ĐỀ ÁN KINH TẾ THƯƠNG MẠI
LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
dộng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu…góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước. Là
một bộ phận của hoạt động đàu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mơ hình tổ chức kinh tế linh
dộng gắn kinh tế nghành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi vào khu cơng nghiệp, khu chế xuất là nội
dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành cơng hay thất bại của
các khu trong hồn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức tạp.
Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: “Làm thế nào
thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập? ”
Để góp một phần nhỏ bé vào nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt
đồng đầu tư trực tiếp nước ngồi vào khu cơng nghiệp, khu chế xuất, sau một
thời gian nghiên cứu, em xin chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào khu cơng nghiệp, khu chế xuất.”
Khóa luận khơng đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
một hay vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng
thể trên toàn bộ các khu tổng thể trong khoảng thời gian 16 năm, kể từ khi
khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện tại.
1
Bài viết được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp
nước ngồi vào khu cơng nghiệp, khu chế xuất.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngồi vào khu cơng nghiệp, khu
chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam
Bài viết này được hoàn thành với sự giúp đỡ hướng dẫn và chỉ bảo tận
tình của các thầy cơ giáo trong khoa Thương Mại. Giáo sư-Tiến sĩ Đặng Định
Đào. Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành với sự chỉ bảo tận tình và
những ý kiến đóng góp của các thầy đã giúp đỡ trong thời gian vừa qua.
Do khản năng và trình độ có hạn nên bài viết khó tránh khỏi những khiểm
khuyết .Rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các thầy, cô giáo và
những người quan tâm vấn đề này.
2
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU CÔNG
NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT- ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
I.VÀI NÉT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1.Khái niệm
1.1. Khu chế xuất :
a.Cơ sở lý luận:
Sau chiến tranh thế giới thứ II. sự phát triển nhanh chóng của các nước
cơng nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân cơng
tiền cơng thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn trước
đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa. Mặt khác do trình
độ cịn hạn chế nền kĩ thuật tư động hoá chưa đủ sức giải quyết được những
khó khăn này của các nước phát triển.
Trong khi đó, các nước đang phát triển đang rất khó khăn về kinh tế do
vừa thốt khỏi ách đô hộ thực dân. Thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và
ngoại tệ để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân
tộc.
Ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát
triển và các nước đang phát triển. Sự thơi thúc tìm kiếm nguồn nhân cơng giá
và ngun liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất
công nghiệp dùng nhiều lao động, tài ngun ra nước ngồi, đến gần các
nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của
mình, đã cố gắng tạo ra một mơi trường kinh tế thích hợp để thu hút đầu tư từ
bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực hiện chiến
lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu.
Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu tố
khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khơn khéo, linh hoạt và rất có
ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các
quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển.Khu chế xuất cũng chính
là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi dụng và phát huy nhanh
chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng bằng cách tham gia tích
cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng, xét về mặt lợi ích và hiệu quả
theo nguyên lý vủa lý thuyết lợi thế so sánh, khu chế xuất là nơi hội tụ về
quyền lợi của các nước đang phát triển và các công ty xuyên quốc gia, người
nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư nước ngoài hiện nay trên thế giới.
3
b,Định nghĩa:
Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới (WEPZA):
Theo điều lệ hoạt dộng của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các
khu được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do,
khu cơng nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác
được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế xuất
với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kơng và
Sinhgapo vào các khu chế xuất.
Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc ( UNIDO):
Theo UNIDO, khu chế xuất là “khu vực được giới hạn về hành chính.
Vó khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu
thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu
về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài.” Khái niệm khu chế xuất bao hàm
việc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghiệp và một loạt
những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đà tư của các nhà kinh doanh nước
ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất
hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi
hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực
tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất.
Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao –
ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997, khu chế xuất là “khu
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cư
sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”.
Như vậy, cề cơ bản , khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định
nghĩa hẹp của UNIDO.
1.2. Khu công nghiệp::
a.Khu công nghiệp- sự cải biện cần thiết của khu chế xuất cổ điển.
Theo các chuyên gia kinh tế, sỏ dĩ khu chế xuất được thành lập nhiều và
thu được nhiều thành công lớn ở các nước Châu Á, vì đây là khu cực có lực
lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đường
hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động vào bậc nhất thế
giới. Các khu chế xuất châu Á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế
xuất trên toàn thế giưới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lượng xuất khẩu của
một nước nhưng tổng kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc,
4
Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế
giới.
Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực
sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến điều này:
+Một là , có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên
thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu
vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các
khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài
chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh
doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư.
+Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các
nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kỹ thuật
nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa.
Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện.
+Ba là xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu tồn bộ sản phẩm ra thị
trường thế giới. Chính yêu cầu này đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất
trước những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của
khu chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng cơng
nghiệp nhẹ và cơng nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có
dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại
trước các xí nghiệp khu chế xuất. Khơng tạo nên mơi trường kinh doanh có
tính cạnh tranh cao giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và
nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác dộng tiêu cực
đối với khả năng tăng năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung.
Khu cơng nghiệp – mơ hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mơ
hình khu chế xuất cổ điển.
Khu cơng nghiệp là mơ hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư
nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được
thị trường nội địa như một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp
trong khu. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu tư
nước ngồi vì đối với họ thị trường nội địa còn là một thị trường mới, có dung
lượng lớn, trong khi đó thị trường thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại
sản phẩm của các doanh nghiệp khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng
loại và chất lượng.
b.Định nghĩa:
Định nghĩa 1:
5
Khu cơng nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất cơng
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại. văn phịng, nhà
ở… Khu cơng nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính kinh
tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công nghiệp
ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
Định nghĩa 2:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất cơng nghiệp, khơng
có dẫn cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia,
Indonesia, Thái Lan. Đài Loan đã hình thành nhiều khu cơng nghiệp với qui
mô khác nhau.
Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao – ban
hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997, khu công nghiệp là “khu
tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh giưới địa lý
xác định, khơng có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính
phủ quyết định thành lập. Trong khu cơng nghiệp có thể có doanh nghiệp chế
xuất”.
1.3. Sự giống nhau và khác nhau giữa KCN, KCX:
a.Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng
một vài trăm hecta. VD: Khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất
Linh Trung là 60 ha, khu cơng nghiệp Biên Hồ là 365 ha, khu công nghiệp
Nội Bài là 100 ha…
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu
có qui mơ vừa và nhỏ, thường dưới 5 trêịu đôla, với số lao động khoảng từ
300-400 người.
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ
chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngồi.
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được
thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh,
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
6
- Năm là, để quản lý Nhà nước đối với khu chế xuất và khu cơng nghiệp,
Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban quản lý. Ban quản lý khu chế xuất và khu
công nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lý “một cửa” cho các nhà đầu
tư.
b.Khác nhau:
-Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất
khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngồi nước, cịn doanh nghiệp khu cơng
nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
-Thứ hai, ưu đãi giữa khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác nhau do
xuất phát từ mục tiêu khác nhau. Theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/
2000/NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
dành cho doanh nghiệp khu công nghiệp và khu chế xuất như sau:
+ Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong
hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%,
được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp
theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế
thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở
lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm
tiếp theo, là 15% ( với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh
nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn một năm kể từ
khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
2.Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.1. Mục tiêu:
a.Mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngồi:
-Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ
ở các nước đang phát triển.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nhất là từ
đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nước đó.
Khi tại các nước này, ngồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm,
giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các cơng ty
xun quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các nghành cơng nghiệp có
7
hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do
giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các nghành dùng nguyên liệu, công
nghiệp tiêu chuẩn hố như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện…khơng địi hỏi
trình độ cơng nghệ cao tại các nước tư bản phát triển tỏ ra khơng cịn hiệu quả
do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài ngày
càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Điều
này có thể giúp chúng ta lý giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thường
đầu tư vào những nghành công nghiệp nhẹ, chế biến lắp ráp như dệt, may
mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu công nghiệp, khu chế xuất của các
nước đang phát triển.
-Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước
đang phát triển, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thế và
các ưu đãi khác của các nước này nhằm tăng cường lưọi ích của các cơng ty
xun quốc gia.
-Bảo vệ môi trường các nước phát triển
Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp
nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ơ nhiễm mơi trường khơng kiểm sốt nổi
ở các nước phát triển, làm cho phí bảo vệ mơi trường ngày càng tăng. Xu
hướng chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các ngành công
nghiệp này sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường nước họ và
giảm chi phí sản xuất.
-Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài
Khi đầu tư ra nước ngồi, trong đó có đầu tư vào khu cơng nghiệp, khu chế
xuất, các cơng ty tư bản nước ngồi muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ
đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ.
Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào
Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó.
b. Mục tiêu của các nước thành lập:
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất. Với tính
chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trường
đầu tư chung của các nước, khu công nghiệp, khu chế xuẩt trở thành công cụ
hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiệp nước ngoài để mở mang hoạt động sản xuất
kinh doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của các nền
kinh tế.
- Mở rộng hoạt động ngoại thương.
Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, nước chủ nhà muốn
đẩy mạnh hoạt động ngoại thương với các nước.
8
Sau khi giành được độc lập sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước đang
phát triển ớ châu Á – Thái Bình Dương muốn đẩy mạnh cơng nghiệp vượt
qua do thiếu nguồn ngoại tệ. Thành lập khu chế xuất để tăng nhanh xuất khẩu
hàng hoá và thu ngoại tệ là con đường mà nhiều nước theo đuổi.
Những nước xưa nay vốn dựa vào hoạt dộng xuất khẩu và chuyển khẩu để
phát triển kinh tế như Singapo, Hồng Kông thường thông qua việc mở khu
chế xuất, bảo đảm những biện pháp quản lý đặc biệt và điều kiện ưu đãi nhằm
thu hút phương tiện và nguồn hàng các nước đến để thực hiện dịch vụ xuất
khẩu và chuyển khẩu.
Đối với các nước đang phát triển khác, việc lập ra các khu công nghiệp, khu
chế xuất để thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, mở rộng
cơng nghiệp xuất khẩu, từ đó tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn
là điều quan tâm nhất. Theo hướng này, ở nhiều nước Châu Á – Thái Bình
Dương, xuất khẩu hàng cơng nghiệp sản xuất ở khu công nghiệp, khu chế
xuất chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng kim nghạch xuất khẩu ở các nước đó.
-Tạo cơng ăn việc làm
Khuyến khích tồn dụng lao động là một trong những mục tiêu quan trọng
của các nước đang phát triển, Sau chiến tranh thế giới thứ II, sự bùng nổ dân
số và tình trạng thất nghiệp đã làm cho bức tranh kinh tế của các nước này
càng trở nên ảm đạm. Trong khi các nước mới dành được độc lập dư thừa sức
lao động thì tình trạng thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao dộng tiền công
thấp ở các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn sử dụng
nguồn lao động dồi dào trong đội quân thất nghiệp khổng lồ ở các nước đang
phát triển.
- Du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý
của các công ty tư bản nước ngoài.
Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt
là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị
trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa
học kỹ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng
khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo
điều kiện nhập khẩu kỹ thuật, cơng nghệ của các cơng ty tư bản nước ngồi,
học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữư hiệu mà nhiều
nước từng áp dụng.
Ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết kỹ
thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ
trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kỹ thuật phục
vụ cho công cuộc bốn hiện đại hố là mục tiêu ln được quan tâm của Trung
Quốc, đặc biệt ở các đặc khu kinh tế được thành lập trong những năm cuối
9
thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao
được thành lập trong những năm gần đây.
-Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế trong nước.
Trước hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị trường nội
địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu từ
nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu. Cịn khu chế
xuất. với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động của khu chế
xuất chủ yếu hướng ra thị trường thế giới. Vì vậy, có thể xem khu công
nghiệp, khu chế xuất như là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nước
với kinh tế khu vực và thế giới.
Ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có thu
nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, tạo
cơng ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt
dộng đầu tư trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó.
Song để có các khu cơng nghiệp, khu chế xuất thành công, điều cơ bản của
các nước chủ nhà là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các công
ty xuyên quốc gia - đối tượng đầu tư chủ yếu của các khu. Nói cách khác hai
bên phải tìm đợpc điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu
công nghiệp, khu chế xuất là cơng cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt
được trong môi trương đầu tư do các nước chủ nhà tạo ra để sẵn sàng đón
nhận đầu tư của các công ty xuyên quốc gia.
2.2. Đặc điểm của khu chế xuất và khu công nghiệp:
Các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là công cụ thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại đáp ứng nhu
cầu về hàng hoá của thị trường trong nước và thế giới. Với cơ cấu được hình
thành trên cơ sở kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, khu công nghiệp, khu chế
xuất bao gồm những đặc điểm:
-Thứ nhất, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (đối với khu công nghiệp ) hàng
xuất khẩu ( đối với khu chế xuất ), và các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp ( đối với khu công nghiệp ) cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt dộng xuất khẩu ( đối với khu chế xuất ), là những doanh nghiệp
cơ bản đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố.
10
-Thứ hai, việc hình thành khu chế xuất và khu công nghiệp tạo nên sự thay
đổi một cách căn bản về hạ tầng trong và ngoài khu, là cơ sở để hình thành
các khu vực đơ thị, các thành phố công nghiệp trong tương lai.
-Thứ ba, khu chế xuất và khu cơng nghiệp góp phần vào việc tạo ra hiệu
quả kinh tế - xã hội, trước hết là giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi ch okhu vực lãnh thổ có các khu
này.
-Thứ tư, tạo nên sự liên kết với cơ sở kinh tế trong nước, trước hết là khu
vực quanh khu chế xuất và khu công nghiệp.
Như vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác động
nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ việc tổ chức
cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, phát triển hạ tầng kiến trúc, bảo
vệ môi trường đến việc nâng cao mức sống nhân dân.
II.QUAN HỆ GIỮA VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ
XUẤT Ở VIỆT NAM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI.
1.Khu cơng nghiệp, khu chế xuất - sự phát triển tất yếu của hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bước vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và quan
hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực có những biến chuyển nhanh chóng và
sâu sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ,
cũng như tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với những
biến đổi ấy, ở nhiều nước đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo hướng
tận dụng tốt nhất những lợi thế so sánh của mình trong phân cơng lao động
quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nước.
Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nước ta cải
cách kinh tế theo hướng “mở cửa” đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Vào thời điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh
vốn đầu tư để duy trì và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ
tụt hậu về phát triển giữa nước ta và các nước được đặt ra hết sức cấp bách.
Khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là
giải pháp chính cho vấn đề nói trên. Nhưng khi nguồn đầu tư trong nước còn
hạn chế, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường để huy động tối đa nguồn
vốn đó, thì nguồn lực bên ngồi chiếm tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc
xây dựng các cơng trình quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với cơng nghiệp
hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
11
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những bộ phận quan
trọng nhất của chính sách “mở cửa”. Thêm vào đó Luật đầu tư nước ngồi tại
Việt Nam, được Quốc hội CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 29 tháng 12
năm 1987và đã qua nhiều lần sửa đổi, đã tạo môi trường pháp lý cho hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Luật đầu tư, Nhà nước Việt Nam cam
kết bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tư vốn, bảo đảm
cho tiền vốn và tài sản của họ không bị quốc hữu hố hoặc bị tịch thu trong
q trình hoạt động; khuyến khích đầu tư thong qua các điều kiện ưu đãi về
thuế, bao gồm miễn, giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các điều
kiện thuận lợi khác về cư trú, đi lại ở Việt Nam…Luật đầu tư nước ngồi boả
đảm đối xử cơng bằng đối với tất cả các đối tác nước ngồi, khuyến khích họ
đầu tư vào tất cả các hình thức, từ hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của các nhà đầu tư nước ngoài;
hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao để xây dựng, khai thác các
cơng trình hạ tầng…Cũng theo Luật đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài chịu sự quản lý của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư –
nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà
nước về hoạt động đẩu tư nước ngoài. Nội dung quản lý bao gồm: xúc tiến
đầu tư, hình thành dự án; thẩm định, cấp giấy phép đầu tư; quản lý doanh
nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư.
Nhằm thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu khi trong nền knh tế và cơ
chế quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự hiểu biết về thị trường
thế giới cịn hạn chế, ở nước ta khu cơng nghiệp và khu chế xuất được sử
dụng như những công cụ để thu hút đầu tư nước ngoài, là biện pháp tăng năng
lực xuất khẩu bằng cách tạo ra môi trường đầu tư tự do, điều kiện thương mại
tự do và cung cấp cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi với một cơ chế quản lý phù hợp.
Như vậy, việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất để tăng năng lực
xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi nhằm khai thác có hiệu quả
các nguồn lực trong nước, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nước ta trong
nền kinh tế thế giới và khu vực, góp phần vào cơng cuộc cơng nghiệp hố hiện đại hoá theo hướng hướng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan, là
bước phát triển có tính chất logic của các chính sách phát triển kinh tế đất
nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngồi nói riêng.
2.Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh mẽ hệ thống khu công nghiệp,
khu chế xuất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi là vì:
12
-Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư của các nước
phát triển, trước hết là của các cơng ty xun quốc gia và tập đồn tư bản lớn
là nguồn đầu tư quan trọng nhất. Khu cơng nghiệp, khu chế xuất chính là mơi
trường thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất
hàng xuất khẩu.
-Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội đã hạn chế khả năng tăng
trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi của cả nước nói
chung và của từng vùng nói riêng. Khu cơng nghiệp, khu chế xuất là một địa
bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng
đạt trình độ quốc tế, với chi phí thấp đáp ứng địi hỏi của các nhà đầu tư nước
ngồi.
-Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu, tận dụng
được ưu thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.
-Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép áp dụng qui chế riêng với những
qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành chính, trước hết là thủ tục hải
quan, thuế tương đối đơn giản, thơng thống, dễ áp dụng nên hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài.
- Là nơi đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phương pháp quản
trị kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, cung cấp
cán bộ kỹ thuật và cơng nhân lành nghề có chun mơn kỹ thuật cho các
ngành kinh tế.
Tóm lại, khu cơng nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một cầu nối gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới, là nhân tố quan trọng trong việc thu
hút vốn đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngồi nói riêng để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đất nước và đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh
tế thế giới.
13
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở
VIỆT NAM ( TỪ 1991 – NAY )
I.TÌNH HÌNH CÁC KHU CƠNG NGHIỆP, KHU CHỄ XUẤT CHO ĐẾN
ĐẦU NĂM 2008
1.Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất.
a.Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đến cuối tháng 2/2008 cả nước có 182 khu công nghiệp được thành lập
Trong 2 tháng đầu năm 2008, có thêm 3 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng KCN được cấp GCNĐT, thành lập các KCN: Nam Sơn- Hạp Lĩnh, tỉnh
Bắc Ninh (603 ha ) và KCN Cộng Hòa, tỉnh Hải Dương (357 ha) và mở rộng
KCN Long Bình-Amata, tỉnh Đồng Nai (133 ha).
Tính đến cuối tháng 2/2008 cả nước đã có 182 KCN được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên 43.791 ha, trong đó diện tích đất cơng nghiệp có thể cho
th đạt 29.358 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 110
KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 26.115 ha và 72
KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản
với tổng diện tích đất tự nhiên 17.675 ha. Các KCN, KCX phân bố ở 53 tỉnh,
thành phố trên cả nước; tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện
tích đất tự nhiên chiếm gần 60% tổng diện tích các KCN cả nước.Có 10 khu
kinh tế và 2 khu công nghệ cao ( Hồ Lạc và Hồ Chí Minh ). So với các khu
cơng nghiệp Châu Á có diện tích trung bình từ 100-300 ha thì các khu cơng
nghiệp Việt Nam có diện tích tương đối lớn.
Tại khu vực kinh tế Bắc Bộ tập trung các khu công nghiệp lớn tầm cỡ, thu hút
nhiều dự án lớn như: khu công nghiệp Thăng Long, khu công nghiệp Sài Đồng,
khu công nghiệp Quế Võ, khu cơng nghiệp Nomura, khu cơng nghiệp Đình
Vũ... Các ngành cơng nghiệp chủ chốt: sản xuất xi măng, đóng tàu (Hải Phịng
và Quảng Ninh), ơ tơ, xe máy (Vĩnh Phúc, Hải Dương), luyện cán thép (Thái
Nguyên).Trong đó nổi lên như khu công nghiệp Nomura được đánh giá là đồng
bộ, hiện đại nhất Việt Nam có tỷ suất đầu tư cao ( xấp xỉ 7 triệu/ha ) thu hút, tạo
việc làm cho trên 15.000 lao động địa phương (tính đến năm 2007) và đến năm
2010, con số này sẽ lên đến 30.000 lao động...Khu công nghiệp - đô thị Quế Võ
rộng hơn 600 ha. Theo chủ trương, mơ hình khu cơng nghiệp Quế Võ được thiết
kế hiện đại, bao gồm một diện tích rộng 311,6 ha dành cho xây dựng các nhà
14
máy, xí nghiệp. Tổng vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng lên tới 531 tỷ đồng,
và 200 tỷ đồng dành cho xây dựng nhà xưởng; một khu dân cư đô thị Kinh Bắc
hiện đại rộng 300 ha, với tổng vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng; khu vui chơi giải trí có
diện tích 100 ha, với tổng vốn đầu tư 300 tỷ đồng. Khu công nghiệp lớn nhất
miền Bắc là khu Đình Vũ với diện tích 982 ha ở thành phố Hải Phòng với nhiều
dự án đầu tư có vốn đăng ký 79.930.000USD…Vùng sơng hồng 30 khu cơng
nghiệp, trung du miền núi 5 khu .
Tại miền Trung có nhiều khu cơng nghiệp có diện tích lớn như KKT VŨNG
ÁNG diện tích tự nhiên 22.781 ha bao gồm tồn bộ các xã: Kỳ Nam, Kỳ
Phương, Kỳ Lợi, Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Thịnh, Kỳ Trinh, Kỳ Hà và Kỳ Ninh
thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. KKT Dung Quất là khu liên hợp lọc hoá
dầu đầu tiên của Việt Nam, diện tích : 10.300 ha, có năng lực hàng hoá qua
cảng lớn nhất Việt Nam-đến năm 2020 là 30 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó cịn
các khu chế xuất Thuận Yên diện tích trên 200 ha, khu Liên Chiểu diện tích
373,5 ha, khu Hồ Hiệp 705.4 ha…Miền Bắc và Miền Trung chiếm trên 80%
diện tích khu cơng nghiệp cả nước
Tại miền Nam và đồng bằng sơng Cửu Long có các khu vực tập trung các khu
công nghiệp như : Trong năm 2007, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã bổ sung quy
hoạch phát triển 4 KCN trên địa bàn tỉnh đến năm 2015 với quy mô 3.250 ha
gồm: KCN Châu Đức (1.550 ha), KCN Đất Đỏ I (500 ha), KCN Phú Mỹ III
(800 ha) và mở rộng KCN Phú Mỹ II (400 ha). Năm 2007, KCN Bình Dương
đã thu hút được trên 1 tỷ đơ la Mỹ vốn đầu tư nước ngồi, tăng gấp 2 lần so
cùng kỳ và bằng 125% kế hoạch năm. Các khu CN Đồng Nai, Long An có
diện tích trung bình 200-300 ha. Mỗi khu có khoảng vài đến hàng chục khu
cơng nghệ lớn nhỏ. Diện tích chiếm khoảng 60%.Với 65 KCN (chiếm tổng
diện tích trên 20 ngàn ha, trong đó có 42 khu cơng nghiệp đã và đang hoạt
động), vùng cũng được xem là nơi tập trung KCN lớn nhất cả nước. Giá trị
sản xuất công nghiệp của Vùng đóng góp ngày càng cao vào thành quả chung
của đất nước. Sau gần 10 năm thành lập, vùng đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu
tư vào các khu cơng nghiệp, trong đó có hơn 1.800 dự án đầu tư nước ngoài
với tổng vốn 15 tỷ USD.
b.Qui hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Vùng
Số khu công nghiệp, khu chế xuất
Vùng núi Bắc Bộ
3
Vùng Tây Nguyên
3
Vùng đồng bằng sông Cửu Long
21
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
37
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
21
15
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
54
Các vùng khác
29
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 nhằm mục tiêu hình thành
hệ thống các khu cơng nghiệp chủ đạo có vai trị dẫn dắt sự phát triển công
nghiệp quốc gia, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có
tỷ trọng cơng nghiệp trong GDP thấp.
Theo Quy hoạch này, tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị
sản xuất công nghiệp cả nước sẽ tăng từ 24% hiện nay lên 40% vào năm 2010
và trên 60% trong giai đoạn tiếp theo. Tương tự, tỷ lệ hàng xuất khẩu của các
KCN đóng góp vào tổng giá trị hàng cơng nghiệp xuất khẩu cả nước sẽ tăng
tương ứng từ 19,2% lên 40%.
Về diện tích, quy hoạch chỉ rõ, từ nay đến năm 2010 phấn đấu lấp đầy các
KCN đã được thành lập; chỉ thành lập mới một số KCN trên cơ sở có chọn
lọc, với diện tích tăng thêm khoảng 15.000-20.000ha. Như vậy, tổng diện tích
các KCN đến năm 2010 sẽ đạt mức 45.000-50.000ha. Đến năm 2015 ( dự
kiến có 113 khu cơng nghiệp được thành lập mới với diện tích quy hoạch là
29.200 ha) diện tích này đạt khoảng 65.000-70.000ha, năm 2020 đạt khoảng
80.000ha.
Bản Quy hoạch cũng nêu rõ, việc mở rộng các KCN hiện có chỉ được thực
hiện khi tổng diện tích đất cơng nghiệp đã được cho th ít nhất là 60% và đã
xây dựng xong cơng trình xử lý nước thải tập trung.
Kết cấu hạ tầng các KCN, đặc biệt là các cơng trình xử lý nước thải và diện
tích cây xanh, được chú trọng đầu tư đồng bộ nhằm bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững.
Cùng với Quyết định phê duyệt Quy hoạch này, Thủ tướng Chính phủ cũng
ban hành kèm theo danh mục 117 KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới đến
năm 2015 và danh mục 27 KCN dự kiến mở rộng, trong đó khu vực đồng
bằng sơng Hồng chiếm ố lượng nhiều nhất với 31 KCN dự kiến thànhs lập
mới.
2.Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất:
Số lượng các KCN được thành lập tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của
các nhà đầu tư về một lĩnh vực đầu tư hiệu quả. Trong 3 năm đầu, từ 19911993, cả nước chỉ có 2 KCN được thành lập là KCX Tân Thuận và KCX Linh
Trung 1 (thành phố Hồ Chí Minh), 2 năm 1994-1995 có thêm 5 KCN được
thành lập. Sau khi Luật Đầu tư nước ngồi (sửa đổi) năm 1992 có quy định về
việc khuyến khích thu hút đầu tư nước ngồi vào các KCN, KCX, việc “thí
16
điểm” thành lập các KCN từ 1992-1995 có thể nói là đã kết thúc, từ năm 1996
số lượng các KCN được tăng lên đáng kể, riêng năm 1996 đã có 13 KCN
được thành lập, cao gấp đôi so với giai đoạn trước. Đặc biệt là năm 1997, Quy
chế quản lý KCN, KCX và KCNC ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP
ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời và hướng dẫn hoạt động của các KCN,
KCX, tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của các
KCN, vì thế các KCN đến năm 1997 đã là: 45 KCN, gấp 3,5 lần so với năm
1996. Những năm sau đó, quy mơ các KCN tăng tương đối đều đặn hàng năm
với tốc độ khoảng 20%/năm
Hiện tại Việt Nam có hơn 150 khu cơng nghiệp, khu chế xuất với khoảng
320.000 ha tại 55 tỉnh thành trên cả nước, trong đó đã có 21.700 ha đã được
lấp kín.
Cả nước đang có 2.600 dự án có vốn đầu tư nước ngồi trị giá 25,3 tỷ USD,
chiếm 72% quỹ đất của khu công nghiệp, khu chế xuất, chiếm 60% nguồn
vốn FDI và 2.800 dự án của doanh nghiệp trong nước đầu tư đạt tổng giá trị
hơn 437 tỷ USD.
Theo kế hoạch Chính phủ đã phê duyệt phát triển khu công nghiệp của cả
nước, đến năm 2010 diện tích đất cơng nghiệp sẽ đạt 40.000 - 45.000 ha. Đến
năm 2020, diện tích đất công nghiệp sẽ tăng lên khoảng 70.000-80.000 ha.
Theo kế hoạch trong giai đoạn từ 2006-2010, Việt Nam sẽ lập thêm 100 khu
công nghiệp, khu chế xuất nâng đất công nghiệp lên khoảng trên 40.000 ha,
đến năm 2020, con số này vào khoảng 70-80 ngàn ha.
3.Thu hút đầu tư vào khu cơng nghiệp, khu chế xuất đến cuối năm 2007
Tính đến thời điểm 31/12/2007, các khu công nghiệp trong cả nước đã thu hút
trên 1 triệu lao động trực tiếp. Bình quân 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê thu
hút được 72 lao động, và tạo ra được giá trị sản xuất kinh doanh trên 1,5 triệu
USD. Cũng trong năm 2007, các doanh nghiệp khu công nghiệp nộp ngân
sách được khoảng 1,1 tỷ USD.
Theo ghi nhận chính thức từ Vụ Quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư): năm 2007, các khu công nghiệp trong cả nước đã
tiếp tục đà tăng trưởng của các năm trước, đồng thời có những phát triển mới
mang tính đột phá...
Đây cũng là năm có số lượng khu cơng nghiệp được thành lập mới và mở
rộng nhiều nhất trong 16 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp
Việt Nam, gồm: 33 khu công nghiệp mới được thành lập, có tổng diện tích tự
nhiên 9.024 ha; và 12 khu cơng nghiệp mở rộng diện tích thêm 1.992 ha.
Như vậy, tính đến cuối năm 2007 trong cả nước đã có 183 khu cơng nghiệp
17
được thành lập, với tổng diện tích đất tự nhiên là 43.687 ha, phân bố khắp 54
tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó diện tích đất cơng nghiệp có thể cho
thuê đạt 29.179 ha, bằng 66,8%. Trong số này có 111 khu cơng nghiệp đã đi
vào hoạt động và đã cho thuê được 13.120 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất
cơng nghiệp 73,7%...
TS. Trần Ngọc Hưng, Vụ phó Vụ Quản lý khu cơng nghiệp và khu chế xuất,
xác nhận, năm 2007 cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi vào các khu
cơng nghiệp đã có sự tăng đột biến, và đạt được ở mức cao nhất từ trước đến
nay.Cụ thể là, ngoài 14 dự án đầu tư nước ngoài và 31 dự án đầu tư trong
nước vào phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp với tổng vốn trên 870
triệu USD và 20.200 tỷ đồng.
Các khu cơng nghiệp trong cả nước cịn thu hút được 7.270 triệu USD vốn
đầu tư nước ngồi. Trong đó vốn đầu tư mới của 605 dự án là 4.805 triệu
USD, và vốn tăng thêm của 459 lượt điều chỉnh dự án là 2.465 triệu USD.
Đồng thời, các khu công nghiệp đã thu hút được thêm 41.629 tỷ đồng vốn
đăng ký đầu tư của các dự án trong nước; gồm: 468 dự án mới và 128 lượt bổ
sung điều chỉnh.
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp.HCM là những địa phương
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp nhiều nhất, với
4.519,3 triệu USD, chiếm 62% vốn đầu tư tăng thêm vào các khu công nghiệp
cả nước. Riêng Đồng Nai, dẫn đầu về đầu tư nước ngồi vào các khu cơng
nghiệp với 1.745 triệu USD.
Về đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp, Bà Rịa - Vũng Tàu cao nhất
với trên 5.000 tỷ đồng, tiếp theo là Tp.HCM, Hải Phòng (trên 3.000 tỷ), Hải
Dương (2.800 tỷ), Long An (2.100 tỷ)...
Tính chung, đến cuối năm 2007 các khu công nghiệp trong cả nước đã thu hút
được 3.020 dự án có vốn đầu tư nước ngồi với tổng vốn 29.872 triệu USD,
và 3.070 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 197.382 tỷ đồng; và
31 dự án đầu tư nước ngoài và 152 dự án trong nước có tổng vốn 1.872 triệu
USD và 57.600 tỷ đồng để phát triển hạ tầng các khu cơng nghiệp.
Trong số này đã có 2.012 dự án đầu tư nước ngoài và 1.930 dự án đầu tư
trong nước đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 14.046 triệu
USD và 104. 261 tỷ đồng, tương ứng với 47% và 53% tổng vốn đầu tư đăng
ký.
Các doanh nghiệp khu công nghiệp trong năm qua cũng đạt mức tăng trưởng
cao so với năm 2006: tổng doanh thu đạt 22,4 tỷ USD, tăng 24%; kim ngạch
xuất khẩu đạt 10,8 tỷ USD, tăng 31,7%, và chiếm 22% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước...
18
II.ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1.Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia
Việt Nam đã và đang thành cơng trong thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) mà làn sóng đầu tư nước ngồi mới lần
thứ 2 có dấu hiệu từ năm 2005 đã hình thành đưa tới với kết quả cao vào năm
2007 vốn đầu tư cấp mới đạt hơn 20 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm trước,
vượt 53,2% kế hoạch dự kiến cả năm (13 tỷ USD)
Trong năm 2007 có 57 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong
đó Hàn Quốc tiếp tục giữ vị trí đứng đầu với số vốn đăng ký trên 4,4 tỷ USD,
chiếm 24,9% về tổng vốn đăng ký, British Virgin Islands đứng thứ 2 với 4,2
tỷ USD (chiếm 23,8%). Singapore đứng thứ 3 với 2,6 tỷ USD (chiếm 14,6%),
Đài Loan đứng thứ 4 với 1,7 tỷ USD (chiếm 9,7%), Malaysia đứng thứ 5
với 1,09 tỷ USD (chiếm 6,1%), Nhật Bản đứng thứ 6 với 965 triệu USD
(chiếm 5,4%), Hoa Kỳ (khơng tính các dự án đầu tư thông qua nước thứ 3)
đứng thứ 8 với 354 triệu USD (chiếm 2%). Song song với việc đầu tư vào
thành lập các dự án mới nói trên, đã có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đang hoạt động sản xuất kinh doanhh, tăng vốn, mở rộng sản xuất, trong đó, 4
nền kinh tế đứng đầu đã chiếm khoảng 72,1% tổng số vốn đầu tư bổ sung :
đứng đầu là Đài Loan có số vốn tăng thêm 688,7 triệu USD, chiếm 27,8%
tổng số vốn bổ sung ; Hàn Quốc đứng thứ 2 với 533,6 triệu USD (chiếm
21,6%); Nhật Bản đứng thứ 3 với 338,9 triệu USD (chiếm 13,7%); Hồng
Kông đứng thứ 4 với 219,7 triệu USD (chiếm 8,9%); Samoa đứng thứ 5 với
173,4 triệu USD (chiếm 7%). Tính gộp cả vốn cấp mới lẫn vốn tăng nói trên
có 6 nền kinh tế lọt vào tốp đầu tư hơn 1 tỷ USD tại Việt Nam riêng trong
năm 2007, như sau: (1) Hàn Quốc đầu tư 4,99 tỷ USD, (2) B.V.Island đầu tư
4,32 tỷ USD, (3) Singapore đầu tư 2,67 tỷ USD, (4) Đài Loan đầu tư 2,42 tỷ
USD, (5) Nhật Bản đầu tư 1,3 tỷ USD và (6) Malaysia đầu tư 1,17 tỷ USD.
Như vậy riêng các nước châu á trong năm 2007 đã đăng ký đầu tư 12,5 tỷ
USD tại Việt Nam, chiếm 62,5% tổng vốn đầu tư.
2.Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số nghành, lĩnh vực công
nghệ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trong vốn đăng ký là 17,85 tỷ USD của 1.445 dự án mới, tăng 73,5% về số
dự án và 96,3% về vốn đăng ký so với năm trước, đồng thời có 379 dự án bổ
sung với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 2,4 triệu USD, bằng 78% về số
dự án và 84,9% về vốn bổ sung so với năm 2006, vốn đầu tư đăng ký tiếp tục
tập trung trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm 62,9% về số dự án và 50,6% tổng
vốn đầu tư đăng ký, tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 31,5% về số dự án và
19
47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, số còn lại đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tính đến
tháng 6/2007 có 7.490 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 67,3 tỷ
USD, vốn thực hiện gần 30 tỷ USD. Trong đó, các dự án thuộc lĩnh vực nông,
lâm nghiệp là 758 dự án vốn đăng ký 3,78 tỷ USD, vốn thực hiện gần 1,9 tỷ
USD. Theo đánh giá, lĩnh vực nông nghiệp chưa thu hút sự quan tâm của các
nhà đầu tư. Điều này thể hiện qua tỷ trọng FDI trong ngành nông nghiệp
chiếm 10,6% số dự án ( qua cơ cấu đầu tư giữa các ngành) và chỉ chiếm 7,6%
tổng số vốn đầu tư trong đó ngành cơng nghiệp nặng chiếm tới 45,5% vốn
đầu tư, công nghiệp nhẹ chiếm 32,7%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007,
FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 2,46% tương đương với 107 triệu
USD trên tổng số 4,3 tỷ USD vốn FDI của cả nước.
Thực hiện mục tiêu cuả ngành nông nghiệp đề ra đến 2010 thu hút được 1,5 tỷ
USD vốn FDI, tháng 8-2007 Bộ NN & PTNT đã ban hành Chiến lược và quy
hoạch sử dụng FDI đến năm 2010. Trong quý IV năm 2007, Bộ sẽ trình
Chính Phủ xem xét phê duyệt, ban hành chính sách ưu đãi mới để thu hút FDI
cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
Những năm gần đây, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang tăng trưởng với
nhịp độ cao và chất lượng mới. Chính phủ đang nắm bắt cơ hội, khẩn trương
rà soát, loại bỏ các thủ tục hành chính bất hợp lý, tạo mơi trường pháp lý
thuận lợi, mở rộng phân cấp quản lý đầu tư để khuyến khích, đẩy mạnh thu
hút vốn FDI đặc biệt vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thơn vì
nước ta là một nước nơng nghiệp.
Theo Bộ NN& PTNT, mặc dù nguồn vốn đầu tư cho ngành còn hạn chế, các
dự án FDI đã góp phần khơng nhỏ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thơn, phát triển sản xuất hàng hố, nâng cao giá trị nông sản, đẩy
mạnh xuất khẩu. Hiện nay, tại Việt Nam có 758 dự án FDI đã và đang được
triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp đem lại doanh thu khoảng 312 triệu
USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD. Tuy nhiên, vốn FDI cho nơng nghiệp ở
nước ta vẫn cịn khá khiêm tốn. Tại các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền
nơng nghiệp tiến bộ Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…tỷ trọng
vốn FDI nông nghiệp thường ổn định từ 13% đến 21%. Tính đến hết tháng 62007, số vốn FDI đăng ký trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam mới đạt
khoảng 5,6%. Cịn nếu tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2007, vốn FDI trong
nông nghiệp chỉ chiếm 2,46% trong tổng vốn FDI cả nước.
20