MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Chỉ tiêu
.......................................................................................................................................
20
KẾT LUẬN............................................................................................................30
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Chỉ tiêu
.......................................................................................................................................
20
LỜI MỞ ĐẦU
Quản trị tài chính là một bộ phận quan trọng của quản trị doanh nghiệp.Tất
cả các hoạt động kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh
nghiệp,ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu lại có tác động thúc đẩy hoặc
kìm hãm quá trình kinh doanh.Do đó, để phục vụ cho công tác quản lý hoạt động
kinh doanh có hiệu quả các nhà quản trị cần phải thường xuyên tổ chức phân
tích tình hình tài chính cho tương lai. Bởi vì thông qua việc tính toán, phân tích tài
chính cho ta biết những điểm mạnh và yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng như những tiềm năng cần phát huy và những nhược
điểm cần khắc phục. Qua đó các nhà tài chính có thể xác định được nguyên nhân
gây ra và đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính cũng như tình
hình hoạt động kinh doanh của đơn vị thời gian tới.
Xuất phát từ đó, trong thời gian thực tập tại Công ty TNHH chế biến thực
phẩm Đông Đô em đã cố gắng tìm hiểu thực tiễn hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty thông qua phân tích tài chính Công ty trong vài năm gần đây
nhằm mục đích tự nâng cao hiểu biết về vấn đề tài chính doanh nghiệp nói
chung và phân tích tài chính nói riêng.Vì vậy, em chon đề tài “Phân tích tài
chính và các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính tại Công ty TNHH
chế biến thực phẩm Đông Đô” làm luận văn tốt nghiệp
Luận văn tốt nghiệp của em được chia làm 3 chương:
CHƯƠNG 1 –Cơ sở lí luận chung về phân tích tài chính – Phương
pháp phân tích tài chính.
CHƯƠNG 2 – Thực trạng tình hình tài chính và hoạt động sản xuất
kinh doanh tại Công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô.
CHƯƠNG 3 – Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lưc
tài chính của Công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô.
3
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Phạm ThanhBình cùng toàn thể
các cán bộ công nhân viên Công ty TNHH Chế biến thực phẩm Đông Đô đã giúp
đỡ em thưc hiện luận văn tốt nghiệp này!.
4
CHƯƠNG 1:
CƠ SƠ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
– PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH.
1.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH.
1.1.1. Khái niệm ,đối tượng phân tích tài chính.
1.1.1.1.Khái niệm.
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm phương pháp, công cụ
theo một hệ thống nhất định cho phép thu nhập và xử lý các thông tin kế toán
cũng như các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đưa ra những
đánh giá chính xác, đúng đắn về tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của
doanh nghiệp, giúp nhà quản lý kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp, nâng cac hiệu quả sử dụng vốn củng như dự đoán trước những rủi ro
có thể xảy ra trong tương lai để đưa các quyết định xử lý phù hợp tủy theo mục
tiêu theo đuổi.
1.1.1.2.Đối tượng của phân tích tài chính.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có các
hoạt động trao đổi điều kiện và kết quả sản xuất thông qua nghững công cụ tài
chính và vật chất.Chính vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải tham gia vào
các mối quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp. Các quan hệ tài chính có thể chia
thành các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước.Quan hệ này
biệu hiện trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân giữa ngân sách nhà nước với các doanh nghiệp thông qua các hình thức :
Doanh nghiệp nộp các loại thuế vào ngân sách theo luật định.
Nhà nước cấp vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp hoặc tham gia với tư
cách người góp vốn.
5
Thứ hai: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính và
các tổ chức tài chính. Thể hiện cụ thể trong việc huy động các nguồn vốn dài
hạn và ngắn hạn cho nhu cầu kinh doanh
Thứ ba: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác huy
động các yếu tố đầu vào và các quan hệ để thực hiện tiêu thụ sản phẩm ở thị
trường đầu ra.
Thứ tư: Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp.Đó là khía
cạnh tài chính liên quan đến vấn đề phân phối thu nhập và chính sách tài chính
của doanh nghiệp như vấn đề cơ cấu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách
lợi tức cổ phần, sử dụng ngân quỹ nội bộ doanh nghiệp.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính.
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
như:Chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng …Mỗi đối tượng
quan tâm với các mục đích khác nhau nhưng thường liên quan với nhau.
Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm
hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ.Ngoài ra, các nhà
quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến mục tiêu khác như tạo công ăn việc
làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí…Tuy
nhiên,doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các mục tiêu này nếu họ kinh doanh có
lãi và thanh toán được nợ.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của
họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp.Vì vậy,họ đặc biệt
chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh,
từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của
doanh nghiệp.Bên cạnh đó, họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn chủ sở hửu
vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro.
6
Đối với các nhà đầu tư,họ quan tâm đến lợi nhuận bình quân vốn của Công
ty ,vong quay vốn, khả năng phát triển của doanh nghiệp …Từ đó ảnh hưởng
tới các quyết định tiếp tục đầu tư vào công ty trong tương lai.
Tất cả những cá nhân, tổ chức quan tâm nói trên đều có thể tìm thấy và
thỏa mãn nhu cầu về thông tin của mình thông qua hệ thống chỉ tiêu do phân tích
báo cáo tài chính cung cấp.
1.1.3. Tổ chức công tác phân tích tài chính.
Quá trình tổ chức công tác phân tích tài chính được tiến hành tùy theo loại
hình tổ chức kinh doanh ỏe các doanh nghiệp nhằm mục đích cung cấp, đáp ứng
nhu cầu thông tin cho quá trình lập kế hoạch, công tác kiểm tra và ra quyết
định.Công tác tổ chức phân tích phải làm sao thỏa mãn cao nhất cho nhu cầu
thông tin của từng loại hình quản trị khác nhau.
1.1.4. Các loại hình phân tích tài chính.
1.1.4.1. Căn cứ theo thời điểm kinh doanh.
Căn cứ theo thời điểm kinh doanh thì phân tích chia thành 3 hình thức:
Phân tích trước khi kinh doanh.
Phân tích trong khi kinh doanh .
Phân tích sau khi kinh doanh .
1.1.4.2. Căn cứ theo thời điểm lập báo cáo.
Căn cứ theo thời điểm lập báo cáo, phân tích được chia làm :
Phân tích thường xuyên.
Phân tích định kỳ.
1.1.4.3. Căn cứ theo nội dung phân tích.
a. Phân tích chỉ tiêu tổng hợp.
Phân tích theo chỉ tiêu tổng hợp là việc tổng kết tất cả các kết quả phân
tích để đưa ra một số chỉ tiêu tổng hợp nhằm đánh giá toàn bộ hoạt động sản
7
xuất kinh doanh trong mối quan hệ nhân quả giữa chúng cũng như dưới tác
động của các yếu tố thuộc môi trường.
b. Phân tích chuyên đề.
Còn được gội là phân tích bộ phận, là việc tập trung vào một số nhân tố
của quá trình kinh doanh tác động, ảnh hưởng đến những chỉ tiêu tổng hợp.
1.2.PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH.
1.2.1. Các bước trong quá trình tiến hành phân tích tài chính.
1.2.1.1.Thu nhập thông tin.
Phân tích hoạt động tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý
giải và thuyết minh tực trạng hoạt động tài chính , hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự toán, đánh giá, lập kế
hoạch.Nó bao gồm những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài,
nhưng thông tin kế toán và thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng
giá trị …Trong đó các thông tin kế toán là quan trọng nhất, được phản ánh tập
trung trong báo cáo tài chính doanh nghiệp,đó là những nguồn thông tin đặc biệt
quan trọng.Do vậy, phân tích hoạt động tài chính trên thực tế là phân tích các
báo cáo tài chính doanh nghiệp.
1.2.1.2.Xử lý thông tin.
Giai đoạn tiếp theo của phân tích hoạt động tài chính là quá trình xử lý
thông tin đã thu thập. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ
nghiên cứu,ứng dụng khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra.Xử lý
thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm
tính toán , so sánh ,giải thích ,đánh giá ,xác định nguyên nhân của các kết quả đã
đạt được nhằm phục vụ cho quá trình dự toán và quyết định.
1.2.1.3. Dự đoán và ra quyết định.
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện càn
thiết để người sử dụng thông tin đự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định hoạt
động kinh doanh.Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích hoạt động tài chính nhằm
8
đưa ra các quyết định liên quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là
tăng trưởng,phát triển, tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa doanh thu.Đối với cho
vay và đầu tư vào doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ đầu tư ,đối
cấp trên của doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp.
1.2.1.4.Các thông tin cơ sở để phân tích hoạt động tài chính
Các thông tin cơ sở được dùng để phân tích hoạt động tài chính trong các
doanh nghiệp nói chung là các báo cáo tài chính, bao gồm:
Bảng cân đối kế toán :Là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó.Nó được thành lập từ 2
phần : Tài sản và nguồn vốn.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:là một báo cáo tài chính tổng
hợp ,phản ánh một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một
niên độ kế toán, dưới hình thái tiền tệ.Nội dung của báo cáo kết quả hoạt đông
kinh doanh có thể thay đổi nhưng phải phản ánh đươch 4 nội dung cơ bản là
:doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp,
lãi lỗ.Số liệu trong báo cáo này cung cấp nhuengx thông tin tổng hợp nhất về
phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kì và chỉ ra rằng, các hoạt
động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay lỗ vốn , đồng thời nó còn phản ánh
tình hình sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và kihn nghiệm
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính .
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện
pháp nhằm tiếp cận ,nghiên cứu các sự kiện,hiện tượng ,các mối quan hệ bên
trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài
chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp ,
nhưng thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau.
1.2.2.1. Phương pháp so sánh.
9
So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kì trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính
được cải thiện hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp.
So sánh giữa số thực hiện kì này với mức trung bình của ngành để thấy
tình hình tài chính doanh nghiệp đang ở trong tình trạng tốt hay xấu, được hay
chưa so với doanh nghiệp cùng nghành.
So sánh chiều dọc để thấy được tỉ trọng của từng tổng số ở mỗi bản báo
cáo và qua đó chỉ ra ý nghĩa tương đối của các loại các mục, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc so sánh.
So sánh theo chiều ngang để thấy được cả sự biến đông cả về số tuyệt
đối và số tương đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên
tiếp.
Khi sử dụng phương pháp so sánh phải tuân thủ 2 điều kiện sau:
Điều kiện một: Phải xác định rõ “gốc so sánh” và “kỳ phân tích”.
Điều kiện hai : Các chỉ tiêu so sánh phải đảm bảo tính chất có thể so
sánh được với nhau. Muốn vậy, chúng phải thống nhất với nhau về nội dung
kinh tế, về phương pháp tính toán, thời gian tính toán.
1.2.2.2.Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên các ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng
tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu
phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài
chính doanh nghiệp,trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các
tỷ lệ tham chiếu.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện được áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.Vì:
10
2.1.
Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy
đủ hơn là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy nhằm đánh giá một tỷ
lệ của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
2.2.
Việc áp dụng tin học cho phép tích lũy dự liệu và thúc đẩy nhanh
quá trình tính toán hàng loạt các tỉ lệ.
2.3.
Phương pháp này giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả
những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời
gian liên tục hoặc thời gian giai đoạn.
11
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TNHH CHẾ BIẾN
THỰC PHẨM ĐÔNG ĐÔ – HÀ NỘI QUA VIỆC PHÂN TÍCH
CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY TNHH CHẾ BIẾN THỰC
PHẨM ĐÔNG ĐÔ HÀ NỘI
2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển công ty.
Tên công ty: Công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô ;
Tên giao dịch: Dong Do Process Food company Limited;
Tên viết tắt là Dong Do Profoco. LTD.
Trụ sở chính đặt tại số nhà 18, phố Mới, thị trấn Trâu Quỳ thuộc huyện
Gia Lâm thành phố Hà Nội.
Điện thoại liên hệ: 04.5599301;
Fax: 04.5599302.
Công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô là công ty TNHH có 2 thành
viên trở lên, được Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy phép hoạt
động ngày 26 tháng 07 năm 2001, với số vốn điều lệ ban đầu là 200 triệu đồng.
Công ty TNHH ch ế biến th ực ph ẩm Đông Đô đượ c thành lập với số
vốn điều lệ là: 200 triệu đồng(năm 2001) Sau một th ời gian ho ạt độ ng và đi
vào ổn định, từ cuối năm 2002 đế n nay, số vốn góp của công ty đã là 1,2 tỷ
đồng. Theo đó công ty mở rộng quy mô sản xuất với việc trang bị c ơ s ở v ật
chất hiện đại hơn, tuyển thêm nhiều lao độ ng, đa dạng hoá danh mục Sản
Phẩm.
Hiện nay,công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô là một trong những
công ty hàng đầu về thực phẩm đông lạnh tại miền Bắc với thương hiệu Đôi
12
đũa vàng, rất có uy tín trên thị trường, rất nhiều người tiêu dùng đã biết đến các
Sản Phẩm của công ty. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để công ty
phát triển trong tương lai, nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay.
2.1.2.Mô hình tổ chức công ty.
Là một công ty còn non trẻ trên thị trường, công ty TNHH chế biến thực
phẩm Đông Đô có cơ cấu tổ chức khá đạt hiệu quả, thông tin thuận chiều và
ngược chiều được truyền thông nhanh chóng qua các cấp quản trị để đưa ra
được những quyết định kịp thời ứng phó với mọi biến động trong sản xuất,
kinh doanh.
Giám đốc
Phó giám đốc
Bộ
phận
kinh
doanh
Bộ
Bộ
Bộ
Bộ
phận
phận
phận
phận
kế
kỹ
văn
điều
toán
thuật
phòng
hành
sản
xuất
Phân xưởng sản xuất
Ban giám đốc của công ty có quyền quyết định trong mọi hoạt động của
công ty, là nơi có quyết định cao nhất.
Bộ phận kinh doanh bao gồm: 1 trưởng phòng kinh doanh, 2 giám sát kinh
doanh. Trưởng phòng kinh doanh là người bao quát chung nhất mọi hoạt động
kinh doanh, bán hàng;các giám sát bán hàng( có vai trò như là phó phòng kinh
doanh) có nhiệm vụ theo dõi, giám sát, kiểm tra các nhân viên bán hàng tại
những khu vực mà mình phụ trách. Mọi sự biến động của thông tin các hoạt
13
động Marketing được các nhân viên báo cáo lại cho giám sát ra quỳên quyết định
trong phạm vi quyền hạn của mình. Mọi nhân viên bán hàng được hưởng lương
thưo doanh số hàng hoá của mình bán ra.
Bộ phận kế toán bao gồm: kế toán trưởng, kế toán giá thành và thanh toán,
kế toán kho xưởng sản xuất, kế toán kho thực phẩm, kế toán tiền lương, kế
toán bán hàng. Bộ phận này có nhiệm vụ ghi chép đầy đủ, kip thời, đúng đắn
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các sổ thương vụ có liên quan.
Bộ phận kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, phụ trách các vấn đề về
kỹ thuật, cơ khí, kỹ thuật điện, vận hành sửa chữa thiết bị máy móc dùng trong
sản xuất kinh doanh.
Bộ phận văn phòng có nhiệm vụ tổ chức bố trí các hoạt động lễ tân, văn
thư, lưu trữ, soạn thảo văn bản, giấy tờ sử dụng trong nội bộ công ty và giao
dịch với bên ngoài.
Bộ phận điều hành sản xuất phụ trách các vấn đề giám sát, kiểm tra, tổ
chức mọi hoạt động sản xuất của công nhân, phụ trách các vấn đề về chất
lượng hàng hoá, Sản Phẩm, chất lượng nguyên vật liệu, đảm bảo mọi tiến độ
sản xuất trong công ty.
Phân xưởng SX bao gồm 4 tổ SX chủ yếu,mỗi một tổ, bộ phận được
chuyên môn hoá cao đảm bảo tay nghề của công nhân nâng cao theo thời gian,
năng suất công việc tăng lên, các tổ chức có quan hệ mật thiết chặt tạo thành
một chu trình sản xuất khép kín.
2.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty.
Công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô là công ty TNHH có 2 thành
viên trở lên với ngành nghề kinh doanh là sản xuất, chế biến thực phẩm, buôn
bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu thụ, đại lý mua, đại lý bán, kính gửi hàng hoá,
môi giới thương mại. Hiện nay ngành nghề Sản xuất Kinh doanh chính là: Sản
xuất chế biến thực phẩm đông lạnh.
14
Các Sản Phẩm mà công ty đang sản xuất là các Sản Phẩm từ biển, và gia
súc như: bò viên, nem tôm cua, lẩu hải sản, nục ướp riềng, tôm thịt, cá thu cắt
khúc, cá măng, mọc viên, thát lát, cá hồng fille, canh chua basa, canh sò, cua thịt,
basa cắt khúc, cá hố, cá mối, bao tử ba sa, mực nang nguyên con, cá tẩm loại 3,
cá phèn hồng, thịt sò, thịt nghêu, tôm sú thịt tươi,…
Các Sản Phẩm của công ty có mặt ở hầu hết các siêu thị, trung tâm thương
mại, đại lý lớn tại miền Bắc, chủ yếu là các tỉnh, thành phố đô thị lớn như: Hà
Nội, Hải Phòng, Hà Tây,.. là các Sản Phẩm cao cấp, có giá bán cao nên Sản
Phẩm của công ty phục vụ chủ yếu là các đối tượng khách hàng là người tiêu
dùng có thu nhập. Mục tiêu của công ty là ngày càng hoàn thiện Sản Phẩm,
hướng đến nhóm các Sản Phẩm người tiêu dùng ưa thích, có giá thành thấp để
mở rộng thị trường tiêu thụ.
Công ty TNHH chế biến thực phẩm Đông Đô có nguồn cung cấp hàng hoá
đầu vào khá ổn định, chủ yếu là các nhà cung cấp ở miền Trung như: Thanh
Hóa, Nghệ An, thành phố Hồ Chí Minh, An Giang,… với nguồn thực phẩm cá
tôm dồi dào, cộng với vị trí thuận lợi là nằm trong khu vực nội thành Hà Nội
nên có điều kiện để công ty mở rộng quy mô, tăng số lượng và chất lượng lao
động Sản Phẩm.
2.2. TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TNHH CHẾ BIẾN THỰC
PHẨM ĐÔNG ĐÔ QUA VIỆC PHÂN TÍCH CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty qua các cân
bằng tài chính trên bảng cân đối kế toán.
a, Phân tích vốn lưu động thường xuyên.
Để đánh giá về vốn lưu động thường xuyên của công ty ,ta theo dõi bảng
cân đối kế toán rút gọn sau đây
Bảng số 1.2. Bảng cân đối kế toán rút gọn
Đơn vị tính: triệu đồng.
Chỉ tiêu
I. Tổng tài sản
Năm 08
5372,9
15
Năm 09
2233,5
Năm 10
2613,8
1. Tài sản ngắn hạn
2. Tài sản dài hạn
II. Tổng nguồn vốn
1. Nợ ngắn hạn
2. Nợ dài hạn
3. Nguồn vốn CSH
4078,6
1294,3
5372.9
4091
1281,9
1002,7
1230,8
2233,5
900,9
1332,6
1229,5
1384,3
2613,8
1230,3
1383,5
Từ bảng trên ta tính toán được vốn lưu động thường xuyên của công ty các
năm như sau:
Bảng số 2.2 :Vốn lưu động thường xuyên của công ty
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
1. Nguồn vốn DH
2. Tài sản dài hạn
3.VLĐTX
Năm 08
1281.9
1294.3
12.4
Năm 09
1332.6
1230.8
101.8
Năm 10
1383.5
1384.3
0.8
Đặc biệt là năm 2008, vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn nhiều so với 0.
Mặc dù, năm 2009, công ty đã điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn: vốn lưu động
thường xuyên lớn hơn 0, nhưng giá trị của nguồn vốn này nhỏ hơn nhiều so với
giá trị của nguồn vốn này trong 3 năm đầu. Và đến năm 2010, vốn lưu động
thường xuyên của công ty lại nhỏ hơn 0( chênh lệch so với giá trị 0 là không
đáng kể).
Vốn lưu động thường xuyên của công ty có xu hướng giảm qua các năm,
nguyên nhân của tình trạng này là:
Tài sản cố định là tài sản dài hạn duy nhất của công ty. Trong những năm
đầu hoạt động, do quy mô sản xuất còn nhỏ, hoạt động công ty chưa thật sự đi
vào ổn định, nên công ty chưa chú trọng việc đầu tư vào tài sản cố định ( giá trị
tài sản cố định là thấp). Những năm sau đó, công ty đẩy nhanh đầu tư vào tài
sản cố định ( tài sản cố định tăng mạnh).
Nguồn vốn dài hạn chỉ gồm nguồn vốn chủ sở hữu( vì công ty không tiến
hành vay dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức khác), mà nguồn vốn này có tăng
nhưng tăng không đáng kể qua các năm ( tăng do công ty dùng toàn bộ lợi nhuận
16
sau thuế để tái đầu tư, phần lợi nhuận này không nhiều).
Như vậy, tốc độ tăng của giá trị tài sản cố định cao hơn nhiều so với tốc
độ tăng của nguồn vốn dài hạn làm cho vốn lưu động thường xuyên của công ty
có xu hướng giảm qua các năm, làm tình hình tài chính của công ty có xu hướng
mất cân đối.
17
2.2.2. Cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư.
a, Hệ số nợ.
Bảng số 3.2. Hệ số nợ của công ty
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
1. Tổng nguồn vốn của công ty (trđ)
2. Nợ phải trả của công ty (trđ)
3. Hệ số nợ của công ty
4. Hệ số nợ trung bình ngành
Năm 2008
5372.9
4091
0.76
0.35
Năm 2009
2233.5
900.9
0.40
0.33
Năm 2010
2613.8
1230.3
0.47
0.32
Qua bảng số liệu trên, ta thấy: Hệ số nợ năm 2009 và năm 2010 tuy đã
được cải thiện đáng kể hơn so với năm 2008, nhưng hệ số nợ năm 2010 lại cao
hơn hệ số nợ năm 2009; hơn nữa, hệ số nợ của công ty qua các năm đều cao
hơn nhiều so với mức trung bình của ngành. Có thể đây là chính sách tài chính
để khuyếch đại lợi nhuận của công ty song với hệ số nợ này, khả năng huy
động thêm vốn bằng con đường đi vay của công ty sẽ là khó khăn. Hơn thế nữa,
với hệ số nợ cao hơn so với mức trung bình của ngành, tức là công ty đã và đang
kinh doanh trong cơ cấu vốn mạo hiểm, vì có thể ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán của công ty, chỉ cần một sự giảm sút về doanh thu hoặc sự gia tăng
về chi phí có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được, đặc biệt nếu xét trong
điều kiện công ty mới đi vào hoạt động từ cuối năm 2001.
b, Hệ số nợ dài hạn
Từ khi hoạt động cho đến nay, công ty hoàn toàn không tiến hành vay dài
hạn, cho nên hệ số nợ dài hạn của công ty luôn bằng 0. Còn mức trung bình của
ngành năm 2005 là 0,12; năm 2006 là 0,07 và năm 2007 là 0,09. Như vậy, công ty
dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư cho các tài sản dài hạn, đây là một sự đầu
tư mạo hiểm. Công ty nên thực hiện việc vay dài hạn để giảm bớt rủi ro trong
kinh doanh.
18
c, Tỷ suất tự tài trợ tài sản dài hạn
Bảng số 4.2. Tỷ suất tự tài trợ tài sản dài hạn của công ty
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1. Vốn CSH của công ty (trđ)
2. Tài sản dài hạn của công ty ( trđ)
3. Tỷ suất tự tài trợ tài sản dài hạn
4. Tỷ suất tự tài trợ TS dài hạn trung bình của
ngành
Năm
Năm
Năm
2008
1281.9
1294.3
0.9904
2009
1332.6
1230.8
1.08
2010
1383.5
1384.3
0.9994
2.1
2.2
2.17
Qua các số liệu trên ta thấy: Năm 2008, tỷ suất tự tài trợ tài sản dài hạn
bằng 0,99, tức là: chỉ có một phần tài sản dài hạn (có giá trị khoảng 6,4 triệu
đồng) được tài trợ bằng nguồn vốn vay. Hơn nữa, lại là nguồn vốn vay ngắn
hạn( công ty không có vay dài hạn), nên năm 2008, công ty kinh doanh với cơ
cấu vốn khá mạo hiểm. Năm 2009, tỷ suất này đã tăng lên và vượt qua so với 1,
tức là: toàn bộ tài sản dài hạn của công ty đều được tài trợ bằng nguồn vốn chủ
sở hữu, đây được coi là thành tích của công ty trong việc xác định cơ cấu vốn.
Nhưng đến năm 2010, công ty lại kinh doanh với cơ cấu vốn mạo hiểm, vì tỷ
suất tự tài trợ tài sản dài hạn lại nhỏ hơn so với 1, tuy mức độ đã giảm so với
năm 2008. Mặt khác, tỷ suất này đều nhỏ hơn nhiều so với giá trị trung bình của
ngành. Nên, có thể nói rằng: công ty đã và đang kinh doanh với cơ cấu vốn
không an toàn.
d, Tỷ suất đầu tư
Bảng số 5.2 Qui mô đầu tư vào tài sản cố định của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1.Tài sản cố định của công ty( trđ)
2. Tổng tài sản của công ty( trđ)
3. Tỷ suất đầu tư tài sản cố định của
Năm 2008
1294.3
5372.9
0.24
công ty
19
Năm 2009
1230.8
2233.5
0.55
Năm 2010
1384.3
2613.8
0.53
Tỷ suất đầu tư tài sản cố định có xu hướng tăng so với năm 2008, mặc dù
năm 2010 tỷ suất này có giảm so với năm 2009 nhưng sự giảm sút là không đáng
kể. Đây có thể coi là một dấu hiệu tốt, vì công ty đã quan tâm đến việc đầu tư
vào tài sản cố định để mở rộng quy mô sản xuất trong tương lai. Nếu xét về số
tuyệt đối, giá trị của tài sản cố định năm 2009 giảm so với năm 2008, năm 2010
tăng mạnh so với năm 2009. Nhưng nếu xét về tỷ trọng của tài sản này trong giá
trị tổng tài sản của công ty thì lại có kết quả khác: năm 2009 là năm có tỷ suất
đầu tư tài sản cố định là cao nhất( 55%), năm 2008 có tỷ suất đầu tư tài sản cố
định là thấp nhất(24%). Nguyên nhân của tình trạng này là do:
Năm 2008, giá trị tài sản cố định là thấp nhất, nhưng tổng tài sản của
công ty trong năm này lại có gía trị cao nhất. Do công tác kiểm soát hàng tồn kho
và các khoản phải thu rất kém.
Năm 2009, giảm đầu tư vào tài sản cố định ( do thanh lý, nhượng bán một
số tài sản cố định đã không còn sử dụng được); đồng thời tổng tài sản của công
ty giảm hơn ½ so với năm 2008; hơn nữa, tốc độ giảm giá trị của tài sản cố định
thấp hơn rất nhiều so với tốc độ giảm của tổng tài sản.
Năm 2010, giá trị tài sản cố định là cao nhất trong 3 năm, và tổng tài sản
không biến động nhiều so với năm 2009; làm cho tỷ suất đầu tư tài sản cố định
giảm không đáng kể so với năm 2009.
2.2.3. Phân tích khả năng thanh toán
a, Phân tích khả năng thanh toán tổng quát.
Bảng số 6.2. Khả năng thanh toán tổng quát
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
1. Tổng tài sản của công ty (trđ)
2. Nợ phải trả của công ty(trđ)
3. Hệ số khả năng thanh toán tổng
Năm 2008
5372.9
4091
Năm 2009
2233.5
900.9
Năm 2010
2613.8
1230.3
1.31
2.48
2.12
quát
20
Qua bảng số liệu trên, ta thấy: Năm 2008, hệ số này là 1,31; năm 2009 hệ
số này là 2,48 và năm 2010 hệ số này có giá trị là 2,12, tức là: 2 năm sau khả
năng thanh toán tổng quát nhìn chung là được cải thiện nhiều so với năm trước
đó( năm 2008), đây có thể coi là biểu hiện sự cố gắng của công ty trong việc
thanh toán các khoản nợ nói chung; nhưng nhìn chung hệ số này còn rất thấp so
với mức bình quân của ngành.
b, Phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Bảng số 7.2. Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
1. Tài sản ngắn hạn của công ty (trđ)
2. Nợ ngắn hạn của công ty( trđ).
3. Hệ số khả năng thanh
Của công ty
Của ngành
toán nợ ngắn hạn
Năm 2008
4078.6
4091
0.997
1.46
Năm 2009
1002.7
900.9
1.113
1.85
Năm 2010
1229.5
1230.3
0.999
1.99
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là
không ổn đình qua các năm cụ thể trong năm 2008 là 0.997 nhưng đến năm 2009
tăng lên 1.113 và đến năm 2010 lại giảm xuống là 0.999. Khả năng thanh toán
nợ ngắn hạn của công ty năm 2009 cao hơn năm 2008 và thấp hơn mức trung
bình của ngành do nợ ngắn hạn giảm nhanh ( các khoản vay ngắn hạn giảm và
các khoản phải trả cho người bán cũng giảm mạnh). Đến năm 2010 thì khả
năng thanh toán ngắn hạn của công ty lại giảm so với năm 2009 và vẫn thấp
hơn mức trung bình của ngành. Sở dĩ có sự giảm xuống này là do nợ ngắn hạn
tăng nhanh, chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán. Dù sự
giảm xuống về hệ số này của công ty là không đáng kể và chưa phải là biến
động lớn nhưng xu hướng này sẽ là không tốt xét về khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn.
c, Phân tích khả năng thanh toán nhanh.
21
Bảng số 8.2. Khả năng thanh toán nhanh của công ty
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
2008
2009
2010
35.632
39.377
619.576
741.923
900.9
0.69
1230.3
0.60
0.69
1.08
1.21
0.03
0.04
0.03
0.2
0.25
0.29
1. Tiền và các khoản tương đương tiền + ĐTTC
123.198
ngắn hạn
2. Tiền và các khoản tương đương tiền + ĐTTC 1105.92
ngắn hạn + Các khoản PT
3. Nợ ngắn hạn
4. Hệ số khả năng thanh Của công ty
Của ngành
toán nhanh tương đối
5. Hệ số khả năng thanh Của công ty
Của ngành
toán nhanh tức thì
7
4091
0.27
Qua bảng số liệu trên, ta thấy: Hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối
của công ty qua 3 năm cũng không ổn định. Năm 2008 hệ số khả năng thanh
toán nhanh tương đối là 0.27 đến năm 2009 tăng mạnh là 0.69 nhưng đến năm
2010 lại giảm xuống còn là 0.6. Năm 2008 nợ ngắn hạn là tương đối lớn trong
khi đó các khoản tiền và các khoản tương đương tiền, đầu tư tài chính ngắn
hạn lại quá ít để có thể chi tra được số nợ đó. Tuy nhiên đến năm 2009 tình hình
đó đã được khắc phục. Thể hiện ở hệ số khả năng thanh toán đã tăng nhanh gấp
xấp xỉ 3 lần .Sở dĩ có sự tăng nhanh như vậy là do nơ ngắn hạn của công ty năm
2009 giảm mạnh .Nếu như ở năm 2008 nợ ngắn hạn là 4091 trđ thì ở năm 2009
nợ ngắn hạn chỉ còn là 900.9 trđ. Mặt khác do sự biến động của các khoản tiền
và các khoản tương tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn nhỏ hơn sự biến động
của nợ ngắn hạn. Nhưng đến năm 2010 hệ số khả năng thanh toán nhanh tương
đối lại giảm xuống là do khoản nợ ngắn hạn của công ty đã tăng lên và dù các
khoản tiền tương đương tiền cũng tăng lên nhưng sự biến động của nợ ngắn
hạn trong 2 năm 2009 và 2010 lớn hơn là sự biến động của tiền và các khoản
tương đương tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Xu hướng chung là
22
khả năng thanh toán nhanh tương đối phần nào đã được cải thiện tuy nhiên nếu
so sánh với hệ số trung bình của ngành thì hệ số này còn thấp.
Đối với hệ số chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thì thì ta thấy hệ số của năm
2008 và năm 2010 là bằng nhau và bằng 0.03. Nếu xét ở khả năng thanh toán
nhanh tương đối thì hệ số thanh toán của 2 năm này là chênh lệch nhau một
lượng cũng đáng kể. Sở dĩ có sự khác biệt này là do sự khác nhau ở các khoản
phải thu. Như vậy chứng tỏ rằng ở năm 2008 các khoản phải thu là khá lớn và
chủ yếu các khoản phải thu đó là thu tiền mà công ty đã bán chịu cho khách
hàng. Đến năm 2009 khả năng thanh toán tức thì là 0.04. Hệ số này tăng lên là
do các khoản phải thu đấy đã được giảm xuống. Tuy nhiên khi so sánh hệ số
khả năng thanh toán nhanh tức thì với khả năng thanh toán nhanh tương đối ta
mới thấy hai hệ số này là quá chênh lệch .Hệ số thanh toán nhanh tức thì quá
nhỏ so với hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối và cũng quá nhỏ so với
hệ số của ngành. Như vậy chứng tỏ công ty đã cho bán chịu với một lượng
hàng khá lớn. Đó là biểu hiện không tốt mà công ty cần khắc phục.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TNHH
CHẾ BIẾN THỰC PHẨM ĐÔNG ĐÔ – HÀ NỘI.
2.3.1. Những kết quả đạt được qua việc phân tích các báo cáo tài chính
ở trên.
Những năm hoạt động vừa qua, tuy công ty thường xuyên phải chịu áp lực
cạnh tranh rất lớn từ thị trường( chủ yếu là từ các đổi thủ cạnh tranh lớn); quy
mô sản xuất kinh doanh còn nhỏ ( tổng nguồn vốn nhỏ, trung bình là trên 2 tỷ
đồng ), lại phải đối mặt với sự gia tăng liên tục của giá cả các nguyên vật liệu
đầu vào của quá trình sản xuất( vì lạm phát của nền kinh tế đã lên đến hai con
số), nhưng công ty vẫn tiếp tục phát triển (hàng năm đều thu được lợi nhuận và
lợi nhuận năm sau thường cao hơn so với năm trước đó), và đã đạt được một số
thành tích về tài chính trong hoạt động kinh doanh.
23
Thành tích thứ nhất, năm 2009 và năm 2010, công ty đã điều chỉnh lại cơ
cấu nguồn vốn huy động ( cấu trúc nguồn vốn nghiêng về vốn chủ sở hữu), góp
phần đảm bảo cấu trúc vốn kinh doanh an toàn hơn so với những năm trước.
Thành tích thứ hai, công tác kiểm soát việc sử dụng các tài sản trong công
ty được thực hiện ngày càng có hiệu quả và khá chặt chẽ hơn. Rút kinh nghiệm
từ quản lý kém các khoản phải thu và hàng tồn kho năm 2008, ( giá trị các khoản
phải thu chiếm 18% giá trị tổng tài sản; còn giá trị của hàng tồn kho chiếm 55%
giá trị tổng tài sản), năm 2009 và 2010, công ty đã tiến hành phân tích, đánh giá
lại quá trình kiểm soát việc sử dụng tài sản, để tìm ra nguyên nhân và từ đó, tìm
ra các giải pháp thích hợp để khắc phục. Thực tế đã chứng minh, đây là việc
làm đúng đắn và mang lại hiệu quả cao: năng lực hoạt động của tài sản có xu
hướng tăng: vòng quay hàng tồn kho tăng từ 3,92 vòng năm 2008 lên 3,95 vòng
năm 2009 và 81,52 vòng năm 2010; vòng quay các khoản phải thu tăng từ 8,96
vòng năm 2009 lên đến 11,57 vòng năm 2010 hiệu suất sử dụng tổng tài sản
tăng từ 1,87 vòng năm 2008 lên 1,89 vòng năm 2009 và 3,06 vòng năm 2010. Hơn
nữa, tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản của công ty có xu h ướng tăng qua các năm.
Thành tích thứ ba, nếu chọn năm 2002 là năm gốc thì ta thấy: mặc dù nhu
cầu vốn lưu động không ổn định qua các năm, nhưng doanh thu thuần qua các
năm đều tăng. Và tốc độ tăng của doanh thu thuần đều lớn hơn so với tốc độ
tăng của nhu cầu vốn lưu động. Đây là dấu hiệu chứng tỏ: hiệu quả sử dụng
vốn của công ty nhìn chung là tốt.
Thành tích thứ tư, tỷ suất đầu tư tài sản cố định có xu hướng tăng so với
năm 2008, mặc dù năm 2010 tỷ suất này có giảm so với năm 2009 nhưng sự
giảm sút là không đáng kể. Đây có thể coi là một dấu hiệu tốt, vì công ty đã
quan tâm đến việc đầu tư vào tài sản cố định để mở rộng quy mô sản xuất
trong tương lai.
Thành tích thứ năm, khả năng thanh toán của công ty nhìn chung là được
cải thiện một cách đáng kể qua các năm. Hệ só khả năng thanh toán nhìn chung
24
là cao hơn so với năm 2008, và năm 2010 nếu một trong số các hệ số này có
giảm thì mức độ giảm không đáng kể so với năm 2009.
Thành tích thứ sáu, là khả năng sinh lời của công ty năm 2010 cao nhất
trong 3 năm trở lại đây.
2.3.2. Những tồn tại cần phải khắc phục.
Thứ nhất, tốc độ tăng của giá trị tài sản cố định cao hơn nhiều so với tốc
độ tăng của nguồn vốn dài hạn làm cho vốn lưu động thường xuyên của công ty
có xu hướng giảm qua các năm, làm tình hình tài chính của công ty có xu hướng
mất cân đối. Trong ba năm trở lại đây, công ty kinh doanh với cơ cấu vốn khá là
mạo hiểm, và sự phụ thuộc vào ngân hàng có xu hướng tăng lên. Cơ cấu vốn
năm 2008 của công ty mạo hiểm nhất, vì nguồn vốn chủ yếu được huy động từ
nguồn vốn ngắn hạn( chủ yếu là vốn chiếm dụng được từ nhà cung cấp), đây là
một cơ cấu vốn rất mạo hiểm vì có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của công ty, chỉ cần một sự giảm sút về doanh thu hoặc sự gia tăng về chi phí
có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được, đặc biệt nếu xét trong điều kiện
công ty mới đi vào hoạt động từ cuối năm 2001. Mặc dù, 2 năm sau đó, công ty
đã điều chỉnh cơ cấu này nhưng công ty vẫn duy trì một cơ cấu vốn vẫn mạo
hiểm (về cơ bản hệ số vốn chủ sở hữu của công ty vẫn cao hơn so với hệ số
vốn chủ sở hữu trung bình của ngành).
Thứ hai, khả năng thanh toán của công ty mặc dù được cải thiện so với các
năm trước đó, nhưng nhìn chung là vẫn thấp hơn so với mức bình quân của
ngành. Tuy nhiên khi so sánh hệ số khả năng thanh toán nhanh tức thì với khả
năng thanh toán nhanh tương đối ta mới thấy hai hệ số này là quá chênh lệch.
Hệ số thanh toán nhanh tức thì quá nhỏ so với hệ số khả năng thanh toán nhanh
tương đối và cũng quá nhỏ so với hệ số của ngành. Như vậy chứng tỏ công ty
đã cho bán chịu với một lượng hàng khá lớn. Đó là biểu hiện không tốt mà công
ty cần khắc phục.
25