Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chính sách phát triển mang tính đột phá để xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.07 KB, 6 trang )

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH

KỶ YẾU HỘI THẢO

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN MANG TÍNH ĐỘT PHÁ
ĐỂ XÂY DỰNG NỀN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU HIỆN NAY
PGS. TS. Vũ Trọng Khải

T

rong suốt 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau khi
có Nghị quyết 10 (4/1988) của Bộ Chính trị về “Đổi mới quản lý

nông nghiệp”, nền nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến
khá dài. Nhưng hiện nay, những yếu tố tạo thành nền nông nghiệp Việt Nam đã
đạt “ngưỡng phát triển tới hạn”. Nền nông nghiệp nước ta tuy chỉ còn chiếm
khoảng 18% GDP của nền kinh tế, nhưng vẫn phải sử dụng gần 50% lực lượng
lao động xã hội và nuôi sống khoảng 70% dân cư; Nông nghiệp vẫn lạc hậu,
nông thôn vẫn nghèo, nông dân còn cực khổ; Nông sản không bảo đảm tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn được sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hợp
pháp, phổ biến, đang đầu độc cả dân tộc. Để tiếp tục phát triển có hiệu quả và
bền vững cả về kinh tế - xã hội và môi trường trước các cơ hội và thách thức to
lớn của bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và trước các
thách thức không lường trước được của tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu,
nền nông nghiệp Vệt Nam phải ứng dụng công nghệ cao, từ cung ứng giống và
các loại vật tư, trang thiết bị đầu vào, đến canh tác, chăn nuôi, nuôi trồng, khai
thác, đánh bắt, chế biến, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ nông sản trên thị
trường trong và ngoài nước (không phải tạo ra các khu nông nghiệp công nghệ
cao để triển lãm).


Để xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, trước hết, cần có những
đổi mới căn bản về tư duy và hoạch định các chính sách phát triển mang tính
đột phá cao.

1. Về đổi mới tư duy
Hiện nay người ta nói nhiều đến “Tái cơ cấu nền nông nghiệp gắn với



Nguyên Hiệu trưởng Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II.

9


xây dựng nông thôn mới” như là giải pháp phát triển mang tính quyết định.
Tái cấu trúc chỉ là sự sắp xếp lại các yếu tố cấu thành hiện có của một hệ
thống (ở đây là nền nông nghiệp Việt Nam) sao cho hợp lý hơn để tiếp tục phát
triển. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi và chỉ khi các yếu tố cấu thành
của hệ thống đó còn nhiều “dư địa” phát triển. Nhưng hiện nay, các yếu tố cấu
thành nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt đến “ngưỡng phát triển tới hạn”. Do
vậy, phải tạo ra các yếu tố mới về chất cấu thành nên nền nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, cả trong sản xuất và quản trị, dẫn đến sự phát triển có hiệu
quả và bền vững cả về kinh tế - xã hội và môi trường. Đó chính là tiến trình xây
dựng lại nền nông nghiệp, chứ không phải là tái cấu trúc.
Mặt khác, tiến trình xây dựng lại nền nông nghiệp dựa trên nền tảng công
nghệ cao trong sản xuất và quản trị, là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất
của công cuộc xây dựng nông thôn mới. Cho nên, xây dựng lại nền nông nghiệp
và xây dựng nông thôn mới không phải là hai khái niệm đồng đẳng, không phải
là hai nội dung cùng diễn tiến đồng thời và gắn kết với nhau. Nói cách khác,
xây dựng nông thôn mới, mà thực chất là phát triển nông thôn toàn diện và bền

vững, đã bao hàm nội dung của tiến trình xây dựng lại nền nông nghiệp dựa
trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng và trước các thách thức to lớn, khó lường của tình trạng biến đổi
khí hậu.

2. Chính sách phát triển biến nông dân thành thị dân
Cần có chính sách phát triển công nghiệp và đô thị đúng đắn để biến
nông dân thành thị dân một cách bền vững, làm giảm dân cư và sức lao động
nông nghiệp, tạo ra nguồn “cung” đất nông nghiệp cho thị trường, nhằm thúc
đẩy tiến trình tích tụ và tập trung ruộng đất, tạo lập các trang trại sản xuất nông
sản hàng hóa quy mô lớn, đủ năng lực ứng dụng công nghệ cao. Đáng tiếc là,
trên thực tế, trong suốt 30 năm đổi mới, chúng ta đã không thực hiện được điều
này. Chính sách phát triển nền công nghiệp gia công, lắp ráp, có giá trị gia tăng
thấp, dựa trên “ưu thế” sức lao động giá rẻ, chỉ cần “cơ bắp”, và dựa trên khai
thác tài nguyên thiên nhiên, chấp nhận tình trạng ô nhiễm môi sinh nghiêm
trọng để đổi lấy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, người nông dân rời bỏ đồng ruộng
để làm công nhân trong các khu công nghiệp buộc phải chấp nhận thu nhập
thấp, điều kiện lao động xấu, buộc phải làm tăng ca để bảo đảm mức sống tối

10


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH

KỶ YẾU HỘI THẢO

thiểu; chấp nhận sử dụng thực phẩm giá rẻ không đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, mua từ các “chợ cóc”. Vì thế, khi tuổi chưa già và cũng không còn trẻ để
có thể chuyển đổi nghề, họ đã không còn đủ sức khỏe theo yêu cầu của công

việc. Lúc đó, họ sẽ phải tự xin nghỉ việc, hoặc bị giới chủ sa thải, nên chỉ còn
cách trở lại quê hương, chia lại việc làm vốn đã ít, trên mảnh ruộng nhỏ bé của
mình.
Mặt khác, chúng ta chỉ xây dựng các khu công nghiệp để tạo việc làm,
mà không xây dựng khu dân sinh với các tiện ích công cộng, như nhà ở xã hội
có điện, nước sạch, nhà trẻ, trường học, bệnh viện, chợ, nhà văn hóa,mang
internet,cap truyen hinh, đường giao thông,co kết nối với hệ thống quốc gia…
Hơn nữa, các khu công nghiệp thường phổ biến xây dựng ở các đô thị đã có, tạo
ra các siêu thành phố với những vấn nạn về kinh tế - xã hội và môi trường,
không thể giải quyết được.
Cho nên, người nông dân ra thành phố làm công nhân trở thành công dân
hạng 2, sống trong các nhà ổ chuột, không được hưởng các tiện ích công cộng
như cư dân đô thị. Con cái của họ sinh ra phải gửi về quê cho ông bà nuôi dạy
và để học “đúng tuyến”. Đó là chỉ báo cho sự thất bại của chính sách phát triển
công nghiệp. Người nông dân ra thành phố làm công nhân trong điều kiện
“không an cư, nên không lạc nghiệp”, họ không thể trở thành thị dân. Làm công
nhân chỉ là tạm bợ và luôn sống trong tâm thế sẵn sàng trở về quê làm nông dân
khi có những biến động bất lợi trong đời sống. Do vậy, họ không sẵn sàng bán
hay cho thuê lâu dài số đất nông nghiệp ít ỏi của mình ở quê hương. Điều đó đã
không tạo ra nguồn “cung” cho thị trường đất nông nghiệp. Vì thế, cần phải
thay đổi căn bản tư duy và chính sách phát triển công nghiệp và đô thị, tạo lập
nhiều khu đô thị có đủ tiện ích văn minh ở vùng kinh tế - sinh thái để thu hút
sức lao động dư thừa từ nông nghiệp, nông thôn, biến nông dân thành thị dân
một cách thực sự và bền vững.

3. Chính sách đào tạo đội ngũ nông dân chuyên nghiệp
Nền nông nghiệp truyền thống tồn tại dựa trên những “lão nông tri điền”,
những nông dân “cha truyền con nối”, nên không thể sản xuất hàng hóa quy mô
lớn, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và quản trị.
Vì vậy, một mặt, phải có chính sách đầu tư đào tạo một đội ngũ “thanh

nông tri điền”, những nông dân chuyên nghiệp, đủ năng lực quản lý các trang
11


trại gia đình sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, thực hiện
GlobalGap và đủ năng lực thành lập và quản lý hợp tác xã (HTX) kiểu mới theo
Luật HTX 2012. Cả hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nông,
lâm, ngư nghiệp dày đặc trong cả nước phải được Nhà nước giao nhiệm vụ và
cấp kinh phí để đào tạo lớp thanh niên nông thon thành nông dân chuyên
nghiệp. Chỉ khi có đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, “cầu” trên thị trường đất
nông nghiệp mới hình thành và phát triển, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung ruộng đất, tạo lập các trang trại ứng dụng công nghệ cao, tham gia vào
chuỗi giá trị ngành hàng nông sản trên thị trường trong và ngoài nước.

4. Chính sách phát triển các HTX và doanh nghiệp đóng vai trò
“nhạc trưởng” trong chuỗi giá trị ngành hàng ở mỗi vùng nông nghiệp sinh
thái.
Các trang trại gia đình sản xuất hàng hóa ứng dụng công nghệ cao chỉ có
ưu thế trong các khâu sản xuất mang tính sinh học trên từng thửa ruộng, vườn
cây, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và ao nuôi trồng thủy hải sản, và
đóng vai trò chủ thể quan trọng đầu tiên trong chuỗi giá trị ngành hàng nông
sản. Nhưng để áp dụng công nghệ cao trong toàn chuỗi giá trị ngành hàng nông
sản, tạo dựng thương hiệu, chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước, cần có
vai trò “nhạc trưởng” của các doanh nghiệp và HTX bảo đảm cung ứng dịch vụ
đầu vào – đầu ra bằng công nghệ cao cho các trang trại. Một mặt, các doanh
nghiệp và HTX cung ứng giống xác nhận theo yêu cầu chủng loại, phẩm chất
của thị trường, cung ứng các trang thiết bị và vật tư nông nghiệp, hướng dẫn kỹ
thuật canh tác, chăn nuôi, nuôi trồng theo GlobalGap cho các trang trại. Mặt
khác, các doanh nghiệp và HTX phải bảo đảm chế biến, bảo quản, phân phối,
tiêu thụ nông sản, xây dựng thương hiệu và chiếm lĩnh thị trường. Ba vấn đề

mà các trang trại không thể tự giải quyết là: thị trường và thương hiệu, ứng
dụng công nghệ cao, vốn sản xuất. Ba vấn đề này phải do các doanh nghiệp và
HTX đảm trách. Khi đó, về pháp lý các trang trại có quyền tự chủ kinh doanh,
nhưng trên thực tế, chỉ là đơn vị sản xuất gia công cho các doanh nghiệp, HTX
ở những khâu sản xuất mang tính sinh học.
Do vậy, cần có chính sách đào tạo một đội ngũ doanh nhân, các chuyên
gia kinh tế, kỹ thuật đủ năng lực khởi nghiệp và phát triển các doanh nghiệp và
HTX đóng vai trò “nhạc trưởng” trong chuỗi giá trị của mỗi ngành hàng nông

12


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH

KỶ YẾU HỘI THẢO

sản trên mỗi vùng sinh thái nông nghiệp
Đồng thời, cần có chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tài trợ kinh phí
khuyến nông, tài trợ vốn khởi nghiệp và lãi suất tín dụng cho các dự án ứng
dụng công nghệ cao của các doanh nghiệp và HTX đảm nhiệm vai trò “nhạc
trưởng” trong chuỗi giá trị ngành hàng nông sản.

5. Chính sách hình thành và phát triển thị trường đất nông nghiệp.
Nếu còn áp dụng chính sách đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước có
quyền thu hồi đất đai, đền bù giá trị quyền sử dụng đất theo khung giá do chính
minh quy định, thì không những không tạo lập được thị trường đất đai lành
mạnh và nền nông nghiệp công nghệ cao mà còn tiếp tục tạo ra xung đột xã hội
gay gắt và cơ hội cho tham nhũng đất đai ngày càng trầm kha, bất khả khắc
phục.

Trước mắt, cần bỏ ngay quyền thu hồi, đền bù giá trị quyền sử dụng đất
theo giá quy định của các cấp chính quyền, thiết lập thị trường mua bán “quyền
sử dụng đất”. Nhà nước cần có đất vì mục tiêu lợi ích công cộng hay an ninh
quốc gia, cũng phải mua quyền sử dụng đất hay trưng mua quyền sử dụng đất
của người dân theo giá thị trường.
Dựa trên thị trường đất đai, các nông dân chuyên nghiệp có nhu cầu và
khả năng, có thể mua hoặc thuê lâu dài đất nông nghiệp của những nông dân đã
trở thành thị dân, để tạo lập các trang trại sản xuất nông sản quy mô lớn, ứng
dụng công nghệ cao, tham gia chủ động, tích cực vào chuỗi giá trị ngành hàng,
mà không bị bất kỳ ai ép giá, ép cấp phẩm chất nông sản. Các doanh nghiệp có
nhu cầu và khả năng cũng có thể làm như vậy để tạo ra chuỗi giá trị ngành hàng
nông sản ứng dùng công nghệ cao, quy mô lớn. Nhưng đối với các khâu sản
xuất mang tính sinh học, các doanh nghiệp vẫn cần “khoán” cho các hộ nông
dân thực hiện, mà thực chất là tái lập “các trang trại gia đình, dự phần”
(affiliated farm household) trong chuỗi giá trị do doanh nghiệp tạo dựng và
quản lý. (Lưu ý là trong chuỗi này, các hộ nông dân nhận khoán không phải là
công nhân làm thuê, hưởng lương, mà là chủ các trang trại dự phần, hưởng thu
nhập từ thành quả thực hiện các khâu sản xuất mang tính sinh học do các doanh
nghiệp giao cho).

13


6. Chính sách phát triển sản phẩm nông nghiệp quốc gia theo vùng
kinh tế - sinh thái.
Hiện nay, mỗi tỉnh là một đơn vị kinh tế, mạnh ai nấy làm. Tỉnh nào cũng
muốn tăng trưởng GDP theo hướng nâng cao tỉ trọng giá trị sản xuất công
nghiệp, muốn xây dựng các hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hoàn
chỉnh. Điều đó không chỉ gây lãng phí nguồn lực và cơ hội phát triển, mà còn
tạo ra mâu thuẫn lợi ích giữa các tỉnh. Họ không thể “ngồi lại” với nhau để liên

kết vùng như nhiều người mong đợi.
Do đó, Chính phủ phải vạch ra chiến lược sản phẩm nông nghiệp quốc
gia ở mỗi vùng kinh tế - sinh thái và lập quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng,
phục vụ cho việc thực thi chiến lược sản phẩm đó. Đó chính là giải pháp phát
triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng, theo vùng sinh thái, khắc
phục mâu thuẫn lợi ích giữa các tỉnh trong vùng.
Dựa trên cơ sở đó, các trang trại, HTX và doanh nghiệp trong mỗi vùng
sẽ tổ chức sản xuất – kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị ngành hàng
nông sản, ứng dụng công nghệ cao.
7. Chính sách đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao (R/D)
trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị ngành hàng nông sản ở mỗi vùng
nông nghiệp sinh thái.
Nhà nước tài trợ cho các viện, trường, các doanh nghiệp, HTX có dự án
khả thi trong việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp,
không phân biệt tổ chức đó thuộc nhà nước hay tư nhân.
Hiện nay, chính phủ đã ban hành cả một “rừng” các chính sách khuyến
khích đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhưng việc thực thi không
được bao nhiêu, vì bản thân các chính sách này không mang tính đột phá và
thiếu tính khả thi, vì bộ máy công quyền tham nhũng, xách nhiễu làm nản lòng
các nhà đầu tư, doanh nhân và công dân, các nhà quản trị HTX…
Cần tổng kết đánh giá toàn diện các chính sách phát triển hiện hành để
giải đáp câu hỏi vì sao chúng không được thực thi. Trên cơ sở đó, Chính phủ
hoạch định lại căn bản hệ thống các chính sách phát triển nông nghiệp quốc gia
ứng dụng công nghệ cao để giành thắng lợi toàn diện, bền vững cả về kinh tế –
xã hội và môi trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng và trước các thách thức của biến đổi khí hậu toàn cầu./.

14




×