Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

luận văn thạc sĩ tổ chức công tác kế toán tại công ty TNHH nhựa đường petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.71 KB, 111 trang )

1
1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ LAN ANH

TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI
CÔNG TY TNHH NHỰA ĐƯỜNG PETROLIMEX

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

1


2
2

HÀ NỘI, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ LAN ANH

TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI
CÔNG TY TNHH NHỰA ĐƯỜNG PETROLIMEX

Chuyên ngành : Kế Toán


Mã số

: 60 34 03 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG VĂN LƯƠNG

2


3
3

HÀ NỘI, NĂM 2017

3


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.
Hà Nội, ngày 27 tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lan Anh



5

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài tôi đã nhận được sự quan tâm, hướng
dẫn giúp đỡ của nhiều tập thể trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo Trường Đại học
Thương Mại, xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám đốc, Ban Tài chính - Kế toán,
các anh (chị) trong Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex đã nhiệt tình giúp đỡ và
tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài một cách tốt nhất.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS.Đặng Văn LươngNgười trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn và giúp đỡ tôi tận tình trong suốt
thời gian nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các anh (chị), bạn bè đã tạo điều kiện và
khích lệ tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội ,ngày 27 tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Lan Anh

MỤC LỤC
SƠ ĐỒ


6


7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, mục tiêu của các doanh nghiệp khi tham
gia vào hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ là tối đa hoá lợi nhuận vì vậy các
doanh nghiệp đã, đang và sẽ tìm mọi biện pháp đề ra kế hoạch để kinh doanh với số
lượng nhiều, chất lượng cao, chi phí thấp nhằm mang lại lợi nhuận tối đa, đứng
trước xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, các doanh nghiệp phải đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt của các tập đoàn, công ty nước ngoài vốn có tiềm lực về
tài chính và kinh nghiệm. Một trong những biện pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh chính là tổ chức tốt công tác kế toán trong Doanh nghiệp.
Kế toán có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động tài chính của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế đặc biệt là trong điều kiện kinh tế hội nhập, yêu cầu
quản lý, kiểm soát thông tin kinh tế, tài chính ngày càng chặt chẽ.
Mặt khác, kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ
quản lý kinh tế - tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm
tra, giám sát các hoạt động kinh tế xã hội. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, tài
chính, kế toán theo dõi và kiểm soát sự vận động của các quỹ tài chính, hoạt động
thu - chi, các khoản nợ, tài sản,… thông qua đó nhằm tổ chức và cung cấp hệ thống
thông tin hữu ích cho các quyết định điều hành, quản lý hoạt động kinh tế - xã hội
của doanh nghiệp.
Tổ chức công tác kế toán là một trong những nội dung thuộc về tổ chức quản
lý trong doanh nghiệp. Tổ chức công tác kế toán là một cách thích ứng với điều kiện
về quy mô, về đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, cũng như gắn với những yêu
cầu quản lý cụ thể tại doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả quản lý tại doanh nghiệp. Với chức năng cung cấp thông tin và kiểm
tra các hoạt động kế toán tài chính trong doanh nghiệp, công tác kế toán có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác quản lý. Mặt khác, tổ chức
công tác kế toán còn ảnh hưởng đến việc đáp ứng các nhu cầu quản lý khác nhau


8
của các đối tượng có quyền lợi trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động của doanh

nghiệp. Vì vậy, việc tổ chức hợp lý công tác kế toán tại các doanh nghiệp hiện nay
là vô cùng cần thiết, đáp ứng nhu cầu quản lý, nhu cầu sử dụng thông tin của các
đối tượng có liên quan.
Mặc dù Bộ tài chính đã ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán, các thông tư và
các chế độ kế toán áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp song trong thực tiễn tổ
chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp nói chung và tại Công ty TNHH Nhựa
đường petrolimex nói riêng còn nhiều bất cập dẫn đến khó khăn cho công tác quản
lý của bản thân doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý của Nhà nước nói riêng
và người sử dụng thông tin ngoài doanh nghiệp nói chung. Để thực hiện được
nhiệm vụ của mình trước những yêu cầu khắt khe của nền kinh tế thị trường, tổ
chức công tác kế toán tại Công ty cần phải được cải tiến ,thay đổi để phù hợp với
bản thân doanh nghiệp .
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức công tác kế toán tại doanh
nghiệp và trong thời gian tìm hiểu thực trạng kế toán tại Công ty TNHH Nhựa
đường petrolimex tác giả luận văn đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức công
tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex”.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có một số đề tài khoa học, luận văn thạc
sỹ, luận án tiến sỹ, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu về tổ chức
công tác kế toán.
Công trình “ Tổ chức công tác kế toán tại các công ty chứng khoán trên địa
bàn Hà Nội” – năm 2011 của tác giả Trần Hồng Thắng (Đại học thương mại). Qua
nghiên cứu thực trạng tổ chức công tác kế toán ở các công ty chứng khoán trên địa
bàn Hà Nội, tác giả làm rõ các ưu, nhược điểm của tổ chức công tác kế toán từ đó
nêu ra phương hướng và mạnh dạn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức
công tác kế toán tại các công ty chứng khoán trên địa bàn Hà Nội ở góc độ của kế
toán tài chính và kế toán quản trị. Bên cạnh đó, cũng làm rõ các giải pháp, các dự
báo triển vọng về tổ chức công tác kế toán tại các công ty chứng khoán trên điạ bàn



9
Hà Nội, đồng thời chỉ ra những hạn chế của nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu trong tương lai nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của tổ chức công
tác kế toán trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Công trình "Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn
Quốc trên địa bàn thành phố Hà Nội" - năm 2012 của tác giả Trần Thị Hưởng
(Luận văn Thạc sỹ Kinh tế - Đại học Thương Mại). Tác giả đã đưa ra những lý luận
cơ bản về tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Đồng thời, tác giả đã
nêu lên thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán toán trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên,
việc thu thập và đưa ra các thông tin phản ánh còn chưa phong phú đa dạng. Do vậy
mà chưa đưa ra hết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh chi tiết và cụ thể hơn trong tổ
chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp này. Mặc dù đã đưa ra được một số ví
dụ điển hình trong phần thực trạng xong chưa được đầy đủ tất cả các dạng về các
nội dung kinh tế phát sinh. Hơn nữa, phạm vi nghiên cứu của luận văn tác giả chỉ
mới tập trung 03 trong 40 doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội. Tuy số
doanh nghiệp này chiếm số lượng nhỏ song nếu đưa ra được thì đề tài sẽ phong phú
hơn và làm nổi bật hơn mô hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh đa dạng của khối
doanh nghiệp Hàn Quốc trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Công trình “Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các bệnh viện trực
thuộc Bộ Y tế ở Việt Nam” của nghiên cứu sinh Lê Thị Thanh Hương năm 2012 –
Đại học thương mại. Luận án đã có những khái quát về lý luận, thực tiễn và hoàn
thiện tổ chức kế toán trên góc độ Kế toán tài chính, Kế toán quản trị đối với loại
hình đơn vị sự nghiệp có thu công lập nói chung và các bệnh viện trực thuộc Bộ Y
tế nói riêng trên các nội dung: Tổ chức bộ máy kế toán trong các bệnh viện có thể
thực hiện theo hình thức kết hợp hay tách biệt giữa hoạt động sự nghiệp và hoạt
động sản xuất kinh doanh; xác định hệ thống kế toán, cơ sở kế toán theo từng loại
hình bệnh viện; hoàn thiện tổ chức hệ thống chứng từ, tài khoản (đặc biệt xây dựng
hệ thống tài khoản chi tiết đối với hoạt động thụ hưởng trên nguyên tắc xây dựng
mục lục ngân sách nhà nước), hệ thống sổ kế toán, báo cáo kế toán; thực hiện phân



10
loại chi phí, phân tích chi phí hỗn hợp, xác định giá các dịch vụ trọn gói trên cơ sở
phân tích mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận; phân bổ các chi phí liên
quan hai loại hình hoạt động thụ hưởng và dịch vụ.
Công trình “Tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế Việt Nam theo
mô hình công ty mẹ - công ty con” của nghiên cứu sinh Nguyễn Tuấn Anh - Học
viện Tài chính, tác giả kiến nghị với Nhà nước cũng như các tập đoàn kinh tế Việt
Nam những điều kiện để thực hiện các giải pháp cho việc tổ chức công tác kế toán
tại các Tập đoàn kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra còn rất nhiều bài nghiên cứu của các tác giả khác như: “ Tổ chức
công tác kế toán trong điều kiện ứng dụng CNTT” của tác giả Nguyễn Đăng Huy
đăng trên Tạp chí Kế toán số 2 trang 24-27 năm 2010; “Tổ chức công tác kế toán
với tổ chức bộ máy kế toán trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam” của tác giả TS.
Thái Bá Công đăng trên Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán 2013 số 6 trang 66;
“Mô hình Công ty mẹ - Công ty con” theo KH&HTQT tổng hợp ngày 19/09/2013
trên trang web: ; “Công tác kế toán theo mô hình Công ty
mẹ - Công ty con ở Việt Nam và thế giới ”của Nguyễn Thu Hương trên trang web:
;…

Tất cả các đề tài đã đưa ra hệ thống lý luận chung về công tác kế toán tại
đơn vị, làm rõ thực trạng tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp đó thông
qua việc phân tích, đánh giá theo từng nội dung với các số liệu minh chứng có
nguồn gốc rõ ràng. Các đề tài cũng đã đánh giá những kết quả đã đạt được,
những hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế trong tổ chức công tác
kế toán tại các doanh nghiệp từ đó kiến nghị các giải pháp giúp các doanh nghiệp
hoàn thiện tổ chức công tác kế toán. Nhưng trong quá trình nghiên cứu và khảo
sát thực tế tại đơn vị, tác giả nhận thấy mỗi một doanh nghiệp đều có cách thức tổ
chức công tác kế toán khác nhau nên không thể áp dụng kinh nghiệm của doanh

nghiệp này vào doanh nghiệp khác. Do đó cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và
sâu sắc để đưa ra các giải pháp phù hợp nhất cho việc thực hiện công tác tổ chức


11

kế toán tại các đơn vị nói chung và tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex
nói riêng.
Vì vậy một phần kế thừa các nghiên cứu của các tác giả trước đây và
những thực tế của đơn vị công tác tôi đã chọn đề tài: “Hoàn Thiện tổ chức công
tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex” để có thể nghiên cứu
sâu hơn những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong khâu tổ chức
công tác kế toán tại các đơn vị mình đang công tác, góp phần củng cố và vận
dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nhằm hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế
toán trong doanh nghiệp ,nghiên cứu các mô hình tổ chức công tác kế toán dựa trên
tổng kết các nghiên cứu về tổ chức công tác kế toán ở Việt Nam thời gian gần
đây.Việc nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận sẽ là nền tảng để xác
định nội dung nghiên cứu đề tài và định hướng cho các khảo sát sẽ thực hiện.
Tìm hiểu thực trạng tổ chức công tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường
Petrolimex ,qua đó đánh giá tình hình tổ chức kế toán tại Công ty rút ra những ưu
và nhược điểm .
Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán
tại Công ty TNHH Nhựa đường petrolimex .
4.Các câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu:
Thứ nhất: Đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý của
doanh nghiệp ảnh hưởng đến lựa chọn hình thức tổ chức công tác kế toán tại Công
ty TNHH Nhựa đường Petrolimex như thế nào?
Thứ hai : Thực trạng tổ chức công tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường

Petrolimex có đáp ứng được yêu cầu quản lý hiện tại và thách thức trong tương lai?


12
Thứ ba: Cần có những giải pháp và điều kiện gì để hoàn thiện tổ chức công tác
kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex nhằm nâng cao chất lượng của
thông tin kế toán đáp ứng được yêu cầu quản lý trong doanh nghiệp.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp và thực trạng tổ
chức công tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex.
5.2 Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian, thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tổ chức công
tác kế toán tài chính tại Công ty TNHH Nhựa đường petrolimex; thông tin, số liệu
minh họa được trích dẫn trong 2 năm gần đây.
Về nội dung nghiên cứu: Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tổ chức
công tác kế toán tài chính tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex mà không đi
sâu vào kế toán các phần hành , kế toán quản trị tại Công ty.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu đè tài nên tác giả cũng không đi sâu vào
nghiên cứu kế toán tại các Chi nhánh, Nhà máy.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu
Được thực hiện qua nhiều kênh thông tin khác nhau như: các giáo trình
chuyên ngành, thông tư, nghị định, chế độ kế toán, Luật kế toán, tham khảo các
công trình nghiên cứu khoa học, bài viết liên quan đến đề tài nghiên cứu, tra cứu
thông tin công ty qua mạng internet và các tài liệu liên quan đến doanh nghiệp...
Việc sử dụng phương pháp này giúp tác giả có mẫu điều tra và các kết luận rút ra từ
phân tích dữ liệu đảm bảo độ khách quan cần thiết.
- Phương pháp khảo sát



13
Tác giả tiến hành điều tra để lấy số liệu thông qua việc gửi phiếu khảo sát,
điều tra đến các bộ phận quản lý, các phòng ban, kế toán tại công ty. Việc sử dụng
những phương pháp này giúp tác giả có mẫu điều tra và các kết luận rút ra từ phân
tích dữ liệu đảm bảo độ khách quan cần thiết.
Việc tiến hành điều tra được thực hiện theo các trình tự sau:
Bước 1: Thiết kế phiếu câu hỏi và khảo sát định tính
Bước 2: Phát phiếu câu hỏi cho các đối tượng điều tra (trực tiếp và gửi email)
Bước 3: Sau khi kết thúc quá trình điều tra tác giả đã phân tích dữ liệu thu
được từ kết quả khảo sát, tổng hợp và phân loại dữ liệu, xử lý số liệu, sau đó phân
tích đánh giá thực trạng tổ chức công tác kế toán tại Công ty.
Mục đích của phương pháp này là khảo sát thực trạng tổ chức kế toán tại công
ty qua nhận xét của những người liên quan trong công ty.
Sử dụng phương pháp này sẽ đo được các mức độ nhận thức của người được
khảo sát. Đây là một trong những điểm nổi bật của phương pháp này vì nó có độ tin
cậy rất cao và có thể bao quát được phạm vi nghiên cứu là môt trong những nội
dung cần thiết để đánh giá được vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Để thu thập các thông tin, để hệ thống lý luận chung về kế toán, tác giả đã
thực hiện nghiên cứu tài liệu qua nhiều kênh thông tin khác nhau như tham khảo các
công trình nghiên cứu khoa học, đọc các bài viết có liên quan đặc biệt là các bài viết
đăng trên tạp chí kế toán, tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, tạp chí kiểm toán, tạp
chí kế toán và kiểm toán ... tác giả cũng xem lại các chính sách thuế hiện hành, Luật
kế toán, giáo trình kế toán của nhiều tác giả.


14
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu tác giả thấy đây là phương pháp rất hữu
hiệu, đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin rất phát triển như hiện nay và được

coi là kênh thu thập thông tin nhanh, đa dạng. Tuy nhiên cũng cần lựa chọn nhưng
thông tin có ích và đáng tin cậy để đưa vào luận văn.
- Phương pháp phân tích dữ liệu:
Phương pháp phân tích dữ liệu là phép biện chứng duy vật lịch sử. Từ các
thông tin thu được, thông qua các phương pháp thu thập dữ liệu xử lý có nguyên tắc
như phương pháp logic, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích ... và
phương pháp kỹ thuật cụ thể như phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu,
phương pháp phân tích nội dung, cà cá kỹ thuật của thống kê dựa vào phần mềm xử
lý văn bản MicrosoftOffice (Word và Excel) để nguyên cứu thực trạng tổ chức công
tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex. Từ đó, nghiên cứu giải pháp
nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Công ty TNHH Nhựa đường
Petrolimex cho phù hợp với quy định và các điều kiện thực tế tại doanh nghiệp. Các
phương pháp này tương đối hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của mục tiêu nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu, đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận
cơ bản về tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Về mặt thực tiễn: Căn cứ vào đặc điểm hoạt động kế toán trong các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh và những tồn tại trong công tác kế toán tại Công ty
TNHH Nhựa đường petrolimex, đề tài đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những
bất cập trong tổ chức công tác kế toán tại Công ty sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của tổ chức công tác kế toán, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời đầy đủ phục vụ
công tác quản


15

CHƯƠNG I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC
KẾ TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.


Một số khái niệm cơ bản
Kế toán có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau theo quan điểm của
từng tác giả. Khi nghiên cứu trên góc độ hoạt động, kế toán là quá trình thu thập, xử
lý và cung cấp thông tin về tài chính của hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi nghiên
cứu trên góc độ sử dụng, kế toán là công cụ quản lý có hiệu quả, là cơ sở để đánh
giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo quan điểm của kế toán quốc tế, kế toán được định nghĩa "là hệ thống
thông tin và kiểm tra dùng để đo lường, phản ánh, xử lý và truyền đạt những thông
tin về tài chính, kết quả kinh doanh và các luồng tiền tạo ra của một đơn vị kinh tế."
Theo quan điểm nêu trong Luật kế toán Việt Nam, định nghĩa kế toán được
trình bày ở điều 4 như sau: "Kế toán là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động…"
Theo Libby (2003), "Kế toán là một hệ thống thông tin cho phép thu thập và
truyền đạt thông tin mà chủ yếu là những thông tin mang bản chất tài chính thường
được số hoá dưới hình thức giá trị về các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp và
các tổ chức. Những thông tin này được cung cấp nhằm giúp những người quan tâm
trong quá trình ra các quyết định kinh tế mà chủ yếu các quyết định này liên quan
đến việc phân bổ nguồn lực."(theo nguồn trích dẫn dankinhte.vn)
Những định nghĩa đã nêu đều nói lên: Kế toán thực hiện ba công việc cơ
bản là đo lường, xử lý (ghi nhận) và truyền đạt (cung cấp) thông tin định lượng về
hiện trạng tài chính, kết quả kinh doanh và luồng tiền tạo ra trong một đơn vị.
Theo quan điểm của tác giả:
Kế toán: là nghệ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tài sản
và sự vận động của tài sản, các hoạt động kinh tế tài chính trong doanh nghiệp
nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho việc ra quyết định về kinh tế và đánh
giá hiệu quả của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp.
Khái niệm tổ chức công tác kế toán cũng có nhiều quan điểm khác nhau:



16
Theo Luật kế toán Việt Nam (Bộ Tài chính – 2003), "Tổ chức công tác kế toán
là sự kết hợp giữa các quá trình phân chia các phần hành kế toán với tổ chức hoạt
động của các thành viên kế toán của doanh nghiệp, đáp ứng một cách tốt nhất yêu
cầu quản lý."
Theo giáo trình Tổ chức công tác kế toán của tác giả Đoàn Xuân Tiên (Nhà
xuất bản Thống kê, năm 2009), "Tổ chức công tác kế toán được hiểu là những mối
liên hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của công tác kế toán: chứng từ kế toán,
đối ứng tài khoản, tính giá tổng hợp - cân đối kế toán."
Tại trang web: www.tapchiketoan.info, "Tổ chức công tác kế toán là một hệ
thống các yếu tố cấu thành, gồm tổ chức bộ máy kế toán, tổ chức các phương pháp
và kỹ thuật hạch toán kế toán, tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế tài chính và
kế toán cùng với mối liên hệ và sự tác động giữa các yếu tố đó nhằm phát huy tối đa
chức năng của hệ thống."
Điểm chung của những định nghĩa đã nêu là đều nói lên những yếu tố cấu
thành nên tổ chức công tác kế toán, chỉ khác nhau ở mức độ chi tiết hay tổng quát.
Từ đó, tác giả đưa ra quan điểm của mình:
Tổ chức công tác kế toán: là một hệ thống các phương pháp cách thức phối
hợp sử dụng phương tiện và kỹ thuật cũng như nguồn lực của bộ máy kế toán, thể
hiện các chức năng và nhiệm vụ của kế toán, đó là: Phản ánh, đo lường, giám sát và
thông tin bằng số liệu một cách trung thực, chính xác, kịp thời. Là tổ chức việc thu
nhận hệ thống hoá và cung cấp các thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh ở
đơn vị kế toán nhằm phục vụ cho công tác quản lý.
1.2. Vai trò và nguyên tắc tổ chức công tác kế toán trong các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh.
1.2.1.Vai trò của tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp .
Hạch toán kế toán trong doanh nghiệp là công cụ quan trọng để thực hiện điều
hành, quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế tài chính của từng doanh
nghiệp nói riêng và hoạt động của toàn nền kinh tế nói chung. Để phát huy được vai
trò quan trọng đó thì các doanh nghiệp phải tổ chức công tác kế toán một cách khoa

học, hợp lý, có hiệu quả trong công tác quản lý của đơn vị mình.


17
Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân
tố như: mô hình cơ cấu tổ chức đơn vị; trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý; quy mô
và địa bàn hoạt động của đơn vị; đặc điểm hệ thống cơ sở hạ tầng; đặc điểm chu kỳ
kinh doanh, đặc điểm cơ chế quản lý điều hành chi phí, ... Do vậy, vấn đề tổ chức
công tác kế toán trong các doanh nghiệp hiện nay phải được tổ chức một cách khoa
học, luôn có tính thời sự đối với giai đoạn phát triển đổi mới của doanh nghiệp.
Vai trò của kế toán trong công tác quản lý nói chung đã được Quốc hội khoá
XI kỳ họp thứ 3 ngày 17/6/2003 thông qua trong Luật Kế toán: “..đối với các tổ
chức doanh nghiệp, kế toán là công cụ quan trọng để điều hành, quản lý các hoạt
động, tính toán kinh tế và kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn
nhằm đảm bảo quyền chủ động sản xuất kinh doanh và chủ động tài chính” .
Như vậy, kế toán có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp và truyền đạt
thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Mục đích
của kế toán là cung cấp các thông tin hữu ích cho việc ra quyết định tài chính cũng
như đánh giá hiệu quả kinh doanh của một tổ chức. Thông tin kế toán không những
được sử dụng cho bản thân doanh nghiệp mà còn sử dụng cho các đối tượng bên
ngoài như các nhà đầu tư, người bán, khách hàng và các cơ quan chức năng của Nhà
nước .
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp : Kế toán phục vụ cho các nhà quản lý kinh
tế. Căn cứ vào thông tin kế toán, các nhà quản lý định ra các kế hoạch, dự án và
kiểm tra việc thực hiện các dự án, các kế hoạch đặt ra.
Đối với những đối tượng có lợi ích trực tiếp (các nhà đầu tư): Dựa vào thông
tin kế toán, các nhà đầu tư nắm được hiệu quả của một thời kỳ kinh doanh và tình
hình tài chính của doanh nghiệp từ đó có các quyết định nên đầu tư hay không đầu
tư và biết được doanh nghiệp sử dụng số vốn đầu tư đó như thế nào.
1.2.2. Nguyên tắc tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp .

Để thực hiện tốt những vai trò đã nêu, việc tổ chức công tác kế toán trong một
doanh nghiệp cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc thống nhất


18
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp là một loại hình tổ chức đặc thù. Hệ
thống tổ chức công tác kế toán không phải là sự lắp ghép tuỳ tiện hoặc gộp lại một
cách đơn giản các phần (đối tượng, phương pháp, mô hình, bộ máy kế toán...) mà là
sự kết hợp hữu cơ giữa chúng. Vì vậy, tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp
phải đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống kế toán giữa đối tượng và phương
pháp, hình thức và bộ máy kế toán trong đơn vị kế toán.
Tổ chức công tác kế toán còn phải đảm bảo tính thống nhất giữa kế toán và
quản lý. Doanh nghiệp là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Ngoài bộ phận kế toán, còn có các bộ phận quản lý khác như thống
kê, kế hoạch, vật tư, kỹ thuật ... Do đó, tổ chức công tác kế toán phải luôn chú ý mối
quan hệ giữa kế toán và các bộ phận khác để đảm bảo sự thống nhất trong việc tính
toán và đánh giá các chỉ tiêu kinh tế; hoặc mối liên hệ trong việc cung cấp, thu thập
và sử dụng các thông tin cũng như trong việc đối chiếu, kiểm tra số liệu kế toán với
các bộ phận khác... để đảm bảo sự ăn khớp, thống nhất với nhau. Đồng thời, tổ chức
công tác kế toán còn phải đảm bảo thống nhất với toàn hệ thống, thống nhất mô
hình tổ chức hạch toán với mô hình tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý. Nhờ vậy
hệ thống mới không ngừng vận động và phát triển.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ,
luật kế toán hiện hành
Chức năng của tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp là cung cấp thông
tin kịp thời, đáng tin cậy cho người sử dụng. Nhằm tạo ra một khung pháp lý chung,
một sự hướng dẫn thống nhất, tiêu chuẩn cho công tác kế toán, Nhà nước đã ban
hành Luật kế toán, các chuẩn mực, chế độ kế toán và đòi hỏi các doanh nghiệp phải
tuân thủ. Thực hiện nguyên tắc này, khi triển khai tổ chức công tác kế toán, các

doanh nghiệp phải nắm chắc và tuân thủ các chuẩn mực, chế độ kế toán của nhà
nước, có như vậy mới đảm bảo thực hiện tốt chức năng của hạch toán.
Thứ ba, nguyên tắc phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp là một tổ chức độc lập với những đặc điểm và điều kiện
riêng về mô hình tổ chức, về phương thức kinh doanh, mô hình quản lý... Khi tổ


19
chức công tác kế toán, ngoài việc đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực, chế
độ chung, còn phải chú ý đến đặc điểm, điều kiện riêng của doanh nghiệp, không áp
dụng một cách rập khuôn, máy móc mà phải triển khai tổ chức công tác kế toán phù
hợp với từng điều kiện cụ thể, ví dụ: tuỳ thuộc vào quy mô, loại hình kinh doanh,
trình độ của cán bộ kế toán để lựa chọn hình thức kế toán, mô hình kế toán thích
hợp. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo sự hài hoà giữa tính thống nhất và tính
đặc thù trong tổ chức hạch toán kế toán, đảm bảo tính hiệu quả của hệ thống kế toán
và phát huy đầy đủ vai trò của kế toán trong hệ thống quản lý doanh nghiệp.
Thứ tư, nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp là việc vận dụng hệ thống phương pháp,
các nguyên tắc kế toán, các căn cứ nhất định vào trong từng đơn vị cụ thể nhằm thực
hiện chức năng thông tin và kiểm tra của kế toán. Vì vậy, tổ chức công tác kế toán phải
đảm bảo tính hiệu quả, nghĩa là phải tổ chức công tác kế toán một cách khoa học, hợp
lý nhằm thực hiện chức năng của nó được tốt nhất với chi phí thấp nhất. Theo nguyên
tắc này, khi tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp phải luôn xem xét mối quan hệ
giữa chi phí bỏ ra với kết quả về thông tin kế toán phục vụ cho quản lý.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản mang tính chất bao quát toàn bộ quá
trình tổ chức công tác kế toán. Trong quá trình triển khai tổ chức công tác kế toán,
các doanh nghiệp phải tuân thủ và thực hiện một cách đầy đủ các nguyên tắc này
nhằm tổ chức công tác kế toán khoa học, hợp lý và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tuỳ
thuộc vào từng điều kiện cụ thể, các doanh nghiệp còn phải tuân theo những nguyên
tắc cũng như dựa vào những căn cứ cụ thể trong từng nội dung tổ chức để đảm bảo

tính khoa học của tất cả các nội dung trong tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp.
1.3. Nội dung của tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp.
Nội dung cơ bản của tổ chức công tác kế toán trong Doanh nghiệp bao gồm: tổ
chức bộ máy kế toán; tổ chức vận dụng hệ thống chứng từ kế toán; tổ chức vận
dụng hệ thống tài khoản kế toán; tổ chức vận dụng hình thức kế toán và tổ chức hệ
thống sổ sách kế toán; tổ chức kiểm tra kế toán; tổ chức lập và phân tích báo cáo tài
chính; tổ chức trang bị, ứng dụng các phương tiện kỹ thuật xử lý thông tin trong
công tác kế toán.


20
Để thực hiện tốt hình thức tổ chức công tác kế toán của các Doanh nghiệp ,
các đơn vị phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức, quy mô, địa bàn hoạt động, yêu cầu
trình độ quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kế toán, Tổ chức công
tác kế toán bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
-

Tổ chức bộ máy kế toán

-

Tổ chức thực hiện chế độ chứng từ kế toán;

-

Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán ở doanh nghiệp;

-

Tổ chức thực hiện chế độ sổ kế toán ở doanh nghiệp;


-

Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo kế toán.
1.3.1. Tổ chức bộ máy kế toán
Tổ chức bộ máy kế toán là sự sắp xếp, phân công công việc (phần hành) cho
từng kế toán viên và tổ chức luân chuyển chứng từ trong một phòng kế toán (hoặc
bộ phận kế toán) của một doanh nghiệp, bao gồm : tổ chức nhân sự, tổ chức các
phần hành kế toán, tổ chức mối quan hệ giữa các phần hành kinh tế và tổ chức mối
quan hệ giữa phòng kế toán và các phòng ban khác có liên quan. Việc tổ chức bộ
máy kế toán trong doanh nghiệp cần đáp ứng những yêu cầu:



Kiểm soát nội bộ:
Việc tổ chức nhân sự phải đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Điều này sẽ
tránh tình trạng một người xử lý quá nhiều công việc dẫn đến gian lận mà doanh
nghiệp không thể kiểm soát được. Bên cạnh đó, việc xác định rõ trách nhiệm của
từng nhân viên trong doanh nghiệp sẽ tránh tình trạng đùn đẩy công việc và đổ trách
nhiệm cho nhau.



Tính đồng bộ trong công việc:
Tính đồng bộ trong công việc thể hiện ở chỗ toàn bộ công việc được phân bổ
đều cho tất cả các phòng ban cũng như nhân viên, không để xảy ra tình trạng giao
quá nhiều việc cho bộ phận, nhân viên này và quá ít việc cho bộ phận, nhân viên
khác, hoặc quá nhiều việc vào thời điểm này và quá ít việc vào thời điểm khác. Tính
đồng bộ trong công việc giúp cho công tác kế toán tại doanh nghiệp vận hành trôi
chảy, đảm bảo cung cấp số liệu chính xác và kịp thời cho các đối tượng sử dụng

thông tin kế toán.



Đảm bảo năng lực của nhân viên:


21
Việc đảm bảo năng lực của nhân viên cũng là vấn đề mà lãnh đạo doanh
nghiệp cần đặc biệt quan tâm vì chất lượng của công tác kế toán phụ thuộc chủ yếu
vào trình độ và khả năng thành thạo công việc của những người này. Ngoài việc
tuyển dụng những nhân viên có lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn cao, doanh
nghiệp cần chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng kiến thức mới cho nhân
viên để họ có thể đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao trong công việc, đồng
thời thường xuyên phổ biến những yêu cầu và qui định về đạo đức nghề nghiệp cho
nhân viên. Định kỳ, doanh nghiệp cũng nên tổ chức "luân chuyển cán bộ" để tránh
tình trạng nhân viên giải quyết công việc theo "lối mòn", điều này cũng giúp doanh
nghiệp phát hiện ra những nhân viên có thể làm tốt công việc mà trước đây họ chưa
được phân công, đồng thời tránh sự gian lận của những nhân viên có thâm niên
trong lĩnh vực họ đã và đang đảm nhiệm. Ngoài ra, luân chuyển cán bộ còn là một
giải pháp giúp doanh nghiệp đào tạo được những nhân viên có hiểu biết về toàn bộ
quy trình kế toán trong doanh nghiệp, đặc biệt là các đối tượng có thể phát triển
thành cán bộ quản lý.
Xây dựng kế hoạch công tác cho phòng kế toán.
Xây dựng kế hoạch công tác là biện pháp quan trọng đảm bảo cho việc thực
hiện các phần hành kế toán được trôi chảy, qua đó sẽ kiểm tra được tiến độ thực
hiện và điều chỉnh, phối hợp công việc một cách nhanh chóng để tăng cường
được năng suất và hiệu quả hoạt độngcủa bộ máy kế toán.
Căn cứ đặc điểm tổ chức, quy mô và địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh,
tình hình phân cấp quản lý tài chính, khối lượng, tính chất và mức độ phức tạp của

các nghiệp vụ kinh tế tài chính; yêu cầu, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ của
cán bộ quản lý và cán bộ kế toán mà doanh nghiệp lựa chọn hình thức tổ chức công
tác kế toán cho phù hợp.
Hiện nay có 3 hình thức tổ chức bộ máy kế toán: hình thức tổ chức bộ máy kế
toán tập trung; hình thức tổ chức bộ máy kế toán phân tán; hình thức tổ chức bộ
máy kế toán vừa tập trung, vừa phân tán.
a, Hình thức tổ chức bộ máy kế toán tập trung:
Theo hình thức này, toàn doanh nghiệp (công ty, tổng công ty ... ) chỉ tổ chức
một phòng kế toán trung tâm (văn phòng công ty, tổng công ty ...) còn các đơn vị
phụ thuộc đều không có tổ chức kế toán riêng.


22
Phòng kế toán trung tâm thực hiện toàn bộ công tác kế toán ở doanh nghiệp,
chịu trách nhiệm thu nhận, xử lý và hệ thống hoá toàn thông tin kế toán phục vụ cho
quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Phòng kế toán trung tâm lưu trữ, bảo
quản toàn bộ hồ sơ, tài liệu kế toán của doanh nghiệp.
Tại các đơn vị phụ thuộc, phòng kế toán trung tâm bố trí nhân viên kế toán
làm nhiệm vụ hướng dẫn hạch toán ban đầu, thu nhận và kiểm tra chứng từ ban đầu
để định kỳ chuyển chứng từ về phòng kế toán trung tâm. Phòng kế toán trung tâm
thực hiện kết hợp kế toán tài chính với kế toán quản trị đáp ứng yêu cầu quản trị
kinh doanh của doanh nghiệp.
KẾ TOÁN TRƯỞNG

Bộ phận
kế toán

Bộ phận
kế toán


Bộ phận
kế toán

Bộ phận
kế toán

Bộ phận
kế toán

Bộ phận
kế toán

Kế toán tại các đơn vị thành viên

Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán ở doanh nghiệp áp dụng hình thức
tổ chức công tác kế toán tập trung
Mô hình này có ưu điểm là đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất, tập trung cao đối
với công tác kế toán, tập trung thông tin phục vụ quản lý toàn doanh nghiệp, thuận
tiện cho việc lập báo cáo kế toán và kiểm tra kế toán, đồng thời cũng thuận lợi cho
việc tổ chức bộ máy kế toán, phân công và chuyên môn hoá nhân viên kế toán và áp
dụng phương tiện, kỹ thuật, công nghệ vào công việc kế toán. Mô hình này thường
tồn tại trong những doanh nghiệp có tổ chức các doanh nghiệp thành viên trực thuộc
hoàn toàn, không có sự phân tán quyền lực quản lý hoạt động kinh doanh cũng như
hoạt động tài chính; thích hợp với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tập


23
trung về không gian và mặt bằng kinh doanh, có kỹ thuật xử lý thông tin hiện đại
nhanh chóng. Đối với các doanh nghiệp có địa bàn hoạt động rộng, phân tán, trình
độ trang thiết bị, kỹ thuật xử lý, cung cấp thông tin không cao thì không nên áp

dụng mô hình này vì việc lập báo cáo tài chính sẽ khó khăn và việc kiểm tra, kiểm
soát của kế toán trưởng và người lãnh đạo doanh nghiệp sẽ bị hạn chế.
b, Hình thức tổ chức bộ máy kế toán phân tán.
Hình thức tổ chức bộ máy kế toán này thích hợp với các doanh nghiệp có quy
mô lớn, địa bàn hoạt động phân tán, các đơn vị thành viên hoạt động độc lập.
Theo hình thức này, thì bộ máy kế toán sẽ được tiến hành ở hai nơi:
-

Phòng kế toán tại Tổng công ty: Tiến hành tổ chức ghi chép, phản ánh các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh diễn ra trong Tổng công ty, đồng thời thu nhận các báo cáo tài
chính do các đơn vị thành viên gửi lên. Cuối kỳ tổng hợp thành báo cáo chung toàn

-

Tổng công ty.
Phòng kế toán tại các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, có nhiệm vụ thu thập, xử
lý các chứng từ ban đầu, xử lý, hạch toán chi tiết, tổng hợp các hoạt động ở tại đơn
vị mình theo sự phân cấp quản lý tài chính rồi định kỳ lập báo cáo kế toán của đơn
vị, gửi lên phòng kế toán của Tổng công ty.
Mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán thường thích hợp với các doanh
nghiệp có quy mô kinh doanh lớn, cơ cấu kinh doanh phức tạp (nhiều loại hình kinh
doanh, nhiều ngành nghề kinh doanh, nhiều đơn vị trực thuộc...) và địa bàn kinh
doanh rộng, phân tán. Khi đó các doanh nghiệp thường phải phân cấp kinh doanh,
phân cấp quản lý và do đó phải phân cấp tổ chức kế toán (phân tán khối lượng công
tác và nhân sự kế toán). Khi được áp dụng trong những điều kiện như vậy, mô hình
này thường bộc lộ nhiều ưu điểm: tạo điều kiện cho việc kiểm tra, chỉ đạo hoạt động
sản xuất kinh doanh về công tác kế toán ở các đơn vị thành viên hạch toán độc lập
được nhanh nhạy, kịp thời; đồng thời phát huy được chức năng, vai trò của kế toán
ở các đơn vị, bộ phận trực thuộc. Tuy vậy, mô hình này có nhược điểm là việc tổng
hợp số liệu, cung cấp thông tin, lập báo cáo chung toàn doanh nghiệp thường bị

chậm trễ, sự chỉ đạo, kiểm soát của kế toán trưởng cấp trên và lãnh đạo doanh
nghiệp đối với toàn bộ doanh nghiệp có thể bị hạn chế và trường hợp thiếu những


24
điều kiện tiền đề mà doanh nghiệp vẫn áp dụng mô hình này sẽ dẫn đến làm yếu đi
bộ máy quản lý doanh nghiệp, làm trì trệ thêm cho quá trình hạch toán, thông tin và
kiểm tra.
Tổng công ty
Kế toán trưởng

Bộ phận kế toán hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị cấpBộtrên
phận kế toán tổng hợp

Bộ phận kế toán kiểm toán

Kế toán trưởng tại các đơn vị thành viên

Kế toán bộ phận Kế toán bộ phận Kế toán bộ phận

Kế toán bộ phận Kế toán bộ phận Kế toán bộ phận

Sơ đồ 1.2: Sơ đồ mô hình thức tổ chức bộ máy kế toán ở các doanh nghiệp áp
dụng hình thức kế toán phân tán:
c, Hình thức tổ chức bộ Kế
máy
hỗn
hợp vừa
toánkếtạitoán
các đơn

vị thành
viên tập trung vừa phân tán.
Hình thức này thích hợp với loại hình Tổng công ty có quy mô lớn, cơ cấu
quản lý bao gồm các đơn vị thành viên hạch toán độc lập và các đơn vị thành viên
hạch toán phụ thuộc. Theo mô hình này thì Tổng công ty sẽ tổ chức bộ phận kế toán
như sau:
-

Phòng kế toán Tổng công ty sẽ tiến hành hạch toán tình hình tài chính kế toán liên
quan đến hoạt động chung của Tổng công ty, đồng thời tiến hành thu nhận các
chứng từ kế toán (hoặc sổ sách) đã thu nhận được từ bộ phận kế toán viên của các
đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc (có tổ chức bộ phận kế toán riêng nhưng
không có Kế toán trưởng mà chỉ có Trưởng phòng kế toán và các nhân viên kế
toán), và thu nhận các báo cáo tài chính kế toán do phòng kế toán của đơn vị thành


25
viên hạch toán độc lập (có tổ chức bộ phận kế toán riêng). Cuối kỳ phòng kế toán
-

của Tổng công ty sẽ tổng hợp và lập báo cáo tài chính tổng hợp.
Tại đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc có tổ chức bộ phận kế toán; các nhân
viên kế toán chỉ tiến hành ghi nhận các chứng từ ban đầu, tập hợp toàn bộ các
chứng từ kế toán liên quan đến đơn vị mình, hạch toán kế toán và tính giá thành;
định kỳ hoặc cuối tháng sẽ tiến hành gửi sổ về phòng kế toán của Tổng công ty để

-

làm báo cáo tổng hợp.
Tại đơn vị thành viên hạch toán độc lập có tổ chức bộ phận kế toán riêng. Tại đây

cũng có bộ phận kế toán hoàn chỉnh giống như phòng kế toán của Tổng công ty, tiến
hành thu nhận, xử lý các chứng từ liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính
của đơn vị mình, cuối kỳ tổng hợp, lập báo cáo kế toán gửi lên phòng kế toán của
Tổng công ty.
Hình thức này cũng hạn chế được nhất định của hình thức kế toán tập trung,
và của hình thức kế toán phân tán, tạo điều kiện tăng cường công tác kế toán ở các
đơn vị thành viên hạch toán độc lập, cũng như toàn Tổng công ty, phù hợp với việc
phân công kế toán và phân cấp quản lý kinh tế - tài chính.


×