Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Luận văn thạc sĩ Tổ chức công tác kế toán quản trị tại công ty cổ phần tập đoàn kỹ nghệ gỗ trường thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
***

NGUYỄN NGỌC NGUYỆT

TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN
KỸ NGHỆ GỖ TRƯỜNG THÀNH

Chuyên ngành : Kế toán
Mã số: 60340301

Luận văn thạc sỹ kế toán

Đồng Nai – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
***

NGUYỄN NGỌC NGUYỆT

TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN
KỸ NGHỆ GỖ TRƯỜNG THÀNH

Chuyên ngành : Kế toán
Mã số: 60340301


Luận văn thạc sỹ kế toán

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN PHƯỚC

Đồng Nai – Năm 2014


1

PHẦN MỞ ĐẦU

SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.

Trong nền kinh tế thị trường, sự thành công của một doanh nghiệp phụ thuộc
rất nhiều vào các quyết định quản trị. Các quyết định quản trị này thường được xác
lập dựa trên thông tin của kế toán nhất là kế toán quản trị. Kế toán quản trị giúp cho
các nhà quản lý trong việc hoạch định, tổ chức, điều hành, kiểm tra, kiểm soát hoạt
động sản xuất của đơn vị mình từ đó đưa ra các quyết định quản trị.
Thông tin kế toán quản trị cung cấp góp phần rất lớn cho việc quản lý điều
hành của nhà quản trị. Nhà quản trị sử dụng thông tin này để đưa ra các kế hoạch
kinh doanh, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, đánh giá kết quả sau mỗi kỳ kinh
doanh. Từ đó nâng cao chất lượng quản lý điều hành của nhà quản trị, đem lại hiệu
quả kinh tế cho các doanh nghiệp.
Nhưng cho đến nay việc áp dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp vẫn còn
nhiều hạn chế, vẫn chưa được áp dụng rộng rãi tại các doanh nghiệp. Vì vậy, việc
hiểu và áp dụng kế toán quản trị vào hệ thống kế toán của doanh nghiệp là rất cần
thiết góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo thêm

lợi thế cạnh tranh trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Là thành viên của Hiệp hội gỗ Việt Nam, Công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ
gỗ Trường Thành góp phần rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu gỗ tại Việt Nam. Hiện
tại công ty có thực hiện phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh sau mỗi
kỳ kinh doanh nhưng vẫn chưa thực hiện tổ chức công tác kế toán quản trị một cách
đầy đủ và có hiệu quả. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “ Tổ chức công tác kế toán quản
trị tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trƣờng Thành” làm luận văn thạc
sỹ. Với hy vọng đề tài giúp Ban lãnh đạo công ty có cái nhìn đúng đắn về kế toán
quản trị và để áp dụng vào công ty, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, hiệu quả quản lý tại công ty này.
2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI


Mục tiêu tổng quát

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kế toán quản trị từ đó rút ra những lý thuyết cần
thiết để giải quyết chương 2, 3.


2
Khảo sát và đánh giá thực trạng để tìm ra ưu nhược điểm của bộ máy kế toán
nói chung và kế toán quản trị nói riêng tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ
Trường Thành.
Đế xuất quan điểm, giải pháp tổ chức kế toán quản trị và những kiến nghị cho
công ty triển khai thực hiện kế toán quản trị.


Mục tiêu chi tiết

Tìm hiểu tổng quan về kế toán quản trị, đề cập đến khái niệm kế toán quản trị,

lịch sử ra đời và phát triển của kế toán quản trị, vai trò và nội dung của kế toán quản
trị.
Giới thiệu tổng quan về Công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường
Thành. Khảo sát thực trạng tổ chức công tác kế toán từ đó đánh giá thực trạng để
tìm ra ưu điểm và nhược điểm của kế toán quản trị tại công ty.
Trên cơ sở những lý thuyết và thực trạng đã đề cập, tác giả đưa ra giải pháp tổ
chức công tác kế toán quản trị tại công ty với các quan điểm phù hợp môi trường,
thích ứng và yêu cầu hội nhập kinh tế, phù hợp ứng dụng khoa học vào kế toán quản
trị.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VỊ NGHIÊN CỨU


Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về kế toán nói chung và công tác kế toán quản trị tại Công
ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành nói riêng.


Phạm vi nghiên cứu

Số liệu nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2013 tại Công ty Cổ phần Tập đoàn
Kỹ nghệ gỗ Trường Thành.
4.


PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phƣơng pháp luận nghiên cứu

Tổng hợp các cơ sở lý thuyết từ kế toán quản trị để nghiên cứu vào một đơn vị
cụ thể.



Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng 2 phương pháp:
Phương pháp định lượng: phiếu khảo sát với mẫu khảo sát là 35 đối tượng, sau
đó dùng chương trình excel để thống kê mô tả.


3
Phương pháp định tính: tổng hợp, phân tích, quan sát, mô tả, phỏng vấn, đánh
giá.
5. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC
Hệ thống hóa lý luận về kế toán quản trị.
Đề xuất giải pháp về tổ chức kế toán quản trị tại Công ty Cổ phần Tập đoàn
Kỹ nghệ gỗ Trường Thành, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trên
thị trường.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được bố cục theo kết cấu đề tài 3
chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về kế toán quản trị
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán quản trị tại Công ty Cổ phần
Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành.
Chƣơng 3: Tổ chức công tác kế toán quản trị tại Công ty Cổ phần Tập đoàn
Kỹ nghệ gỗ Trường Thành.


4

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1

ĐỊNH NGHĨA VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ

Theo Liên đoàn kế toán quốc tế đưa ra định nghĩa về kế toán quản trị trong
Bản báo cáo về các khái niệm kế toán quản trị năm 1989: “Kế toán quản trị là quá
trình xác định, đo lường, tích lũy, phân tích, chuẩn bị, giải thích và truyền đạt thông
tin (cả tài chính và hoạt động) được sử dụng bởi nhà quản lý để lập kế hoạch, đánh
gía và kiểm soát trong một tổ chức, đảm bảo nhà quản lý sử dụng và có trách nhiệm
giải trình đối với các nguồn lực của tổ chức”.
Theo Luật Kế Toán số 03/2003/QH11 ngày 17/6/2003, “Kế toán quản trị là
việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
Theo Thông tư 53/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 12/6/2006, “Kế
toán quản trị nhằm cung cấp các thông tin về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp,
như: Chi phí của từng bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc, sản phẩm; Phân
tích, đánh giá tình hình thực hiện với kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận;
quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ; Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với
khối lượng và lợi nhuận; Lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định đầu tư
ngắn hạn và dài hạn; Lập dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh;... nhằm phục vụ
việc điều hành, kiểm tra và ra quyết định kinh tế”.
Như vậy, kế toán quản trị chủ yếu tập trung vào nội bộ doanh nghiệp, phản
ánh chi tiết quá trình hoạt động của doanh nghiệp từ đó giúp cho nhà quản trị trong
quá trình hoạch định, thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh tại đơn vị.
1.2

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KẾ TOÁN

QUẢN TRỊ

1.2.1 Trên thế gới
Theo Lyle E.Jacobsen viết trên báo London Economist tháng 6 năm 1960
thì người đầu tiên viết về Kế toán quản trị là nhà kinh doanh người Anh Thomas
SutherLand (Viết năm 1875).


5
Đến nửa cuối thế kỷ 19, Kế toán quản trị được áp dụng đầu tiên ở Anh và
Bắc Mỹ trong ngành Dệt, Đường sắt, sau đó được áp dụng vào ngành Thuốc lá,
Luyện kim, Hóa chất. Kế toán quản trị được áp dụng dưới hình thức là kế toán chi
phí tại các doanh nghiệp nhỏ để thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin cho nhà
quản lý nhằm kiểm soát chi phí, định hướng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác. Đến năm 1925, Kế toán quản trị được áp dụng vào hầu
hết các ngành kinh tế.
Theo Petty viết trong tác phẩm “Từ kế toán quản trị đến quản trị chiến
lược” quá trình phát triển của Kế toán quản trị chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ năm 1950 – 1965, đây là giai đoạn sơ khởi của kế toán
quản trị, vai trò chủ yếu của kế toán quản trị là xác định và kiểm soát chi phí. Thông
qua việc lập dự toán và kế toán chi phí.
Giai đoạn 2: Từ năm 1965 – 1985, giai đoạn này kế toán quản trị đã bắt đầu
hỗ trợ nhà quản lý cấp cao trong việc lập kế hoạch và kiểm soát thông qua kỹ thuật
phân tích quyết định và kế toán trách nhiệm.
Giai đoạn 3: Từ năm 1985 – 1995, kế toán quản trị không chỉ là hỗ trợ mà
là một hoạt động gắn liền với nhà quản lý. Mục tiêu chủ yếu của kế toán quản trị
trong thời gian này là giảm hao phí nguồn lực trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh. Để đạt được mục tiêu này, kế toán quản trị đã vận dụng kỹ thuật phân
tích quá trình và quản lý chi phí.
Giai đoạn 4: Từ năm 1995 – Nay, nội dung của kế toán quản trị gắn liền với
quản trị chiến lược, nhấn mạnh đến việc tạo ra giá trị gia tăng thông qua việc gia
tăng lợi ích cho khách hàng, cổ đông, sử dụng hiệu quả nguồn lực.

1.2.2 Tại Việt Nam
Kế toán quản trị xuất hiện khá lâu tại Việt Nam ở mức độ tự phát, sự ra đời
của kế toán quản trị được chính thức công nhận trong luật kế toán do Quốc hội
thông qua ngày ngày 17/06/2003, có hiệu lực ngày 01/01/2004.
Ngày 12/06/2006, Bộ tài chính ban hành thông tư 53/2006/TT – BTC,
hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp. Thông tư qui định cụ thể
về chức năng, nhiệm vụ, nội dung của kế toán quản trị trong doanh nghiệp. Tuy
nhiên, việc áp dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp vẫn còn mang tính sơ bộ
chưa áp dụng sâu trong doanh nghiệp. Do đó, việc hiểu và áp dụng các nội dung cuả


6
kế toán quản trị là vấn đề cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
SO SÁNH KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ

1.3

1.3.1 Những điểm giống nhau giữa kế toán tài chính và kế toán
quản trị
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có những điểm giống nhau như sau:
Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều là công cụ quản lý và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực kinh tế của tổ chức.
Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều sử dụng các chứng từ ban đầu làm
cơ sở tính toán các chỉ tiêu kinh tế - tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều quan tâm đến trách nhiệm của nhà
quản lý. Kế toán tài chính chú trọng đến trách nhiệm điều hành chung đối với toàn
bộ tổ chức; Kế toán quản trị chú trọng đến trách nhiệm điều hành ở từng bộ phận
của tổ chức cho đến cấp thấp nhất chỉ có trách nhiệm với chi phí.
1.3.2 Những điểm khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán

quản trị
Bảng 1.1: So sánh kế toán tài chính và kế toán quản trị
KẾ TOÁN TÀI CHÍNH

KẾ TOÁN QUẢN TRỊ

Đối tượng sử dụng thông Những thành phần có Các nhà quản trị ở bên
tin

quan tâm, ở bên ngoài tổ trong tổ chức.
chức.

Cơ sở pháp lý

Luật

Chính sách của nhà quản

Các chuẩn mực kế toán

trị
Nhu cầu kiểm soát của
nhà quản trị

Nguồn thông tin

Hầu

như


chỉ

lấy

từ Phương pháp kế toán cơ

phương pháp kế toán cơ bản của tổ chức cùng với
bản của tổ chức

nhiều nguồn khác, thí dụ
như tỷ lệ sản phẩm hỏng,
lượng nguyên liệu và lao
động sử dụng trong sản


7
xuất,…
Bản chất các báo cáo và Báo cáo tập trung vào Báo cáo thường tập trung
các thủ tục

toàn bộ tổ chức. Hầu như vào từng đơn vị trong tổ
dựa vào các số liệu giao chức như các bộ phận,
dịch lịch sử.

vùng địa lý, dòng sản
phẩm
Kết hợp số liệu lịch sử,
ước tính và dự báo về các
sự kiện tương lai.


Chi phí của thông tin

Phải phát sinh, nhằm mục Lợi ich của thông tin phải
đích thõa mãn các qui cao hơn chi phí bỏ ra
định pháp lý
(Nguồn: Phạm Văn Dược, 2007)

1.4

NỘI DUNG CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.4.1 Tổ chức hệ thống kế toán chi phí
1.4.1.1 Khái niệm về chi phí:

Theo Phạm Văn Dược (2007): “Chi phí có thể được hiểu là giá trị của một
nguồn lực bị tiêu dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức để đạt được
một mục đích nào đó. Bản chất của chi phí là phải mất đi để đổi lấy một kết quả.
Kết quả có thể dưới dạng vật chất như sản phẩm, tiền, nhà xưởng,… hoặc không có
dạng vật chất như kiến thức, dịch vụ được phục vụ,…”.
Do vậy, trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến
việc quản lý chi phí, vì mỗi đồng chi phí bỏ ra đều có ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vấn
đề quan trọng đặt ra cho nhà quản trị doanh nghiệp là phải kiểm soát chi phí. Việc
nhận diện để phân loại chi phí là vấn đề quan trọng để nhà quản lý đưa ra những
quyết định trong hoạt động kinh doanh.
1.4.1.2 Phân loại chi phí
 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Chi phí được phân loại thành:
- Chi phí sản xuất: Gồm 3 yếu tố cơ bản


8

+ Chi phí nguyên liệu trực tiếp: Là chi phí của các loại nguyên liệu chủ yếu
tạo thành thực thể của sản phẩm.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Là chi phí trả cho những người trực tiếp sản
xuất ra sản phẩm bao gồm tiền lương chính, lương phụ, các khoản trích theo lương
(BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ) và các khoản phải trả khác cho công nhân trực tiếp
sản xuất.
+ Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí liên quan đến việc quản
lý sản xuất và phục vụ sản xuất tại phân xưởng.
- Chi phí ngoài sản xuất: được chia thành 2 loại
+ Chi phí bán hàng: Là những chi phí phát sinh cần thiết để đảm bảo cho
việc thực hiện các đơn đặt hàng, bao gồm các khoản chi phí như: vận chuyển, bốc
vác, bao bì, lương nhân viên bán hàng, hoa hồng, khấu hao tài sản cố định và những
chi phí liên quan đến khâu dự trữ thành phẩm.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là toàn bộ những khoản chi phí chi ra cho
việc tổ chức và quản lý chung trong toàn công ty.


Phân loại chi phí theo mối quan hệ với thời kỳ xác định kết quả

kinh doanh
- Chi phí sản phẩm: Là toàn bộ những chi phí liên quan đến việc sản xuất
hoặc mua các sản phẩm.
- Chi phí thời kỳ: Là những chi phí phát sinh trong một thời kỳ và được
tính hết thành phí tổn trong kỳ để xác định kết qủa kinh doanh của đơn vị.


Phân loại chi phí sử dụng trong kiểm tra và ra quyết định
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí khi phát sinh được tính trực tiếp vào

các đối tượng sử dụng, nó được tính thẳng vào từng đơn đặt hàng, từng nhóm sản

phẩm...
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí khi phát sinh không thể tính trực tiếp
cho một đối tượng nào đó mà cần phải tiến hành phân bổ theo một tiêu thức phù
hợp.
- Chi phí chênh lệch: Là chi phí có trong phương án này nhưng lại không
có hoặc chỉ có một phần trong phương án khác. Tất cả những sự thay đổi đó hình
thành các chi phí chênh lệch và chính chúng sẽ là căn cứ để người quản lý lựa chọn
phương án.


9
- Chi phí kiểm soát đƣợc và không kiểm soát đƣợc: Chi phí kiểm soát
được đối với một cấp là những chi phí mà nhà quản lý cấp đó được quyền ra quyết
định, những chi phí mà người quản lý cấp đó không được quyền ra quyết định thì
gọi là chi phí không kiểm soát được.
- Chi phí cơ hội: Là những thu nhập tiềm tàng bị mất đi khi chọn phương
án này thay vì chọn phương án khác.
- Chi phí lặn: Là những chi phí đã bỏ ra trong quá khứ và nó không thể
tránh được dù lựa chọn bất kỳ phương án nào. Dễ thấy rằng đó là những khoản chi
phí đã được đầu tư để mua sắm tài sản cố định …
 Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Dựa trên cách ứng xử của chi phí đối với sự thay đổi của mức độ hoạt động
người ta chia toàn bộ chi phí thành ba loại :
- Biến phí: Là những chi phí mà giá trị của nó sẽ tăng, giảm theo sự tăng
giảm về mức độ hoạt động. Tuy nhiên nếu tính trên một đơn vị của mức độ hoạt
động thì Biến phí lại không đổi trong phạm vi phù hợp.
+ Biến phí tuyến tính: Là những biến phí có sự biến động cùng tỷ lệ với
mức độ hoạt động.
+ Biến phí cấp bậc: Là những loại chi phí thay đổi khi có sự thay đổi đủ
lớn và rõ ràng của mức độ hoạt động.

+ Biến phí phi tuyến: Trong thực tế người ta thấy rằng có rất nhiều loại
biến phí không có mối quan hệ tuyến tính với mức độ hoạt động. Trong trường hợp
này người ta phải xác định được phạm vi phù hợp trong mức độ hoạt động để xem
xét.
- Định phí: Là những chi phí mà tổng số của nó không thay đổi khi mức độ
hoạt động thay đổi. Định phí có thể chia thành hai loại như sau:
+ Định phí bắt buộc: Là những chi phí có liên quan đến những máy móc
thiết bị, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, chi phí ban quản lý, chi phí lương văn phòng ...
+ Định phí không bắt buộc: Là những định phí có thể thay đổi trong từng
kỳ kế hoạch của nhà quản trị công ty. Do hành động của nhà quản trị quyết định số
lượng định phí này trong các quyết định của từng kỳ kinh doanh: Thuộc loại này
gồm chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu...
- Chi phí hỗn hợp: Chi phí hỗn hợp là chi phí mà thành phần của nó bao gồm


10
cả yếu tố định phí và yếu tố biến phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp
thường thể hiện các đặc điểm của định phí, ở mức độ hoạt động vượt quá mức căn
bản nó thể hiện đặc điểm của biến phí.
1.4.1.3 Đối tƣợng tập hợp chi phí và tính giá thành.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi và giới hạn. Vì vậy, đối
tượng tập hợp chi phí có thể là nơi phát sinh chi phí hoặc là các đối tượng chịu chi
phí như: Từng phân xưởng, từng giai đoạn, từng sản phẩm, từng đơn đặt hàng….
Trong công tác kế toán chi phí và tính giá thành, việc xác định đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên nó làm cơ sở xây dựng hệ thống chứng từ ban
đầu và xây dựng hệ thống cơ sở chi tiết của chi phí sản xuất.
Việc xác định đối tượng tính giá thành căn cứ vào đặc điểm, cơ cấu tổ chức
sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ, kỹ thuật sản xuất sản phẩm… Vì vậy đối
tượng tính giá thành có thể là: Từng sản phẩm công việc, đơn đặt hàng hoàn
thành….

Nên căn cứ vào chu kỳ sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất từ đó
xác định đối tượng tính giá thành để cung cấp số liệu tính giá thành sản phẩm một
cách kịp thời. Vì khi lựa chọn đối tượng tính giá thành thích hợp sẽ là cơ sở tính giá
thành một cách chính xác.
 Kỳ tính giá thành
Kỳ tính giá thành là khoảng thời gian cần thiết phải tiến hành tổng hợp chi
phí sản xuất để tính giá thành, thường là hàng tháng, quý, năm hoặc theo đơn đặt
hàng. Việc xác định kỳ tính giá thành tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật và
nhu cầu thông tin của mỗi doanh nghiệp.
 Phƣơng pháp tập hợp chi phí
Phương pháp tập hợp chi phí là một hoặc một hệ thống các phương pháp
dùng để phân tích và ghi nhận chi phí theo từng đối tượng kế toán chi phí. Có hai
phương pháp đó là:
Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp: Áp dụng cho trường hợp chi phí phát
sinh liên quan tới từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt, chi phí sản xuất được
tính trực tiếp cho từng đối tượng trực tiếp chịu chi phí nên độ chính xác cao.
Phương pháp tập hợp chi phí gián tiếp: Áp dụng cho trường hợp chi phí phát
sinh liên quan tới nhiều đối tượng tập hợp chi phí nhưng thể ghi chép riêng lẽ cho


11
từng đối tượng được nên phải tập hợp chung và tiến hành phân bổ dựa trên các tiêu
thức thích hợp
 Phƣơng pháp tính giá thành
- Phƣơng pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn)
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản
xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất
ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác
Tổng GT SP = CPSX DD đầu kỳ + CPSX phát sinh - CPSX DD cuối kỳ
- Phƣơng pháp tổng cộng chi phí

Áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực
hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất là các bộ phận chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản
xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ
phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn , bộ phận sản
xuất tạo nên thành phẩm:
Giá thành = Z1 + Z2 + … + Zn
- Phƣơng pháp hệ số
Được áp dụng trong những doanh nghiêp mà trong cùng một quá trình sản
xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được
đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hơp riêng cho từng loại
sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo đó, căn cứ
vào hệ số qui đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó, dựa vào tổng chi phí
liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm
gốc và giá thành từng loại sản phẩm:
Giá thành đơn vị SP từng loại = Giá thành đơn vị SP gốc x Hệ số quy đổi
Tổng GT SX của các loại SP = Giá trị SP DD đầu kỳ + Tổng chi phí phát
sinh - Giá trị SP DD cuối kỳ
- Phƣơng pháp tỷ lệ
Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách , phẩm
chất khác nhau như: may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo... để giảm bớt
khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm


12
sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản
xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành
sản phẩm cùng loại
Giá thành thực tế từng loại SP = Giá thành kế hoạch (Định mức) x Tỷ lệ chi phí
- Phƣơng pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ

Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh
các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ, để tính giá
trị sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản
xuất sản phẩm.
Tổng giá thành SP chính = Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ + Tổng
chi phí phát sinh trong kỳ- Giá trị sản phẩm phụ thu hồi ươc tính - Giá trị sản phẩm
chính dở dang cuối kỳ
- Phƣơng pháp liên hợp
Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính
chất qui trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành
phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hoá chất, dệt kim,
đóng giầy, may mặc… Trên thực tế , kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực
tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm
phụ …
1.4.2 Dự toán ngân sách
1.4.2.1 Khái niệm
Dự toán là những tính toán, dự kiến một cách toàn diện mục tiêu mà tổ chức
cần phải đạt được, đồng thời chỉ rõ cách thức huy động các nguồn lực để thực hiện
các mục tiêu mà tổ chức đặt ra. Dự toán được xác định bằng một hệ thống các chỉ
tiêu về số lượng và giá trị cho một khoảng thời gian xác định trong tương lai.
Dự toán ngân sách là những tính toán, dự kiến một cách toàn diện mục tiêu
kinh tế, tài chính mà doanh nghiệp cần đạt được trong kỳ hoạt động, đồng thời chỉ
rõ cách thức, biện pháp huy động các nguồn lực để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ
đó. Dự toán ngân sách là một hệ thống bao gồm nhiều dự toán như: dự toán tiêu thụ,
dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu, dự toán chi phí nhân công, dự
toán chi phí sản xuất chung, dự toán chi phí bán hàng, dự toán chi phí quản lý doanh


13
nghiệp, dự toán giá vốn hàng bán, dự toán vốn đầu tư, dự toán tiền, dự toán báo cáo

kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán bảng cân đối kế toán.
Từ định nghĩa về dự toán ngân sách ta có thể thấy được mục đích của dự
toán ngân sách là:
- Cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch của doanh nghiệp bằng
những số liệu cụ thể.
- Cụ thể hóa các nguồn lực, các biện pháp để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
bằng những số liệu những bản tính toán chi tiết và cụ thể.
- Cung cấp cho nhà quản trị doanh nghiệp toàn bộ thông tin về kế hoạch sản
xuất, kinh doanh trong từng thời gian cụ thể và cả quá trình sản xuất kinh doanh.
- Chỉ rõ nhiệm vụ của từng bộ phận và đánh giá trách nhiệm quản lý cuả
từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp
1.4.2.2 Phân loại dự toán ngân sách
 Phân loại theo thời gian
Dự toán được chia thành dự toán ngắn hạn và dự toán dài hạn
Dự toán ngân sách ngắn hạn là dự toán được lập cho kỳ kế hoạch là môt năm
và được chia ra từng kỳ ngắn hơn là hàng quí và hàng tháng. Dự toán ngân sách
ngắn hạn được lập hàng năm trước khi niên độ kế toán kết thúc và được xem như là
định hướng chỉ đạo cho mọi hoạt động của tổ chức trong năm kế hoạch.
Dự toán ngân sách dài hạn còn được gọi là dự toán ngân sách vốn, đây là dự
toán được lập liên quan đến tài sản dài hạn, điểm cơ bản của dự toán ngân sách vốn
là lợi nhuận dự kiến lớn, mức độ rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn dài.
 Phân loại theo chức năng hoạt động
Dự toán được chia thành dự toán hoạt động và dự toán tài chính
Dự toán hoạt động là dự toán liên quan đến hoạt động chính, cơ bản và cụ
thể của doanh nghiệp. Ví dụ như dự toán tiêu thụ nhằm dự kiến tình hình tiêu thụ,
dự toán sản xuất nhằm dự kiến sản lượng sản xuất, dự toán mua hàng nhằm dự toán
khối lượng hàng cần thiết mua vào…
Dự toán tài chính là các dự toán liên quan đến tiền tệ, vốn đầu tư như dự toán
bảng cân đối kế toán, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán tiền…



14
 Phân loại theo phƣơng pháp lập
Dự toán được chia thành dự toán linh hoạt và dự toán cố định
Dự toán ngân sách linh hoạt là dự toán ước tính chi phí, doanh thu, lợi nhuận
tại nhiều mức độ hoạt động khác nhau, thông thường dự toán linh hoạt được lập ở 3
mức độ hoạt động cơ bản là: Mức độ hoạt động bình thường, mức độ hoạt động
khả quan nhất; mức độ bất lợi nhất.
Là dự toán ước tính chi phí, doanh thu, lợi nhuận tại một mức độ hoạt động,
thông thường dự toán cố định được lập tại mức độ hoạt động tối ưu.
1.4.2.3 Mô hình lập dự toán ngân sách


Mô hình ấn định thông tin từ trên xuống

Theo mô hình này các chỉ tiêu dự toán được định ra từ ban quản lý cấp cao
của tổ chức và truyền xuống cho quản lý cấp trung gian . Sau đó quản lý cấp trung
gian xem xét sẽ chuyển xuống cho quản lý cấp cơ sở .
Lập dự toán theo mô hình này mang nặng tính áp đặt từ nhà quản lý cấp cao
xuống các bộ phận, không gắn với năng lực thực tế của bộ phận trong DN. Khi lập
dự toán ngân sách theo mô hình này đòi hỏi nhà quản lý cấp cao phải có tầm nhìn
tổng quát, toàn diện về mọi mặt của doanh nghiệp và nhà quản lý cấp cao phải nắm
vững chặt chẽ chi tiết hoạt động của từng bộ phận trong doanh nghiệp cả về mặt
định tính và định lượng, điều này chỉ phù hợp với doanh nghiệp có qui mô nhỏ, có ít
sự phân cấp về quản lý .


Mô hình thông tin phản hồi

Các chỉ tiêu dự toán đầu tiên được ước tính từ ban quản lý cấp cao nhất, dự

toán lúc này mang tính dự thảo và được truyền xuống cho các cấp quản lý trung
gian. Trên cơ sở đó, các đơn vị quản lý trung gian sẽ phân bổ xuống các đơn vị cấp
cơ sở. Các bộ phận quản lý cấp cơ sở căn cứ vào các chỉ tiêu dự thảo, căn cứ vào
khả năng và điều kiện của mình để xác định các chỉ tiêu dự toán có thể thực hiện
được và những chỉ tiêu dự toán cần giảm bớt hoặc tăng lên. Sau đó bộ phận quản lý
cấp cơ sở bảo vệ dự toán của mình trước bộ phận quản lý cấp trung gian.


15
Bộ phận quản lý cấp trung gian, trên cơ sở tổng hợp các chỉ tiêu dự toán từ
các bộ phận cấp cơ sở sẽ xác định các chỉ tiêu dự toán có thể thực hiện được của bộ
phận mình và tiến hành trình bày và bảo vệ trước bộ phận quản lý cấp cao.
Bộ phận quản lý cấp cao trên cơ sở tổng hợp số liệu dự toán từ các bộ phận
cấp trung gian, kết hợp với tầm nhìn tổng quát, toàn diện về toàn bộ hoạt động của
tổ chức, sẽ xét duyệt thông qua các chỉ tiêu dự toán của bộ phận quản lý trung gian
và lập dự toán cho toàn bộ DN.
Lập dự toán theo mô hình này sẽ thu hút được trí tuệ và kinh nghiệm của
các cấp quản lý khác nhau vào quá trình lập dự toán, vì vậy dự toán sẽ có tính chính
xác, độ tin cậy và tính khả thi sẽ cao. Tuy nhiên nếu lập dự toán theo mô hình này
sẽ phải tốn nhiều thời gian và chi phí cho việc thông tin dự thảo, phản hồi, xét duyệt
và chấp thuận.
 Mô hình thông tin từ dƣới lên
Theo mô hình này, dự toán được lập từ cấp quản lý cấp thấp nhất đến cấp
quản lý cấp cao nhất. Các bộ phận quản lý cấp cơ sở căn cứ vào khả năng và điều
kiện của cấp mình để lập dự toán, sau đó trình lên quản lý cấp trung gian. Quản lý
cấp trung gian tổng hợp số liệu của cấp cơ sở và trình lên quản lý cấp cao. Quản lý
cấp cao sẽ tổng hợp số liệu của quản lý cấp trung gian và kết hợp với tầm nhìn tổng
quát, toàn diện về toàn bộ doanh nghiệp , từ đó lập dự toán của DN.
Lập dự toán ngân sách theo mô hình này số liệu sẽ chính xác hơn , bởi vì gắn
liền khả năng thực tế của từng bộ phận, tiết kiệm thời gian, chi phí và khuyến

khích các cá nhân , bộ phận trong tổ chức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch
đề ra. Dự toán theo mô hình này rất phù hợp với công ty lớn, hoặc các tập đoàn vì
thể hiện sự phân quyền trong quản lý.
Tuy nhiên nhược điểm của mô hình này là: Khi để cho các bô phận tự định
dự toán của mình có thể xảy ra tình trạng lập dự toán thấp hơn năng lực thật sự của
các bộ phận. Vì vậy nhà quản lý cấp cao cần kiểm tra, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi
chấp nhận ngân sách tự định của cấp dưới.
1.4.2.4 Quy trình lập dự toán ngân sách
Quy trình lập dự toán ngân sách chia làm ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị,
giai đoạn soạn thảo, giao đoạn theo dõi


16


Giai đoạn chuẩn bị

Trong giai đoạn này những công việc phải thực hiên là làm sáng rõ mục tiêu
của doanh nghiệp, xây dựng một mẫu dự toán ngân sách chuẩn, xác định nhiệm vụ
những cá nhân, bộ phận tham gia soạn thảo dự toán và xem xét lại hệ thống cung
cấp thông tin cho việc lập dự toán ngân sách


Giai đoạn soạn thảo

Trong giai đoạn này những cá nhân, bộ phận có liên quan trong việc lập dự
toán ngân sách phải tập hợp toàn bộ thông tin về các nguồn lực sẳn có trong doanh
nghiệp và thông tin về các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
doanh nghiệp trên cơ sở đó soạn thảo các báo cáo dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất,
dự toán nguyên vật liệu, dự toán tiền, dự toán bảng cân đối kế toán, dự toán báo cáo

kết quả hoạt động kinh doanh v.v…


Giai đoạn theo dõi

Trong giai đoạn này, nhà quản trị phải thường xuyên theo dõi, đánh giá tình
hình thực hiện dự toán, từ đó đánh giá trách nhiệm của từng các nhân, từng bộ phận
trong việc thực hiện dự toán, đánh giá lại tính hiện thực của số liệu trong dự toán,
trên cơ sở đó điều chỉnh và rút kinh nghiệm cho lần lâp dự toán ngân sách kế tiếp.
1.4.2.5 Trình tự lập dự toán ngân sách
Dự toán tiêu thụ luôn là dự toán chủ đạo, dự toán tiêu thụ phải được lập đầu
tiên. Hầu hết các dự toán khác trong dự toán ngân sách đều phụ thuộc vào dự toán
tiêu thụ. Căn cứ vào dự báo tiêu thụ và kết hợp với dự toán tồn kho sẽ tiến hành lập
dự toán sản xuất, từ dự toán sản xuất sẽ lập dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
dự toán chi phí nhân công trực tiếp, dự toán chi phí sản xuất chung. Căn cứ vào dự
toán tiêu thụ sẽ lập dự toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp và
cuối cùng là lập dự toán tài chính bao gồm dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, dự toán bảng cân đôí kế toán, dự toán báo cáo lưu chuyển tiền tệ.


17
Trình tự lập dự toán được thực hiện qua sơ đồ sau:

Dự toán tiêu thụ

Dự toán tồn
kho cuối kỳ

Dự toán chi
phí bán hàng

và quản lý

Dự toán sản xuất

Dự toán
chi phí lao
động trực
tiếp

Dự toán
chi phí NL
trực tiếp

Dự toán
chi phí
SXC

Dự toán giá vốn
hàng bán

Dự toán tiền
mặt

Dự toán báo cáo
kết quả hoạt
động kinh
doanh

Dự toán bảng
cân đối kế toán


Dự toán báo
cáo lưu chuyển
tiền tệ

(Nguồn: Phạm Văn Dược, 2007)
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ lập dự toán ngân sách

1.4.3 Tổ chức kế toán trách nhiệm và đánh giá trách nhiệm quản lý
1.4.3.1 Định nghĩa về kế toán trách nhiệm
Kế toán trách nhiệm là công cụ để thu thập những thông tin về tình hình hoạt
động của từng bộ phận, công cụ để đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động của từng


18
bộ phận, từ đó xác định được trách nhiệm của mỗi bộ phận, của mỗi cá nhân phụ
trách từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn bộ doanh nghiệp.
Hệ thống kế toán trách nhiệm được thiết lập để ghi nhận, đo lường kết quả
hoạt động của từng bộ phận trong tổ chức, trên cơ sở đó lập các báo cáo thực hiện
nhằm phục vụ cho các nhà quản lý kiểm soát được hoạt động và chi phí.
Như vậy, kế toán trách nhiệm là một phương pháp kế toán thu thập và báo
cáo các thông tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm
trách nhiệm.
Mục tiêu của hệ thống kế toán trách nhiệm là nhằm đảm bảo sử dụng hữu
hiệu và hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp. Do vậy cần xây dựng các trung
tâm trách nhiệm để đo lường, đánh giá trách nhiệm quản lý và kết quả hoạt động
của từng bộ phận.
1.4.3.2 Phân loại trung tâm trách nhiệm
Căn cứ vào sự khác biệt trong việc lượng hóa giữa “đầu vào” và “đầu ra” của
các trung tâm trách nhiệm cũng như mức độ trách nhiệm của người quản trị trung

tâm, có thể chia thành 4 loại trung tâm trách nhiệm chính: trung tâm chi phí, trung
tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư.


Trung tâm chi phí

Trung tâm chi phí là trung tâm có quyền kiểm soát chi phí nhưng không
kiểm soát được lợi nhuận và vốn đầu tư. Trong hệ thống tổ chức quản lý , trung tâm
chi phí thường là các phân xưởng sản xuất. Cơ sở để đánh giá kết quả hoạt động của
trung tâm chi phí là dựa vào tình hình thực hiện các định mức về chi phí.
Mục tiêu của trung tâm chi phí là quản lý chặt chẽ, giảm thiểu chi phí. Trách
nhiệm của nhà quản lý trung tâm chi phí là phải xây dựng được kế hoạch chi phí
trong ngắn hạn và dài hạn; nắm được số lượng sản phẩm sản xuất, chi phí sản xuất
thực tế, mức chênh lệch giữa thực tế và kế hoạch, nguyên nhân dẫn đến sai lệch .
Ben cạnh đó, trung tâm chi phí có vai trò và tác dụng to lớn bởi vì đây chính là cấp
quản lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm. Một khi trung tâm chi
phí được quản lý tốt sẽ góp phần kiểm soát được các chi phí phát sinh và làm gia
tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp.


19


Trung tâm doanh thu

Trung tâm doanh thu là trung tâm có quyền kiểm soát doanh thu nhưng
không kiểm soát được lợi nhuận và vốn đầu tư. Trong hệ thống tổ chức quản lý,
trung tâm doanh thu thường là các cửa hàng hoặc bộ phận bán hàng. Cơ sở để đánh
giá kết quả hoạt động trung tâm về doanh thu là dựa vào tốc độ tăng doanh thu ngày
càng cao qua các kỳ hoạt động, dựa vào sự biến động của doanh thu thực tế so với

dự toán.


Trung tâm lợi nhuận

Trung tâm lợi nhuận là trung tâm có quyền kiểm soát chi phí, doanh thu, lợi
nhuận nhưng không kiểm soát được vốn đầu tư .Trong hệ thống tổ chức quản lý,
trung tâm lợi nhuận thường là các xí nghiệp hoặc công ty. Cơ sở để đánh giá kết quả
hoạt động trung tâm lợi nhuận là dựa vào tốc độ tăng lợi nhuận ngày càng cao qua
các kỳ hoạt động, dựa vào sự biến động lợi nhuận thực tế so với dự toán.


Trung tâm đầu tƣ

Trung tâm đầu tư là trung tâm có quyền kiểm soát chi phí, doanh thu, lợi
nhuận và vốn đầu tư.Trong hệ thống tổ chức quản lý, trung tâm đầu tư thường là các
tập đoàn hoặc các tổng công ty. Cơ sở đánh giá kết quả hoạt động của trung tâm đầu
tư là dựa vào tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI) và lợi nhuận còn lại ( RI ).
1.4.3.3 Đánh giá hiệu quả quản lý của các trung tâm trách nhiệm


Trung tâm chi phí

Hiệu quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm chi phí được đánh giá qua
báo cáo hiệu quả được lập cho từng trung tâm chi phí riêng biệt.
Thông tin lập báo cáo hiệu quả để đánh giá hiệu quả của các nhà quản trị ở
trung tâm chi phí chỉ là chi phí có thể kiểm soát được bởi từng nhà quản trị ở từng
trung tâm chi phí. Bằng việc so sánh chi phí có thể kiểm soát thực tế với dự toán,
các nhà quản lý có thể biết được chênh lệch nào tốt, chênh lệch nào xấu từ đó có
những quyết định cho công tác quản trị.



Trung tâm doanh thu

Hiệu quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm doanh thu thường được
đánh giá bằng việc so sánh doanh thu có thể kiểm soát giữa thực tế so với dự toán


20
và phân tích các chênh lệch phát sinh. Khi đánh giá hiệu quả của trung tâm doanh
thu, cần quan tâm đến chi phí của từng sản phẩm nhằm thúc đẩy các nhà quản trị ở
trung tâm doanh thu lưu ý tối đa hóa lợi nhuận gộp chứ không phải chỉ doanh thu.
Vì nếu chỉ dựa vào doanh thu để đánh giá, các nhà quản trị có thể tìm cách giảm giá
để tăng doanh thu, hoặc thúc đẩy tiêu thụ những mặt hàng có doanh thu lớn nhưng
lợi nhuận thấp. Những hành vi như thế có thể làm gia tăng doanh thu nhưng giảm
lợi nhuận trên tổng thể công ty.


Trung tâm lợi nhuận

Hiệu quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm lợi nhuận được đánh giá
thông qua báo cáo hiệu quả được lập cho từng trung tâm lợi nhuận riêng biệt.
Thông tin đưa vào báo cáo để đánh giá hiệu quả của các nhà quản trị ở trung
tâm lợi nhuận chỉ là lợi nhuận có thể kiểm soát bởi nhà quản trị ở từng trung tâm lợi
nhuận. Do lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, nên chỉ doanh thu có
thể kiểm soát và chi phí có thể kiểm soát mới được đưa vào báo cáo hiệu quả. Chi
phí có thể kiểm soát được phân loại theo biến phí và định phí khi đưa vào báo cáo
hiệu quả. Bằng việc so sánh thông tin thực tế với thông tin dự toán, các nhà quản trị
có thể biết được chênh lệch nào là có lợi, chênh lệch nào là không có lợi, chênh lệch
nào do biến động của khối lượng hoạt động, chênh lệch nào do thành quả kiểm soát

doanh thu và chi phí mang lại để có những quyết định phù hợp cho công tác quản
trị.


Trung tâm đầu tƣ

Để đánh giá hiệu quả quản lý ở các trung tâm đầu tư bằng cách
- So sánh doanh thu và chi phí có thể kiểm soát được giữa thực tế với dự toán
- Sử dụng các công cụ để đánh giá hiệu quả đối với các khoản vốn đầu tư
thuộc quyền kiểm soát của nhà quản trị ở trung tâm đầu tư như là: Tỷ suất hoàn vốn
đầu tư (ROI); Lợi nhuận giữ lại (RI)
Tỷ suất hoàn vốn đầu tư (ROI):
ROI = Lợi nhuận / Tài sản được đầu tu
Hay ROI = Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu x Số vòng quay của vốn đầu tư


21
Sử dụng ROI để đánh giá hiệu quả đầu tư của các trung tâm đầu tư và các
doanh nghiệp có quy mô vốn khác nhau để phân tích xem nơi nào đạt hiệu quả cao
nhất, từ đó làm cơ sở đánh giá hiệu quả quản lý
Lợi nhuận giữ lại (RI):
RI = Lợi nhuận hoạt động – (Vốn đầu tư x Tỷ suất chi phí vốn)
Sử dụng RI để nhà đầu tư thấy được lợi nhuận thực tế còn lại sau khi trừ đi
các khoản chi phí sử dụng vốn để có được lợi nhuận trên. Bên cạnh đó, việc sử dụng
RI để nhà đầu tư biết được có nên đầu tư gia tăng hay không khi mà sử dụng chỉ số
ROI không đủ cơ sở để ra quyết định.
1.4.4

Thiết lập thông tin phục vụ việc ra quyết định


Một trong những chức năng cơ bản của nhà quản trị là ra quyết định, bao gồm
quyết định ngắn hạn và quyết định dài hạn. Để lựa chọn thông tin thích hợp cho
việc ra quyết định kế toán quản trị cần phải thu thập thông tin, loại bỏ các thông tin
không thích hợp, xác định thông tin thích hợp từ đó nhà quản trị đưa ra các quyết
định. Cụ thể bao gồm nội dung phân tích mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi
nhuận và phân tích điểm hòa vốn để ra quyết định về sản xuất và tiêu thụ, phân tích
thông tin kế toán quản trị để ra các quyết định ngắn hạn và dài hạn.
1.5

VAI TRÕ CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ

Kế toán quản trị có vai trò quan trọng trong việc điều hành sản xuất kinh
doanh tại doanh nghiệp. Kế toán quản trị là nguồn chủ yếu để cung cấp thông tin
cần thiết cho nhà quản lý ra các quyết định trong kinh doanh ở tất cả các khâu: lập
kế hoạch, dự toán, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá. Kế toán quản trị tư vấn
cho nhà quản lý trong quá trình xử lý, phân tích thông tin, lựa chọn phương án, ra
quyết định kinh doanh phù hợp nhất. Kế toán quản trị giúp nhà quản lý kiểm tra,
giám sát điều hành các hoạt động kinh tế tài chính và sản xuất kinh doanh tại doanh
nghiệp, đánh giá những vấn đề tồn tại cần khắc phục nhằm mang lại hiệu quả kinh
tế nhất cho doanh nghiệp.
1.6 TÁC ĐỘNG CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN



22
Kế toán quản trị có tác động tích cực đến công tác quản lý, thông tin của kế
toán quản trị là nền tảng giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin của kế toán quản trị thể hiện
trong các quá trình sau:
Quá trình lập kế hoạch: Để lập kế hoạch đòi hỏi phải nắm được những thông

tin đã xảy ra, phải có những phương pháp để phân tích đánh giá tình hình và phải có
những công cụ để đưa ra những dự báo trong tương lai. Kế toán quản trị sẽ cung cấp
thông tin về tình hình đã xảy ra, cung cấp những công cụ, phương pháp để phân tích
đánh giá tình hình và đưa ra dự báo.
Quá trình tổ chức và điều hành: Tổ chức và điều hành là quá trình thực hiện
các công việc như : Tổ chức về nhân sự, phân bổ tài sản, nguồn vốn…Để thực hiện
tốt các công việc trên đòi hỏi phải nắm được thông tin về tình hình hoạt động của
từng bộ phận, phải có những công cụ để đánh giá kết quả, hiệu quả của từng bộ
phận , từ đó xác định được trách nhiệm của từng bộ phận, của mỗi cá nhân phụ
trách từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn bộ doanh nghiệp.
Kế toán quản trị sẽ cung cấp những thông tin và công cụ để đánh giá kết quả, hiệu
quả hoạt động của từng bộ phận phục vụ cho mục đích trên.
Quá trình kiểm tra: Kiểm tra là quá trình đối chiếu, so sánh giữa số liệu thực
tế với số liệu phản ánh mục tiêu ,nhiệm vụ và kế hoạch đề ra nhằm đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch…Kế toán quản trị có vai trò trong việc hình thành thông tin
thực tế và kế hoạch phục vụ cho công tác kiểm tra.
Quá trình ra quyết định: Thông tin của kế toán quản trị phục vụ rất nhiều cho
quá trình ra quyết định. Từ thông tin của kế toán quản trị các nhà quản lý có thể lựa
chọn các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nhờ có kế toán quản trị tất cả chi phí được phân loại rõ ràng
theo cách ứng xử từ đó hỗ trợ nhà quản lý có những quyết định kịp thời đáp ứng
theo yêu cầu cấp bách của thời buổi kinh tế thị trường hiện nay.
Nghiên cứu các nhân tố tác động đến kế toán quản trị như đã trình
bày trên là cơ sở để đề tài đánh giá các hoạt động hiện tại của Công ty cổ phần Tập
đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành. Đồng thời cũng làm định hướng và gợi ý giải pháp
thực hiện kế toán quản trị tại Công ty.


23


TÓM TẮT CHƢƠNG 1

Trong giai đoạn hiện nay thông tin được xem như là một yếu tố trực tiếp của
quá trình sản xuất kinh doanh nên để thích ứng với hoàn cảnh mới, các nhà quản lý
đã có các phương pháp tiếp cận đối với các chức năng khác nhau của kế toán trong
kinh doanh, tiếp thị, sản xuất, tài chính, ứng xử về mặt tổ chức điều hành doanh
nghiệp. Vì vậy, ứng dụng kế toán quản trị là việc làm tích cực và thiết thực cho
công tác quản lý.
Trong chương này, tác giả đã nêu những nội dung cơ bản của kế toán quản
trị, sự cần thiết phải tổ chức kế toán quản trị và sự tác động của kế toán quản trị vào
công tác quản lý doanh nghiệp. Qua việc phân tích các nội dung về kế toán quản trị
để từ đó ứng dụng vào việc tổ chức công tác kế toán quản trị tại doanh nghiệp.


×