào đó chữ
hương ước, khoán ước.
Như vậy, hương ước, khoán ước hiểu một cách nôm na là lệ làng. Nó là
những quy ước liên quan đến mọi mặt đời sống của làng xã. Nó bao gồm cả những
điều lệ được ghi chép thành văn bản và những điều lệ không được ghi chép thành
văn bản mà được truyền khẩu trong dân gian.
Các làng Việt trong thời kỳ phong kiến gọi là lệ làng thành văn bằng nhiều
tên gọi khác nhau, do tục lệ ở mỗi nơi nên có thể gọi là: hương ước, khoán lệ;
khoán ước; hương lệ; cựu khoán... Nhưng do được gọi bằng tên gì đi nữa thì trong
mỗi bản đó đều bao gồm những quy ước liên quan đến đời sống mọi mặt của từng
làng mà từ trước đến nay, chúng ta vẫn hay gọi bằng hai từ phổ biến hơn là:Hương
ước và khoán ước.
Khoán ước lần đầu tiên được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư vào cuối
đời Trần, năm 1370. Đến thế kỷ thứ XV, nhất là dưới thời vua Lê Thánh Tông,
thuật ngữ khoán ước – quy ước của dân làng trở nên tương đối phổ biến. Khoán
ước là một từ Hán gốc được du nhập vào Việt Nam và đã được Việt hoá. Khoán
(bằng cứ); ước (quy ước), từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, thuật ngữ này dần được
thu hẹp lại.
Cũng như khoán ước, hương ước cũng là một từ nguyên Hán được du nhập
vào Việt Nam. Từ thế kỷ XV, hương ước bắt đầu xuất hiện trong làng xã người
Việt nhưng nó chỉ thấp thoáng, chưa phổ biến. Đến thế kỷ XVII, hương ước ngày
càng được phổ biến, và nhất là đến thế kỷ XX, hương ước trở thành một thuật ngữ
quen thuộc rộng rãi trong làng xã. Sự lên ngôi của hương ước đã tự nó làm mờ nhạt
đi khoán ước. Nhiều nơi không dùng thuật ngữ khoán ước. Hương ước là sản
phẩm của làng, nó là những quy ước, những quy định được các thành viên trong
làng xã cùng nhau tuân thủ, thực hiện.
Hương ước có nội dung phong phú, tuỳ vào phong tục của từng làng. Nó
quy định hầu hết các mặt hoạt động của làng xã người Việt như: Hội tư văn, tư võ,
hội thiện, phe giáp, ngõ xóm cho đến cách tổ chức hoạt động của các thiết chế làng
xã... Kể cả các hoạt động xã hội như hội hè, đình đám, lễ tế, khao vọng... và các
hoạt động kinh tế. Đó là những quy ước chung của hương ước. Hương ước của
từng làng xã của người Việt bên cạnh những quy ước chung lại có những nét riêng
phù hợp với phong tục tập quán của mỗi làng xã.
b. khái niệm:
Hương ước là thuật ngữ gốc Hán, khi du nhập vào Việt Nam nó vẫn được
giữ nguyên nghĩa. Hương ước là những quy ước, điều lệ của một cộng đồng chung
sống trong một khu vực. Là bản pháp lý đầu tiên của các làng xã nhằm góp phần
điều hòa các mối quan hệ trong xã hội cộng đồng. Hương ước là bản ghi chép các
điều lệ (những quy tắc xử sự chung) mang tính bắt buộc phải tuân thủ, liên quan
đến đời sống của cộng đồng dân cư sinh sống trong làng. Các điều lệ này hình
thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết. Đến thời
Trần (khoảng cuối thế kỷ XVII) Hương ước đã trở nên khá phổ biến trong hệ
thống làng, xã Việt Nam . Hầu hết các Hương ước đều đề cập nội dung chính như:
an ninh trật tự, quan hệ ứng xử, công ích công lợi, thưởng phạt, đến việc cụ thể
bổn phận của con cái đối với cha mẹ, ông bà, vợ đối với chồng, anh đối với em…
Trước đây, Hương ước chủ yếu là do các vị có vai vế trong làng bàn bạc để xây
dựng nên. Tuy nhiên, đến ngày nay, Hương ước cũng có đôi chút thay đổi. Theo quy
định của Chỉ thị 24/1998/CTTTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư do Chính Phủ ban ngày 19/06/1998 tại điểm 2
thì: “ Dự thảo hương ước, quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận,
được hội nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp, cụm
dân cư thông qua và được ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành
nhằm bảo đảm nội dung của hương ước, quy ước không trái với các quy định của
pháp luật hiện hành, không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí
và lệ phí có thể gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân”. Như vậy, Hương ước ngày nay và trước đây mặc dù đã có sự khác
biệt trong thủ tục, quá trình tạo lập, ban hành, tuy nhiên, về nội dung và vai trò của
Hương ước làng xã trong đời sống người dân Việt Nam ta về cơ bản vẫn không hề
thay đổi.
1.1.2. Nội dung của hương ước quy ước
Hương ước bao gồm các nội dung chính sau:
•
Liên quan đến tổ chức nông nghiệp và môi trường sinh thái
•
Cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội trong làng xã
•
Giữ gin an ninh trật tự xã hội trong cộng đồng
•
Văn hóa, giáo dục, tổ chức thờ cúng
•
Đảo đảm các nghĩa vụ sưu thuế, binh dịch của làng xã với nhà nước
•
Khen thưởng và xử phạt trong việc tuân thủ các quy ước của làng xã
Đề ra các biện pháp, phương thức thích hợp giúp dân cư trên địa bàn tham gia
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, bảo đảm phát huy quyền tự do, dân chủ của
nhân dân; động viên và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa
vụ công dân;
Bảo đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh
trong ứng xử, giao tiếp, ăn, ở, đi lại, xóa bỏ hủ tục, phát triển các hoạt động văn
hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân,
tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt các chính
sách xã hội của Đảng và Nhà nước;
Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản công cộng và
tài sản công dân, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ rừng, biển, sông, hồ, danh lam
thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập nước, kênh
mương, kè cống, đường dây tải điện; xây dựng và phát triển đường làng, ngõ xóm,
trồng cây xanh;
Đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong, mỹ tục, bài trừ các hủ tục, tệ nạn
xã hội và mê tín dị đoan trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa
phương; khuyến khích những lễ nghi lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng
phí, tốn kém;
Góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, xây dựng làng,
thôn, bản, ấp, cụm dân cư văn hóa, hình thành các quy tắc đạo đức mới trong gia
đình và cộng đồng; khuyến khích mọi người đùm bọc, giúp đỡ nhau khi gặp khó
khăn, hoạn nạn, ốm đau; vận động thực hiện các chính sách dân số – kế hoạch hóa
gia đình, xây dựng các gia đình theo tiêu chuẩn gia đình văn hóa;
Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận động các
thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xóa đói giảm nghèo,
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, khuyến học, khuyến nghề ở địa phương;
vận động các thành viên trong cộng đồng tham gia tổ hợp tác, hợp tác xã nhằm phát
triển sản xuất. Khuyến khích phát triển các làng nghề; đóng góp xây dựng cơ sở hạ
tầng và các công trình phúc lợi công cộng: điện, đường, trường học, trạm xá, nghĩa
trang, các công trình văn hóa thể thao trên địa bàn. Lập, thu chi các loại quỹ trong
khuôn khổ pháp luật và phù hợp khả năng đóng góp của nhân dân.
Đề ra các biện pháp cụ thể bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn góp phần phòng
chống các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, rượu chè bê tha, trộm cắp, mại dâm và
các hành vi khác vi phạm pháp luật nhằm xây dựng địa bàn trong sạch. Phát động
trong nhân dân ý thức phòng gian, bảo mật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về
tạm trú, tạm vắng; tham gia quản lý, giáo dục, giúp đỡ những người lầm lỗi tại
cộng đồng dân cư. Đề ra các biện pháp cần thiết hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền
phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật trên địa bàn; bảo đảm triển khai thực hiện các
quy định của pháp luật về tổ chức tự quản ở cơ sở như Tổ hòa giải, Ban an ninh,
Tổ bảo vệ sản xuất, Ban kiến thiết và các tổ chức tự quản khác;
Đề ra các biện pháp thưởng, phạt phù hợp để bảo đảm thực hiện hương
ước:
Hương ước quy định các hình thức và biện pháp khen thưởng đối với cá nhân, hộ
gia đình có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện hương ước như: lập sổ vàng
truyền thống, nêu gương người tốt việc tốt, ghi nhận công lao, thành tích của tập
thể, cá nhân; bình xét, công nhận gia đình văn hóa và các hình thức khen thưởng
khác do cộng đồng tự thỏa thuận hoặc đề nghị các cấp chính quyền khen thưởng
theo quy định chung của Nhà nước.
Đối với những người có hành vi vi phạm các quy định của hương ước thì
chủ yếu áp dụng các hình thức giáo dục, phê bình của gia đình, tập thể cộng đồng,
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng ở cơ sở. Trường hợp vi phạm
nghiêm trọng các quy định của hương ước thì trên cơ sở thảo luận thống nhất trong
tập thể cộng đồng, có thể buộc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong phạm vi
cộng đồng hoặc áp dụng các biện pháp phạt nhưng không được đặt ra các biện
pháp xử phạt nặng nề xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân
phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. Trong hương ước không
đặt ra các khoản lệ phí.
Hương ước có thể đề ra các biện pháp nhằm góp phần giáo dục những
người có hành vi vi phạm pháp luật bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn; giáo dục,
cảm hóa giúp đỡ người phạm tội sau khi ra tù trở thành người lương thiện, có ích
cho xã hội.
Những hành vi vi phạm pháp luật phải do các cơ quan có thẩm quyền xử lý
theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hương ước
không thay thế các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
1.1.3.
Sự khác biệt giữa hương ước và pháp
Vốn có nguồn gốc từ phong tục, tập quán nên hương ước có một sức sống bền
bỉ, lâu dài. Hương ước đã từng tồn tại song song với luật nước, từng giữ vai trò là
công cụ quan trọng để điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng dân cư và để
quản lý làng xã. Trong xã hội, mỗi người dân không những phải làm đúng phép
nước mà còn phải tuân thủ lệ làng. Vậy giữa hương ước và pháp luật có sự khác
biệt như thế nào?
Nội dung của hương ước đơn giản và gọn nhẹ hơn so với pháp luật. Bộ luật
Hồng Đức có tới 722 điều quy định liên quan hầu hết đến các mặt của đời sống,
còn một bản hương ước của người Việt chỉ gồm vài chục điều khoản liên quan
đến một số mặt của đời sống làng mạc. Mỗi mặt của đời sống xã hội (ví dụ những
quy định về hôn nhân gia đình), được luật pháp Nhà nước cụ thể thành hàng chục,
thậm chí hàng trăm điều khoản, trong khi đó, ở các bản hương ước, vấn đề này
được ghi nhận trong một vài điều khoản ngắn gọn.
Trong văn bản pháp luật chỉ quy định các hình thức xử phạt, mà không có
hình thức khen thưởng như hương ước. Điều này là do tính cưỡng chế Nhà nước
của các quy phạm pháp luật quy định. Nó khác với hương ước, ngoài tính áp đặt còn
mang tính khuyến cáo, khuyên răn, khuyến thiện. Khung hình phạt của hương ước
thường đơn giản và ít mang tính nghiêm khắc hơn so với pháp luật. Hình phạt chính
trong hương ước chủ yếu là phạt tiền; còn pháp luật thời kỳ phong kiến quy định 5
hình phạt (ngũ hình) rất nghiêm khắc, đó là: suy (đánh bằng roi), trượng (đánh bằng
gậy), đồ (bắt làm công việc nặng nhọc), lưu (đày ải đi nơi xa) và tử (phải tội chết).
Tuy nhiên, việc xử phạt theo hương ước có nét tinh tế là nó đánh vào tinh thần,
danh dự không chỉ của cá nhân mà có khi còn là cả gia đình, dòng họ; đánh vào cả
những nỗi sợ hãi vô hình, những điều sâu thẳm trong tâm linh của con người, ví dụ
như việc truất, hạ ngôi thứ, tẩy chay đám tang và cao nhất là việc đuổi ra khỏi làng.
Hương ước nhiều khi còn được nhân dân coi trọng như một nghi lễ thiêng liêng.
Nhiều làng, xã vào dịp đầu xuân thường tổ chức Lễ Minh thệ Lễ ăn thề
tập hợp đông đảo dân làng đến chốn đình chung, hay những nơi linh thiêng của làng
để nghe đọc hương ước và mọi người có mặt phải thề sẽ tuân thủ theo hương ước,
nếu không sẽ bị thần linh trừng phạt. Trong tâm thức của người nông dân, việc tuân
thủ theo các điều khoản của hương ước, tuy là những ràng buộc vô hình nhưng hữu
hiệu mà không phải bất cứ quy phạm pháp luật nào cũng có được.
Trong hương ước không có hình thức giảm tội cho bất kỳ ai có hành vi vi
phạm, cho dù người đó thuộc thành phần xuất thân và có địa vị xã hội như thế nào
trong làng. Trong khi đó, pháp luật phong kiến có quy định bát nghị, cho phép một số
giai tầng trong xã hội (chủ yếu là thân thích của hoàng tộc, các công thần) được
giảm mức hình phạt khi phạm tội. Điều đó cho thấy tính bình đẳng của hương
ước rõ nét hơn so với pháp luật.
Hương ước được xây dựng từ những phong tục truyền thống rất thiết thực
và gần gũi với mỗi cộng đồng làng. Chính bởi vậy, hương ước có tính bảo lưu lâu
dài, ít thay đổi, mặt khác, nó được con người biết đến từ tấm bé, do cách lưu
truyền tự nhiên từ gia đình, từ dòng họ và trở thành một thói quen, một nếp sống.
Trong khi đó, pháp luật được hình thành do ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội,
mang tính cưỡng chế và dễ thay đổi khi thể chế thay đổi. Đây chính là sự khác biệt
cơ bản của hương ước và pháp luật.
1.1.4. Những chính sách của Nhà nuớc về Huơng uớc
Tại hội nghị lần V, Ban chấp hành Trung ương Đảng ( khóa VII) họp tháng 6
năm 1993, Đảng chủ trương khuyến khích xây dựng và thực hiện hương ước, các
quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn xã.
Năm 1996, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nêu rõ cần phải phát huy và kế thừa hương ước cổ truyền trong việc
quản lí nông thôn hiện nay.
Chủ trương này sau đó đã được pháp luật hóa bằng Nghị định 24CT/TTg
ngày 19/6/1998 của Chính phủ chỉ thị cho các địa phương việc kế thừa hương ước
cổ truyền trong việc soạn thảo hương ước nông thôn mới.
Để phát huy yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của hương ước,
quy ước, baảo đảm triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Chỉ thị của Bộ
Chính trị số 30/CTTW ngày 18 tháng 2 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và
thực hiện hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay,
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Nội dung của hương ước, quy ước cần tập trung vào một số vấn đề cơ
bản sau đây:
Bảo đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện các hành vi ứng xử
văn minh trong giao tiếp, ăn, ở, đi lại..., xóa bỏ hủ tục, phát triển các hình thức hoạt
động văn hóa lành mạnh, phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương
ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư;
Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản công cộng và tài sản của công
dân, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ, rừng, biển, sông, hồ, danh lam thắng cảnh,
đền chùa, miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập nước, kênh mương, kè cống.
Xây dựng và phát triển đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh, chống ô nhiễm các
nguồn nước... ở địa phương;
Đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong mỹ tục, bài trừ các hủ tục trong ma
chay, cưới hỏi, thờ phụng, lễ hội v.v... ở địa phương;
Góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, đề ra những tiêu chuẩn
gia đình văn hóa, các quy tắc đạo đức mới, giúp đỡ nhau tìm ra các biện pháp xử lý
tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình;
Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận động các
thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xóa đói giảm nghèo,
phát triển sản xuất, nâng cao mức sống, khuyến học, khuyến nghề v.v... ở địa
phương;
Đề ra các biện pháp thích hợp góp phần bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn.
2. Dự thảo hương ước, quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận,
được hội nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp, cụm
dân cư thông qua và được ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành
nhằm bảo đảm nội dung của hương ước, quy ước không trái với các quy định của
pháp luật hiện hành, không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí
và lệ phí có thể gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan Tư pháp,
cơ quan Văn hóa Thông tin ở các địa phương trong việc giúp ủy ban nhân dân cùng
cấp thực hiện quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước, nhằm bảo đảm cho việc soạn thảo hương ước, quy ước ở làng, bản, thôn,
ấp, cụm dân cư được tiến hành một cách thực sự dân chủ, coông khai, dưới sự lãnh
đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cấp xã, với sự tham gia tích cực
của ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở (Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội
Nông dân Việt Nam...).
Bộ Tư pháp chủ trì, cùng với Bộ Văn hóa Thông tin phối hợp với ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ quan hữu quan
khác chỉ đạo triển khai thí điểm Chỉ thị này tại một số địa phương để rút kinh
nghiệm. Trên cơ sở tổng kết tình hình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
trên phạm vi toàn quốc, Bộ kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ các biện pháp, các
mô hình mẫu về các hoạt động văn hóa nhằm tiếp tục tăng cường công tác quản lý
nhà nước và phát huy vai trò của các văn bản hương ước, quy ước trong giai đoạn
hiện nay.
4. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình,
trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết quy định cụ thể việc quản lý nhà
nước và định hướng nội dung hương ước, quy ước căn cứ vào quy định của pháp
luật hiện hành và phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa xã hội, phong
tục tập quán của địa phương.Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo triển khai và kiểm
tra việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các vấn đề nói trên.
5. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ phê duyệt các văn bản hương
ước, quy ước do ủy ban nhân dân cấp xã trình và chỉ đạo, hướng dẫn việc thực
hiện hương ước, quy ước trong phạm vi địa bàn huyện, bảo đảm nội dung hương
ước, quy ước phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, các quy tắc xây
dựng nếp sống văn hóa mới, duy trì và phát triển phong tục tập quán tốt đẹp ở cơ
sở.
6. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản, thôn,
ấp, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước có nội dung phong phú, thiết thực,
phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước, và trình ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt. ủy ban nhân dân cấp
xã thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn.
7. cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc tuyên truyền về vai trò và tác
dụng của việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, các mô hình mẫu về
nếp sống văn hóa, gắn với việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát
huy dân chủ ở cơ sở; nêu gương những điển hình tiên tiến, phát hiện và đấu tranh
chống các biểu hiện tiêu cực, sai trái hoặc lợi dụng hương ước, quy ước để duy trì
các hủ tục, tập quán lạc hậu.
8. Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan, Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này./.
Năm 1999, Bộ Tư pháp cũng có những công văn, chỉ thị hướng dẫn các địa phương
thực hiện nghị định này của Chính phủ.
1. 2. Vai trò, ảnh hưởng tích cực của Hương ước trong sự phát triển của
làng xã hôm nay
1.2.1. Hương ước giúp bảo tồn và giữ gìn các danh lam thắng cảnh, đền thờ,
bảo vệ môi trường của làng nói riêng và của toàn dân tộc nói chung.
Những phân tích trên đã cho thấy bảo vệ môi trường, bảo vệ các danh lam thắng
cảnh, giữ gìn môi trường, các đền chùa, miếu mạo của làng xã là một trong những
nội dung cơ bản của Hương ước. Điển hình như thời gian qua là tại xã Nghi Sơn,
Quế Sơn, Quảng Nam, nơi có một khu rừng nhỏ mang tên Miếu Cấm đã được cả
dân làng nâng niu bảo vệ, nguyên nhân là từ một bản Hương ước truyền từ đời xa
xưa quy định: “Cấm cư dân trong làng vào rừng chặt củi làm than. Nếu vi phạm sẽ
bị làng xử phạt. Nhẹ thì cảnh cáo, nặng thì đòn roi, nghiêm trọng hơn thì đuổi ra
khỏi làng”. Từ đó, không những chỉ người dân trong làng, mà ngay cả những cư dân
nơi khác cũng không dám vào săn bắt, chặt cây, dù rừng có rất nhiều các loại gỗ
quý.
1.2.2.. Hương ước góp phần duy trì và phát huy thuần phong, mỹ tục và
truyền thống văn hoá cộng đồng, củng cố các giá trị đạo lý và nhân bản. Nuôi
dưỡng, vun đắp ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tinh thần bất khuất, tinh thần
tự lực, tự chủ cho mỗi thành viên trong cộng đồng làng xã, xây dựng ý thức cộng
đồng làng xã.
Trong Hương ước xưa cũng có nhiều điều “khuyến”. Như trong bài truyền
thống khuyến học của người Hà Nội xưa qua Hương ước (Tạp chí Xưa và Nay số
tháng 101998) đã ghi lại nhiều điều trong Hương ước một số làng ở Hà Nội với
nội dung chính là khuyến khích việc học hành. Như điều 102 trong Hương ước làng
Nhật Tân ghi lại rằng: “Dạy trẻ con có học thức phổ thông là nghĩa vụ của người
làm phụ huynh, không ai được từ”. Hương ước làng Phù Xá Đoài (Đông Anh), có
điều khoản ghi: “Con trai con gái 5,6 tuổi cho vào trường học. Bằng không cho đi
học, chỉ nuông con để nghịch giặc, chửi đánh nhau, thời bố mẹ phải phạt một cơi
trầu (10 quả cau, giá tiền một hào)”,
Hương ước làng Cổ Nhuế, điều 98 ghi: “Làng trích tiền công để mua giấy
cho những con nhà nghèo mà hương hội xét không thể mua được”. Hầu như làng
nào cũng có khoản học điền để dành quỹ trả lương cho thầy giáo trưởng làng và
phát phần thưởng cho học trò giỏi, nhằm thúc đẩy tinh thần hiếu học, ham học hỏi
của người dân. Về tinh thần văn hoá, tiêu biểu là ở huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
đã thực hiện được 100% khu dân cư có Hương ước xây dựng nếp sống văn hoá,
trong đó có quy định khá cụ thể về nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc
tang và lễ hội… trở thành một điểm sáng cho các huyện, tỉnh khác noi theo. Ngoài
ra, các Hương ước còn có những điều lệ quy định tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái, “lá lành đùm lá rách”, “uống nước nhớ nguồn”… trong cộng đồng làng xã
cũng có ảnh hưởng tích cực đến đời sống làng xã Việt Nam hiện nay. Phát huy cái
đẹp, cái tốt trong Hương ước xưa, ngày nay, xã Quỳnh Hồng (huyện Quỳnh Lưu,
Nghệ An), xã Hải Tân (huyện Hải Hậu, Nam Định) cùng nhiều nơi khác xây dựng
và thực hiện quy chế thôn xã văn hóa, vừa khôi phục những truyền thống tốt đẹp
của mình, vừa nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật chung của đất nước, cùng cả
nước lo toan những nghĩa vụ chung của người dân bình đẳng. Xã Xuân Thành
(huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) được coi là lá cờ đầu xây dựng quy ước nông thôn
mới của tỉnh, nổi bật nhất trong mối quan hệ nhân dân với cán bộ thôn xã, không
chỉ trong lao động sản xuất mà còn cả việc sinh đẻ theo kế hoạch, việc xẻ làng đi
xây dựng quê hương mới.
1.2.3.. Tổ chức và quản lý các mặt của đời sống làng xã, duy trì trật tự, kỷ
cương, tạo ra môi trường ổn định và an toàn cho cả cộng đồng làng xã.
Căn cứ các Hương ước cổ còn đến ngày nay ta thấy, hầu như quy định trong
các bản Hương ước đều thể hiện tinh thần ý thức hệ Nho giáo. Đó là các quy định
về “Tam cương, ngũ thường”, về “tôn ti trật tự” trong các quan hệ có tính thứ bậc
trong làng xã. Từ đó, Hương ước đã góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cụ
thể trong làng xã. Việc phát huy tinh thần tự chủ, tự giác, tự quản làng xã cùng dư
luận xã hội và các biện pháp thưởng, phạt khác đã giúp cho trật tự, kỷ cương làng
xã được thực hiện một cách rất nghiêm chỉnh, nhờ đó đã giúp rất nhiều cho sự phát
triển của làng xã hôm nay.
1.2.4.. Hương ước không chỉ là biểu hiện của pháp luật mà còn giúp khắc
phục các chỗ hổng của pháp luật hoặc pháp luật quy định chưa cụ thể; Đưa pháp
luật đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn.
Pháp luật dù cụ thể đến mấy cũng không thể bao quát được tất cả các đặc
thù của quan hệ làng xã. Đặc biệt là các làng xã cổ truyền Việt Nam bên cạnh các
đặc điểm có tính phổ quát, mỗi làng xã lại có các đặc điểm riêng của mình. Do vậy,
mỗi một cộng đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định gần gũi, dễ hiểu, dễ
thực hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát
triển vủa mỗi làng, xã cụ thể. Bên cạnh đó, khi có những chính sách của Nhà nước
đưa xuống các vùng nông thôn thì nhờ có Hương ước của các làng nên việc thực thi
những chính sách đó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh hơn, nâng cao ý thức
pháp luật của người dân ta. Trong ý nghĩa ấy, Hương ước là phương tiện, công cụ
bổ sung quan trọng cho khả năng điều chỉnh của luật nước, thể hiện ở các việc cụ
thể:
Hương ước biến các quy định chung của pháp luật thành các quy định cụ thể
của làng: đơn giản hoá các quy định của luật nước, làm cho ý thức hệ pháp luật của
Nhà nước trở nên gần gũi và thâm nhập vào hệ tư tưởng, vào tâm lý và lối sống của
mỗi người dân, làm pháp luật trở nên dễ hiểu, dễ áp dụng. Với lối hành văn dung
dị, có vần điệu theo dân gian, Hương ước đi vào đời sống một cách tự nhiên, nên
thấm sâu vào đời sống cộng đồng mà ít cần đến các phương tiện tuyên truyền, phổ
biến ồn ào, tốn kém.
Hương ước góp phần biến cải khuôn khổ cứng nhắc, các quy tắc có tính
nghiêm khắc lạnh lùng của luật pháp thành sự uyển chuyển, linh động và biến hoá
trong lối hành xử của các cộng đồng. Ở Hương ước, lệ làng, ta nhận thấy các tinh
thần khoan dung, độ lượng và uyển chuyển, hoá giải cái khô cứng, hà khắc, đôi khi
là tàn bạo của luật pháp.
Hương ước đưa ra nhiều quy định cụ thể bổ khuyết vào các lỗ hổng của pháp
luật, trong các mối quan hệ cụ thể của cuộc sống làng xã. Các vấn đề như chia
ruộng đất công, lão quyền, nam quyền, phụ quyền, trưởng quyền, an ninh làng xã,
đời sống tâm linh của cộng đồng… Thường là những vấn đề được quy định chung
chung trong luật nước lại rất cụ thể trong các Hương ước.
1.3. Những ảnh hưởng tiêu cực của Hương ước trong sự phát triển của
làng xã
1.3.1. Hương ước mang theo những quan niệm lạc hậu , chứa những yếu tố
tiêc cực, gây ảnh hưởng cho sự phát triển của làng xã, cản trờ việc thực hiện các
chính sách phát triển của nhà nước.
Trong thực tiễn đời sống pháp lý ở làng xã cổ truyền Việt Nam, quan niệm “phép
vua thua lệ làng” đã tạo điều kiện cho sự thể hiện các tác động tiêc cực của bản
thân mỗi Hương ước. Vì bên cạnh các giá trị tích cực như đã nói ở trên, thì nhiều
Hương ước cũng chứa đựng không ít các quy tắc mang tính tiêu cực, thể hiện tinh
thần cục bộ địa phương, bè phái trên cơ sở “tâm lý làng” và bởi tư duy “ăn cây nào
rào cây ấy”, “ở đình nào chúc đình ấy”, “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào
làng ấy thờ”, ít quan tâm đến lợi ích của làng khác và lợi ích của cả nước. Ví dụ
như các bản Hương ước có quy định hủ tục về ma chay, cưới hỏi, hội hè… làm tốn
kém tiền của, thời giờ, thậm chí phá vỡ hạnh phúc của nhiều người. Ngoài ra, có
nhiều bản Hương ước đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân, khiến cho việc tiếp
nhận những chính sách, những kinh nghiệm tiến bộ bị cản trở, nhất là ở những nơi
vùng sâu, vùng xa, khi mà trình độ dân trí còn thấp thì việc tiếp nhận được những
tiến bộ để thay đổi các hủ tục đã có từ lâu thì lại càng khó hơn.
1.3.2. Bị lợi dụng để trốn tránh nghĩa vụ trước Nhà nước, đục khoét dân
làng.
“Tâm lý làng” với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống đẳng cấp, ngôi thứ trong
làng đã được giới chức dịch trong làng bao đời lợi dụng để trói buộc người nông
dân vào hằng hà vô số các nghĩa vụ, trách nhiệm, cấm đoán và hạn chế. Tuy nhiên,
hiện tượng hách dịch nhân dân ở làng xã như trên hiện nay đã giảm đáng kể, chỉ còn
tồn tại rất ít với mức độ cũng rất hạn chế, chính là do các chính sách cải cách và
điều chỉnh, quản lý của Đảng và Nhà nước ta.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN HƯƠNG ƯỚC QUY
ƯỚC TẠI LÀNG LỤA VẠN PHÚC HÀ ĐÔNG
2.1. Khái quát về hương ước và quy ước tại làng lụa Vạn Phúc Hà Đông
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Làng Vạn Phúc vốn có tên Vạn Bảo, do kị húy nhà Nguyễn nên đã đổi thành
Vạn Phúc. Theo truyền thuyết, cách đây khoảng hơn 1100 năm, bà A Lã Thị Nương
là vợ của Cao Biền, thái thú Giao Chỉ, từng sống ở trang Vạn Bảo. Trong thời gian
ở đây, bà đã dạy dân cách làm ăn và truyền nghề dệt lụa. Sau khi mất, bà được
phong làm thành hoàng làng.
Lụa Vạn Phúc được giới thiệu lần đầu ra quốc tế tại các hội chợ Marseille
(1931)[cần dẫn nguồn] và Paris (1932), được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm
tinh xảo của vùng Đông Dương thuộc Pháp. Từ 1958 đến 1988, sản phẩm lụa Vạn
Phúc hầu hết được xuất sang các nước Đông Âu; từ 1990 xuất khẩu ra nhiều quốc
gia trên thế giới, thu ngoại tệ về cho Việt Nam.
Năm 2009, làng Vạn Phúc có khoảng 1000 khung dệt, sản xuất nhiều loại
lụa cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước, trong đó có các loại lụa cao cấp
như lụa vân quế hồng diệp và lụa vân lưỡng long song phượng.
Năm 2010, để kỉ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội, nghệ nhân
Nguyễn Hữu Chỉnh, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, đã thiết kế
mẫu lụa Long Vân với hoa văn mang hình tượng lưỡng long chầu Khuê Văn Các
được cách điệu trong hình ảnh hoa sen.
Trong nhiều cửa hàng lụa ở Hà Nội và cả ở làng Vạn Phúc, lụa Trung Quốc
chất lượng kém hơn được trà trộn vào bán với danh nghĩa lụa Vạn Phúc, làm giảm
uy tín của lụa Vạn Phúc.
Hiện nay, Vạn Phúc đã trở thành một điểm đến quen thuộc trong các tour du
lịch làng nghề. Đến Vạn Phúc, du khách không chỉ có cơ hội mua sắm các sản
phẩm lụa Hà Đông chính hiệu mà còn được chứng kiến quy trình làm ra tấm lụa
của các nghệ nhân, đặc biệt là tại xưởng sản xuất của nghệ nhân Triệu Văn Mão
bởi chỉ xưởng của ông là có máy dệt lụa Vân – loại lụa cổ truyền nổi tiếng nhất
Vạn Phúc đã gần như bị thất truyền. Đây là loại lụa mỏng có hoa nổi, hoa chìm.
Hoa nổi trên mặt lụa thì bóng mịn còn hoa chìm thì phải soi ra chỗ sáng mới thấy
được. Bên cạnh xưởng dệt là cửa hàng giới thiệu sản phẩm với hàng trăm loại lụa
đủ màu sắc và các loại sản phẩm như: khăn choàng, quần áo, túi xách, cà vạt…
Thương hiệu lụa Vạn Phúc đã không chỉ trở thành niềm tự hào của người dân Vạn
Phúc mà quan trọng hơn, còn bảo tồn một nét văn hóa Việt.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên
Làng lụa Hà Đông hay Làng lụa Vạn Phúc (nay thuộc phường Vạn Phúc,
thuộc quận Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km) là một làng nghề dệt
lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng có từ ngàn năm trước. Lụa Vạn Phúc có nhiều mẫu hoa
văn và lâu đời bậc nhất Việt NamLụa Hà Đông từng được chọn may trang phục cho
triều đình.
Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc vẫn còn giữ được ít nhiều nét cổ
kính quê ngày xưa như hình ảnh cây đa cổ thụ, giếng nước, sân đình, buổi chiều
vẫn họp chợ dưới gốc đa trước đình. "Lụa Hà Đông" cũng như các sản phẩm thủ
công truyền thống của các làng nghề Hà Nội, thường được nhắc đến trong thơ ca
xưa. Trong nhiều gia đình, khung dệt cổ vẫn được giữ lại, xen lẫn với các khung
dệt cơ khí hiện đại.
2.2. Tình hình môi trường tại Làng lụa Vạn Phúc Hà Đông
Làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc của TP.Hà Đông chuyên sản xuất lụa tơ
tằm, vải các loại và in hoa. Sản xuất của các làng nghề ở quy mô hộ gia đình với
các thiết bị máy móc thô sơ, lạc hậu chủ yếu sản xuất trong nước. Các thiết bị đã
lạc hậu chắp vá, không theo một trình tự nào do ghép nhiều công nghệ khác nhau
nên khí thải, nước thải, rác thải sau quá trình sản xuất không được xử lý gây ô
nhiễm môi trường.
Làng lụa Vạn Phúc có 9.420 nhân khẩu, trong đó có gần 3.000 người tham
gia nghề dệt và 35 cơ sở chuyên tẩy, nhuộm. Trong quá trình sản xuất có sử dụng
hóa chất, thuốc nhuộm để tẩy, in. Nước thải dịch nhuộm sau các công đoạn sản
xuất không qua xử lý đổ thẳng ra cống rãnh và xả xuống sông Nhuệ gây ô nhiễm
nghiêm trọng tầng nước mặt. Tại Vạn Phúc, toàn bộ lượng nước thải sau tẩy,
nhuộm chưa qua xử lý của các hộ làm nghề và Công ty Len hòa với nước thải sinh
hoạt chảy chung vào mương dẫn qua cầu cánh Tiên đổ vào ao Độc Lập rồi xả trực
tiếp xuống sông Nhuệ.
Vào mùa hè, mùi hôi thối, hắc của nước thải bốc lên nồng nặc từ các
mương dẫn ảnh hưởng rất lớn đến vệ sinh môi trường và sức khỏe người dân xung
quanh. Hàm lượng ô xy hóa học COD trong các công đoạn tẩy nhuộm vượt quá tiêu
chuẩn cho phép từ 38 lần; độ màu đo được 750 PtCo, vượt tiêu chuẩn nhiều lần.
Các chỉ tiêu của nước thải cao chưa được xử lý thải trực tiếp ra hệ thống ao, sông.
Ngoài ô nhiễm do nước thải còn ô nhiễm khí thải, rác thải và tiếng ồn. Rác
thải ở các làng nghề dệt Hà Đông chủ yếu là xơ nhộng, vụn bông, tơ vụn. Tiếng
ồn phát sinh ra do vận hành máy dệt, quấn sợi và do sự va chạm của thoi trong khi
dệt, guồng sợi. Khí thải sinh ra từ các phân xưởng dệt, lò hơi và các lò nấu tẩy nhỏ
có dùng than phục vụ quá trình giặt nóng, nấu, sấy, nhuộm.
Để giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi trường trong các làng nghề tại Hà Đông
đang có chiều hướng gia tăng, rất cần quy hoạch gọn các cơ sở sản xuất vào khu
vực nhất định để xây dựng hệ thống xử lý nước thải, khí thải trước khi xả ra môi
trường xung quanh. Bên cạnh đó việc đề ra một chính sách cho các hộ, cơ sở sản
xuất vay lãi suất thấp thực hiện xây dựng hệ thống xử lý chất thải cũng là một
biện pháp để từng bước giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Lồng ghép phổ biến các
chính sách, quy định về bảo vệ môi trường trong các cuộc họp dân sẽ nâng cao ý
thức giữ gìn vệ sinh công cộng.