Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của nguyễn huy tự (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.96 KB, 110 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------  -------

TRẦN THỊ
LOAN

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN
CỦA NGUYỄN HUY TỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------  -------

TRẦN THỊ
LOAN

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN
CỦA NGUYỄN HUY TỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ VIỆT
HẰNG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập nghiên
cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt em xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng đã tận tình giúp
đỡ và hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm
2017
Sinh viên

Trần Thị Loan


LỜI CAM
ĐOAN
Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết
quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị
Việt Hằng. Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng khớp
với các công trình nghiên c ứu khác. Nếu sai sót, em xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm

2017
Sinh viên

Trần Thị Loan


MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU….......................................................................................................1
1. Lí do chọn đề
tài............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên
cứu........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
............................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................
5
6. Đóng góp của khóa luận ..........................................................................
6
7. Bố cục của khóa luận ..............................................................................
6
NỘI DUNG ................................................................................................
7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG..................................................... 7
1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa
đầu thế kỉ
XIX..........................................................................................................7

1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa
tiên.........................................................10
1.2.1. Cuộc
đời................................................................................................10
1.2.2. Truyện Hoa
tiên.....................................................................................12
Chương 2. TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH
YÊU ĐÔI
LỨA........................................................................................................19


2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái
tim......................19
2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khỗ lễ giáo phong
kiến.........28
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ
THUẬT….........................38
3.1. Kết cấu ..............................................................................................
38
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.............................................................
42
3.3. Ngôn ngữ...........................................................................................
48
KẾT LUẬN..............................................................................................
56
TÀI LIỆU THAM
KHẢO...................................................................................




MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề
tài
Trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá quan
trọng không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn lại đến ngày nay mà còn bởi
chất lượng và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc giả. Có thể
nói kết tinh thành tựu văn học trung đại Việt Nam nằm ở thể loại truyện
Nôm với đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, đồng thời
với đó là truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân trang của
Phạm Thái... được coi là niềm tự hào của văn hóa và văn học nước nhà.
Với ý nghĩa như vậy, nghiên cứu một tác phẩm truyện Nôm nổi bật là
hướng đi hấp dẫn.
Những năm gần đây, chương trình giáo dục ở Đại học có nhiều thay
đổi, việc đào tạo theo hình thức tín chỉ kéo theo số giờ giảng dạy giảm đi
nhiều, một số tác phẩm ít có cơ hội được đề cập đến. Việc tìm hiểu cũng
như đào sâu khai thác là cầu nối giúp cho người đọc bước vào thế giới
văn học trung đại một cách trọn vẹn, phong phú hơn. Bên cạnh đó, truyện
Hoa tiên được đánh giá khá cao trong nhóm truyện Nôm bác học. Song tác
phẩm này chưa được giảng dạy trong chương trình, có chăng chỉ được
nhắc đến như một ví dụ minh chứng cho thể loại truyện Nôm. Vì vậy lựa
chọn truyện Hoa tiên để nghiên cứu là một cách để người viết bổ sung
kiến thức về truyện Nôm nói riêng và văn học trung đại nói chung.
Với ý nghĩa là một tác phẩm được đánh giá cao của thể loại, Hoa tiên
nhận
được không ít sự lưu tâm của giới nghiên cứu khai thác trên nhiều khía
cạnh song chưa có công trình nào viết một cách bài bản bao quát cả
phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nên chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài này.

1



Là một sinh viên khoa Ngữ văn và một giáo viên tương lai, việc nắm
được một cách sâu rộng giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Hoa
tiên nói riêng

2


và thể loại truyện Nôm nói chung có ý nghĩa quan trọng trong công việc và
góp phần bổ sung kiến thức cá nhân.
Dựa trên những tiền đề khoa học và thực tiễn, nhận thấy nghiên cứu
giá trị nội dung và nghệ thuật là cách để bao quát đầy đủ thành tựu cũng
như hạn chế của một tác phẩm văn học, cộng với hứng thú cá nhân đã
thôi thúc người viết lựa chọn đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ
thuật truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự” cho khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Truyện Hoa tiên là tác phẩm được giới nghiên cứu quan tâm trên
nhiều phương diện. Chúng tôi bắt gặp một số lượng không nhỏ những
cuốn sách, những tài liệu, những công trình liên quan đến truyện Hoa tiên
như vấn đề biên khảo, khía cạnh nội dung, nghệ thuật, vấn đề tôn giáo, tác
giả, tác phẩm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:
Năm 1828, Vũ Đài Vấn nhận xét về tác giả và người nhuận sắc
truyện Hoa tiên rằng: “Vì Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn
Thiện còn có những chỗ kém nên ông đã không quản tài thiên lậu mà
thêm bớt, mà sửa chữa từng chữ, từng câu; đầy năm mới xong” [4,tr15].
Năm 1843, Cao Bá Quát đánh giá khá cao truyện Hoa tiên, ông khen
tác giả đã có công “dùng bụi bặm tấm cám mà hun đúc lên gạch ngói
lâu đài... khiến cho Kim Vân Kiều sau đó sinh ra được vậy” [4,tr254].
Năm 1943, Đào Duy Anh quan tâm nhiều đến thời điểm ra đời truyện

Hoa tiên đồng thời đưa ra những nội dung đánh giá bao quát về tác phẩm
trong cuốn Nguồn gốc Hoa tiên ký. Ông chỉ ra truyện Hoa tiên được sáng
tác khi Nguyễn Huy Tự còn trẻ và đưa ra những nhận định khách quan về
giá trị của tác phẩm.
Năm 1961, Lại Ngọc Cang trong khi khảo thích và giới thiệu truyện
Hoa
tiên nhận xét Nguyễn Huy Tự “đã viết Hoa tiên theo sát cốt truyện của ca
bản,


theo sát cả kết cấu của nó nữa, trừ phần cuối cùng... Ông đã thu gọn hẳn
câu chuyện lại..., đã tiếp thu hầu hết những ý hay, lời đẹp của ca bản,
nhưng ông cũng đã gạt bỏ đi rất nhiều câu rườm rà, không cần thiết”
[4,tr12-13].
Năm 1968, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu
nhận
định: “văn truyện ấy thật là lối văn uẩn súc, điêu luyện, dùng rất nhiều
điển cố; bởi thế cuốn ấy được các học giả thưởng thức, nhưng không được
phổ cập như cuốn Truyện Kiều c ủa Nguyễn Du” [8,tr324].
Trong hai năm 1993 – 1994, hội thảo kỉ niệm 200 năm ngày mất
(1990)
và 250 năm ngày sinh (1993) của Nguyễn Huy Tự đã được tổ chức tại Hà
Tĩnh và Hà Nội, bao gồm 25 bản tham luận, về sau được in trong cuốn
Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên. Những bài tham luận đã đề cập tới
một số khía cạnh có liên quan đến đề tài người viết đang nghiên cứu:
Trần Đình Hượu với Hoa tiên và vấn đề của nó trong lịch sử
truyện Nôm cho rằng Nguyễn Huy Tự đã “dốc tài năng văn chương
quốc âm ra làm một việc hoàn toàn mới: chuyển tác một ca bản chữ
Hán thành một truyện thơ. Sau ông có những người làm theo, hoặc
chuyển tác như Kim Vân Kiều, hoặc sáng tác như Sơ kính tân trang.

Cái hấp dẫn họ hay chủ đề văn học mà họ theo đuổi là tình yêu và điều
đó biểu hiện rõ trong công phu gọt rũa văn chương những đoạn mô tả
tình yêu tinh tế, sâu sắc” [29,tr188].
Phong Lê với Nguyễn Huy Tự và Hoa tiên trong cảm hứng nhân
văn và văn mạch dân tộc đã khen ngợi “Hoa tiên trong sự phát triển
của cả một dòng truyện thơ từ bình dân sang bác học quả đã ghi được
một dấu ấn quan trọng trên hành trình tinh thần và khát vọng hạnh
phúc của con người” [29,tr31].
Đào Thản với công trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Huy Tự
trong Hoa tiên nhận xét rằng “Nét nổi bật trong ngôn ngữ thơ của


Hoa tiên là sức diễn cảm. Từng câu thơ, đoạn thơ cứ như những
cánh hoa vụng dại


run rẩy nở ra trước gió, đem đến cho ta cảm giác rằng chúng được
viết ra không phải bằng giấy mực mà bằng hơi thở nhịp đập trái tim
và bằng cả tâm hồn” [29,tr285].
Năm 1996, Ngô Thị Thanh Nga với Truyện thơ Nôm Hoa tiên ký
qua sự
tiếp nhận của các thế hệ độc giả in trên tạp chí Khoa học và Công nghệ
đưa ra nhận định: “Dù sự tiếp nhận của các độc giả về Hoa tiên ký không
nhiều, nhưng những giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như giá trị mở
đường cho sự phát triển của văn học Nôm nói chung và thể loại truyện
thơ nôm nói riêng của tác phẩm cũng đã được các độc giả khẳng định một
cách vững chắc” [58(10)].
Năm 2004, Lại Văn Hùng trong cuốn Từ điển văn học cho rằng tác
giả viết truyện Hoa tiên vào thời trẻ đồng thời khen ngợi Nguyễn Huy
Tự đã biết “biến lối văn “kể và thuật” của ca bản Trung Quốc thành lối

văn “tả và gợi” [21,tr1151].
Năm 2004, Nguyễn Lộc quan tâm vấn đề truyện Hoa tiên so với các
tác phẩm truyện Nôm khác cùng thời, ông nhận định “Hoa tiên là một câu
chuyện tình xảy ra trong cảnh lầu son gác tía. Điều đáng chú ý là trong
tác phẩm này là không có một nhân vật phản diện nào cả. Mâu thuẫn giữa
tình yêu và lễ giáo phong kiến không thể hiện thành hai tuyến nhân vật
đối lập, như trong nhiều truyện Nôm khác cùng thời, mà thành cuộc đấu
tranh giữa lý trí và tình cảm ở những nhân vật chính” [21,tr600].
Điểm qua một vài công trình nghiên cứu về vấn đề truyện Hoa tiên,
chúng tôi nhận thấy hầu hết các khía cạnh của tác phẩm đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan ta có
thể thấy các công trình, các bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó
của vấn đề, chưa có công trình nào khái quát về giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm. Tất cả những công trình, những bài viết, những ý
kiến, nhận định, đánh giá của các nhà


nghiên cứu trên đây là những gợi ý quý báu trong việc đi sâu khai thác tác
phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là hoàn thành một công trình nghiên cứu về
giá
trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Hoa tiên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về thời đại Nguyễn Huy Tự trên hai phương diện lịch
sử, xã hội và văn hóa tư tưởng, từ đó nhìn nhận những căn cứ quan trọng
có tác động đến tác giả.
- Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tự cùng những vấn đề
liên quan đến tác phẩm.

- Làm rõ những khía cạnh cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm
Hoa tiên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là truyện Hoa tiên. Ở đây chúng
tôi sử dụng văn bản trong cuốn Truyện Hoa tiên, Lai Ngọc Cang khảo
thích và giới thiệu, NXB Văn Hóa Hà Nội,1961.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị
nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện Hoa tiên.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn học Sử.
- Phương pháp liên ngành.
- Thao tác thống kê phân loại.
- Các thao tác chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp.


6. Đóng góp của khóa luận
Đưa ra một công trình nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và
nghệ
thuật của truyện Hoa tiên.
7. Bố cục của khóa luận
Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết
luận.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia thành ba
chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung
- Chương 2: Truyện Hoa tiên thể hiện câu chuyện tình yêu đôi

lứa.
- Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật.


NỘI DUNG
Chương
1

NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG

1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến
nửa
đầu thế kỉ XIX
Truyện Hoa tiên ra đời trong giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa
đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn tổng khủng hoảng một cách trầm trọng,
toàn diện. Sự khủng hoảng này được bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng
nổi bật nhất là sự suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến.
Những mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn
này bộc lộ gay gắt và bùng nổ thành những cuộc đấu tranh quyết liệt.
Các tập đoàn phong kiến liên tiếp thay thế nhau thống trị đất nước, chỉ
trong một thời gian ngắn, vua Lê mất, chúa Trịnh diệt vong, Nguyễn Huệ
lên ngôi. Sự biến động này kéo theo mâu thuẫn trong nội bộ triều chính.
Tất cả tình hình kinh tế, chính trị như vậy dẫn đến kết quả những cuộc
nội chiến kéo dài, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra chống lại
triều đình ở cả hai miền Nam, Bắc và giai cấp thống trị cực đoan. Đỉnh
cao là phong trào Tây Sơn – cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ giành được những thắng lợi vẻ vang, đánh đổ ba tập đoàn
phong kiến thống trị trong nước, đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược,
lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ,

xây dựng nước Việt độc lập, tự chủ, dân giàu, nước mạnh, nhân dân
được hưởng thái bình. Chính vì vậy, “thế kỷ XVIII được giới sử học
mệnh danh là thế kỷ của chiến tranh nông dân” [28,tr5]. Thời đại nhiều
biến cố đã gây ra tác động không nhỏ đến các trí thức nho học và bản thân
chính tác giả Nguyễn Huy Tự lúc bấy giờ. Đây là thời điểm các triều đại
liên tiếp thay thế nhau, chữ “trung” bị suy đồi, vua tôi đảo lộn dẫn đến bi


kịch của giới trí thức nho học mông lung trước chữ “trung” của mình.
Phạm Thái từng kêu lên:


Dăm bảy năm nay những loạn
ly, Cũng thì duyên phận cũng
thì thì. Ba mươi tuổi lẻ là bao
nả,
Năm sáu đời vua khéo chóng
ghê.
Văn hóa tư tưởng giai đoạn này cũng khủng hoảng nghiêm trọng.
Nho
giáo vốn được coi như phương tiện đắc lực để các triều đại nắm quyền sử
dụng
điều hành đất nước đến đây lung lay không thể cứu vãn. Tam cương,
ngũ thường của người quân tử bị đảo lộn, mọi kỷ cương bị phá vỡ, chúa
hiếp đáp vua, con âm mưu lật đổ cha, bề tôi nhiều người phản trắc, đồng
tiền và quyền lực mới là mục đích tối cao, quan lại, nho sĩ biến chất.
Điều này được diễn tả khá sinh động trong Hoàng Lê nhất thống chí của
Ngô Gia Văn Phái. Vua Lê trở thành bù nhìn, toàn bộ việc triều chính
nằm trong sự sinh sát của chúa Trịnh. Chúa hiếp đáp vua đến nỗi biến vua
thành tên hề ngay trên cung điện của mình, còn vua tự biến mình thành

một kẻ hèn nhát với phương châm “Trời xui nhà chúa phò ta. Chúa gánh
cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?”.
Trịnh Sâm say đắm, mải mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ mà gây ra sai lầm
nghiêm trọng trong việc lựa chọn Trịnh Cán quanh năm ốm yếu làm thế
tử; Trịnh Tông vì tham vọng làm chúa mà trái mệnh cha, mưu đồ phản
loạn. Ngay cả đạo quần thần cũng bị chà đạp, Tuần huyện Nguyễn Trang
đã nộp chúa Trịnh Tông cho Tây Sơn, không chỉ vậy, hắn còn bộc lộ
trắng trợn quan điểm của mình trước thầy học Lí Trần Quán “Sợ thầy
chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan
lớn để cho lầm lỡ đâu”.
Minh chứng này cộng với việc nội bộ các triều đại vì tranh ngôi báu
mà phá vỡ mọi rường mối Nho giáo, chữ “trung”, chữ “hiếu” bị kéo đổ


thảm hại. Trong bối cảnh này tầng lớp trí thức Nho học bị rơi vào khủng
hoảng, bế tắc, hầu hết đều mang trong mình những tâm sự bi kịch. Nguyễn
Du viết trong Tạp thi:


Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
(Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi đát
Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt)
Cao Bá Quát với Bệnh trung:
Trắc thân thiên địa bi cô
chưởng Hồi thủ yên tiêu khuất
tráng đồ (Đất trời đau nỗi bàn
tay lẻ
Mây khói che đường chí khí to)
Tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng, bế tắc, đời sống

chính trị ngày càng rối ren thì “con người không có cách nào khác là đi
tìm tín ngưỡng tôn giáo để cứu cánh” [6,tr83]. Nếu như Phật giáo và Đạo
giáo trước đây suy thoái (thế kỷ XVI) thì đến giai đoạn này lại có điều
kiện phục hồi, tuy nhiên không bằng giai đoạn trước đó. Đạo Phật lúc này
được coi trọng trở lại, nó phát triển trong lúc các tín ngưỡng dân gian
ngày càng được mở rộng, nhiều chùa quán được xây dựng, một số chùa
được trùng tu lại. Phật giáo tồn tại, gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức tâm linh
của con người và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tâm lí, nếp sống của
nhân dân. Đạo giáo cũng có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống tâm
hồn của người dân, nó được coi là “thứ thuốc chính thống cho các vết
thương tâm hồn” [14,tr51]. Đạo giáo “thấm nhuần tư tưởng lãng mạn, chủ
trương trở về với tự nhiên, thoát li đời sống xã hội, phản kháng những lễ
nghi, bổn phận đạo Khổng tạo ra…” [14,tr50].
Dựa trên nền tảng của luận lý xã hội lúc bấy giờ, cụ thể là trên tinh thần
Nho
– Phật – Đạo, là quy phạm cương thường của người quân tử, lòng từ bi
bác ái của con người, là triết lý sống hòa hợp với tự nhiên để được dân
gian hóa, trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam.


Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự ra
đời của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Các tác giả chủ yếu
hướng ngòi bút của mình vào thân phận con người, tình yêu và khát vọng
hạnh phúc. Thời điểm này truyện Nôm khá phát triển, người ta có xu
hướng viết về những vấn đề lịch sử, trong đó có một hướng đi nổi trội
lúc bấy giờ là dựa trên cốt truyện có sẵn, tiểu thuyết tài tử giai nhân của
Trung Quốc để viết lại. Truyện Kiều là một ví dụ. Nguyễn Du đã mượn
cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà sáng tạo
ra Truyện Kiều bằng thơ lục bát dài 3254 câu thơ đậm đà bản sắc Việt
Nam. Truyện Hoa tiên cũng vậy, dựa theo một ca bản của Trung Quốc có

tên gọi Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, Nguyễn Huy Tự đã có những sáng tạo
riêng để tạo thành một tác phẩm mang tinh thần dân tộc.
Giai đoạn này, mọi giá trị, mọi ràng buộc con người của lễ giáo
phong kiến tất yếu có ảnh hưởng tới sáng tác văn chương. Văn học Việt
Nam thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX viết nhiều tình yêu và người
phụ nữ với kiểu mẫu “công dung ngôn hạnh”, “xuất giá tòng phu”... và
những khuôn khổ đạo đức của lễ giáo phong kiến. Truyện Hoa tiên là
một câu chuyện dài thể hiện tình yêu đôi lứa trong khuôn khổ trật tự
phong kiến.
1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Huy Tự, còn có tên gọi khác là Yên, tự là Hữu Chi, hiệu là
Uẩn Trai, sinh ngày 15 tháng 7 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 đời vua Lê
Hiển Tông, tức là ngày 2 tháng 9 năm 1743, người làng Trường Lưu, xã
Lai Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Huy Tự là con trưởng Nguyễn Huy Oánh và bà chính thất
họ Nguyễn, ông nổi tiếng học rộng biết nhiều. Tương truyền “Ông bác
thiệt cổ kim, lại giỏi thuật số, cho nên những thi họa, quốc âm, thanh
luật, kỹ nghệ


không món gì là không tinh tuyệt. Khâm hoài tiêu sái, khí cục hiên
ngang, mà lúc trò chuyện bàn bạc thì mãn tọa không ai không lắng tai
nghe” [16,tr211].
Ông tổ xa xưa của họ Nguyễn Huy là Nguyễn Uyên Hậu, đậu ngũ
kinh
bác sĩ đời Hồng Đức. Thế tổ là Nguyễn Hàm Hằng, mười lăm tuổi đậu
hương thí, các đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt và làm quan. Ông nội
của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Tựu đậu hương giải, làm Tham chính
xứ Thái Nguyên, lúc chết được phong Công bộ Thượng thư. Cha

Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Oánh, đậu thám hoa, giữ chức Hộ bộ
Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc. Chú của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn
Huy Quýnh, đậu tiến sĩ, sau đổi sang làm quan võ, giữ chức Đốc thị đạo
Quảng Thuận, cũng là một người có tài văn học.
Năm 1759 (mười sáu tuổi), Nguyễn Huy Tự đậu thứ năm kỳ thi
hương, lúc bấy giờ Nguyễn Huy Oánh đang làm Nhập nội thị giảng ở
phủ chúa, ông
được bổ chức Thị nội văn chức tùy giảng để giúp cha. Sau đó liên tiếp
ông giữ
các chức Hồng lô tự thừa (1767), Tri phủ Quốc Oai (1768), Hiến sát
phó sứ Sơn Nam (1770). Năm 1774, đổi sang làm quan võ, Nguyễn Huy
Tự giữ chức Quản binh, bốn năm sau thăng lên làm Trấn thủ xứ Hưng
Hóa. Năm 1779, ông
được đặc ban Tiến triều ứng vụ, ngang với tiến sĩ, sau đó làm Đốc đồng
trấn Hưng Hóa rồi kiêm Đốc đồng Sơn Tây. Được ít lâu thì mẹ vợ mất,
lại có loạn kiêu binh, Nguyễn Huy Tự lấy cớ xin về nhà chịu tang rồi
không ra làm quan
nữa.
Nguyễn Huy Tự lấy hai đời vợ, vợ trước là Nguyễn Thị Bành, vợ
kế là Nguyễn Thị Đài, cả hai đều là con gái Nguyễn Khản, anh cả nhà


thơ Nguyễn Du và đều giỏi chữ Nôm. Ông có mười ba người con, chín
trai và bốn gái.
Năm 1790, ông được vua Quang Trung triệu vào Phú Xuân bổ chức
Hữu
thị lang, ông làm được mấy tháng thì bệnh nặng và mất ngày 27 tháng 7
năm
1790, thọ 48 tuổi.



1.2.2. Truyện Hoa tiên
Như chúng tôi đã trình bày, Nguyễn Huy Tự sống trong thời kỳ
khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và sự suy yếu của tập
đoàn thống trị Lê – Trịnh. Ông tích cực tham gia hoạt động, tạm thời gác
lại nghiệp văn thơ để cầm vũ khí nhằm bảo vệ trật tự xã hội đang bị lay
chuyển. Bởi vậy, hẳn đây không phải là thời gian nhàn rỗi và là nguồn
cảm hứng để ông có thể sáng tác truyện Hoa tiên. Dựa vào ghi chép về
dòng họ Nguyễn Huy, nhà phê bình Hoài Thanh đã đưa ra nhận định
“Nguyễn Huy Tự đã viết Hoa tiên hồi còn nhỏ tuổi” [26,tr104]. Ý kiến này
có cơ sở và khá chuẩn xác.
Vào thời chúa Trịnh Doanh, sau khi đậu thứ 5 kì thi hương khi mới
17 tuổi, Nguyễn Huy Tự rời quê lên Thăng Long giúp cha giảng sách ở
phủ Thế tử. Từ lâu, phong trào sáng tác thơ văn chữ Nôm đã thịnh hành ở
Thăng Long. Trịnh Doanh, Trịnh Sâm và Nguyễn Huy Oánh đều có tài làm
thơ Nôm, Nguyễn Huy Tự cũng là người có sở trường về thơ phong tình.
Nguyễn Huy Tự đã đính ước với con gái của Nguyễn Khản. “Tư thất
của Nguyễn Khản dựng ở xóm Bích – câu, nhà cửa lộng lẫy, vườn đầy
hoa thơm cỏ lạ, không kém gì vườn chúa nên thường được Trịnh Sâm ra
chơi và tỏ lời khen ngợi” [4,tr11]. Khi Nguyễn Huy Tự đến làm rể ở phủ
Nguyễn Khản đã cảm nhận được vẻ đẹp cảnh vật, chàng trai đang tuổi
hai mươi rạo rực yêu đương mới thấy hết được giá trị của ca bản Hoa
tiên ký. Nhà phê bình Tĩnh Tịnh Trai bình luận rằng đó là một truyện
“khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà trong khoảng giữa, không có
chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió trăng” [4,tr10]. Cảm xúc
tuổi trẻ trong Nguyễn Huy Tự rất thích hợp viết một truyện dài về yêu
đương và công danh như truyện Hoa tiên.
Từ việc nghiên cứu nguyên tác kết hợp với tìm hiểu cuộc đời Nguyễn
Huy Tự cho phép chúng tôi khẳng định: “Nguyễn Huy Tự đã viết truyện



Hoa tiên khoảng giữa thế kỷ XVIII, từ năm 1759 (năm ông tới Thăng
Long) đến năm


×