Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận môn Thị trường lao động: Thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hòa Bình – tỉnh Bạc Liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.49 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
                                                         

Trang
  
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................2
1.Lý do chọn đề tài................................................................................2
2.Mục tiêu nghiên cứu............................................................................2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................3
4.Phương pháp nghiên cứu.....................................................................3
5.Nguồn số liệu.....................................................................................3
6.Kết cấu................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................4
Chương 1:Cơ sở lí luận về vấn đề việc làm...................................4
   1.Việc làm...........................................................................................4
   2 Quan hệ việc làm.............................................................................5
   3 Tạo việc làm....................................................................................6
   4.Ý nghĩa việc làm..............................................................................7
Chương 2:Thực trạng về vấn đề việc làm ở huyện Hòa Bình 
tỉnh Bạc Liêu hiện nay........................................................................8
  1.Khái quát về tình hình kinh tế­ xã hội..............................................8
     1.1. Đặc điểm tự nhiên ....................................................................8
     1.2. Đặc điểm kinh tế.......................................................................9
   2.Thực trạng vấn đề viêc làm.............................................................9
     2.1. Cơ cấu dân số  ...........................................................................9
                2.2. Cơ cấu tuổi lao động................................................................10
     2.3. Chất lượng lao động................................................................10
     2.4. Chất lượng lao động ...............................................................10
     2.5 Hiện trạng đào tạo nghề...........................................................10
                2.6.Thực trạng về việc làm............................................................11
     2.7. Những tồn tại và nguyên nhân...............................................13  


 Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết việc 
làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình....................................14
                 1. Phương hướng,mục tiêu và giải pháp.......................................14
     1.1. Phương hướng, mục tiêu.........................................................14
      1.2 Những giải pháp.......................................................................15
    2..Nhận xét và một số kiến nghị......................................................21
     2.1.Nhận xét....................................................................................21
     2.2.Một số kiến nghị.......................................................................22
PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................23

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 1


PHẦN MỞ ĐẦU
      

1.Lý do chọn chuyên đề :
Vấn  đề   việc   làm  là   một   vấn   đề   hết   sức   quan   trọng   đối   với   mỗi   một   địa  

phương, mỗi quốc gia. Vấn đề  này không những mang tính kinh tế  mà còn mang tính 
xã hội sâu sắc. Vì vậy trong thời gian qua thì vấn đề tạo việc làm cho người lao động  
luôn được sự  quan tâm của Đảng và Nhà nước. Hiện nay thì số  lượng lao động có 
việc làm không ngừng tăng, số  người thất nghệp và thiếu việc làm giảm đi; có sự 
chuyển biến tích cực trong cơ cấu và chất lượng lao động. Nhưng trong toàn quốc thì 
vấn đề  tạo việc làm cho người lao động ở  mỗi địa phương là rất khác nhau bởi còn  
phụ  thuộc vào điều kiện kinh tế  xã hội của các địa phương, các vùng. Do đó không 
phải địa phương nào cũng có kết quả tạo việc làm cho người lao động đều tốt cả.
Tỉnh Bạc Liêu nói chung và huyện Hoà Bình nói riêng mặc dù trong những năm 

gần đây tuy có những kết quả  cao trong công tác tạo việc làm cho người lao động 
nhưng vẫn còn rất nhiều tồn tại. Số lao động được giải quyết việc làm ở  huyện Hoà  
Bình không ngừng tăng qua các năm nhưng tỷ  lệ  người thất nghiệp và người thiếu 
việc làm  ở  nông thôn còn khá cao. Sở  dĩ có kết quả  như  vậy vì huyện Hoà Bình còn  
gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Vì vậy trong  
thời gian tới Huyện uỷ – UBND huyện đưa vấn đề  tạo việc làm cho người lao động  
lên hàng đầu.
Nhận thấy được vai trò của việc tạo việc làm cho người lao động, em xin chọn 
chuyên đề  : “Thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động  ở  huyện  
Hoà Bình – tỉnh Bạc Liêu” làm đề  tài để  tìm hiểu rõ hơn về  thưc trạng việc làm 
nhằm góp  một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết vấn đề việc làm 
cho Huyện nhà.

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 2


    

 2. Mục tiêu nghiên cứu :

           Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu về vấn đề thực trạng việc làm hiện nay tại  
Huyện và những kết quả  đạt được, các cơ  hội cũng như  thách thức  ảnh hưởng đến 
vấn đề việc làm hiện nay ở Huyện Hoà Bình. Đồng thời nêu lên những hạn chế, bất  
cập trong các chính sách nhằm bảo đảm và giải quyết việc làm cho người lao động 
của Nhà nước.Qua đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần nâng cao  
hiệu quả hoat động giải quyết việc làm cho người lao động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc làm và các giải pháp giải quyết việc 

làm ở huyện Hoà Bình trong giai đoạn 2010­2015
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề việc làm ở huyện Hoà Bình
4. Phương pháp nghiên cứu:
Căn cứ vào giáo trình thị trường lao động của PGS.TS.Nguyễn Tiệp
Dựa trên phân tích số liệu của các báo cáo thực tiễn từ  các Doanh nghiệp, báo  
cáo của Phòng Lao động thương binh – xã hội Huyện , Phòng thống kê của huyện về 
việc làm 
5. Nguồn số liệu
Giáo trình thị trường lao động của PGS.TS.Nguyễn Tiệp
Dựa trên các báo tình hình thực hiện phát triển kinh tế ­ xã hội năm 2010 và kế 
hoạch phát triển kinh tế­ xã hội năm 2011 của UBND huyện Hoà Bình.
Niên giám thống kê năm 2010 của chi cục Thống kê huyện Hoà Bình.
 6. Kết cấu
 Phân m
̀ ở đâu
̀
 Phân nôi dung
̀ ̣
1. Chương I:Cơ sở lí luận về việc làm
2. Chương II:Thực trạng việc làm ở huyện Hoà Bình hiện nay
3. Chương III:Giải pháp nâng cao hiệu quả  hoạt  động giải quyết 

việc làm
 Phân kêt
̀ ́
SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 3



         Do kiến thức, tư đuy, thông tin còn hạn hẹp cho nên không tránh khỏi những sai  
sót trong quá trình nghiên cứu. Em kính mong được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy và  
các độc giả quan tâm để em hoàn thành tốt chuyên đề này.

PHẦN NỘI DUNG
   

Chương 1:Cơ sở lí luận về vấn đề việc làm
1. Việc làm
Việc làm là một khái niệm phức tạp, nó gắn với hoạt động thực tiễn của con  

người, vì vậy để  hiểu rõ được khái niệm về  việc làm thì chúng ta phải hiểu rõ khái  
niệm người có việc làm.
Tại Hội nghị lần thứ 13 năm 1983 tổ chức lao động thế giới (ILO) đưa ra quan 
niệm : “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả  công, lợi 
nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt  
động mang tính chất tự  tạo việc làm vị  lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận 
được tiền công hay hiện vật”.
  

Người có việc làm là những người lao động ở  tất cả  các khu vực (công và tư) 

có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân và gia đình, xã hội. Tại nhiều nước trên 
thế giới sử dụng khái niệm này.
Khi điều tra thống kê về lao động và việc làm, khái niệm trên được cụ thể hoá  
bằng các tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mỗi nước trên thế giới đặt ra. Trong đó có 
thể chia ra thành hai nhóm :
Nhóm thứ nhất : Là nhóm có việc làm và đang làm việc, đó là những người đang 
làm bất cứ  công việc gì được trả  công hoặc làm việc trong các trang trại hay cơ  sở 
sản xuất kinh doanh của gia đình.


SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 4


Nhóm thứ  hai : Là những người có việc làm nhưng hiện không làm việc, đó là 
những người có việc làm nhưng hiện tại đang nghỉ ốm hoặc các lý do cá nhân khác.
Những người không thuộc hai nhóm trên được gọi là những người không có  
việc làm.
Theo điều 13 bộ  luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam:  
“Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa 
nhận là việc làm”. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm nếu nó đáp ứng được  
hai tiêu chuẩn :
Thứ nhất, đó là hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm.
Thứ hai, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động.
Việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo cơ  sở  thống nhất trong lĩnh  
vực điều tra nghiên cứu và hoạch định chính sách về việc làm.
Như vậy, việc làm là hoạt động được thể hiện trong ba dạng sau : 
Thứ  nhất, hoạt động lao động để  nhận tiền công hoặc tiền lương bằng tiền  
mặt hay hiện vật.
Thứ hai, hoạt động lao động để thu lợi nhuận cho bản thân.
Thứ  ba, làm công việc cho hộ gia đình của mình, không được trả  thù lao dưới  
mức tiền công, tiền lương cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nhà nước trên ruộng 
đất do chủ  hộ  hoặc một thành viên trong hộ  sở  hữu, quản lý hay có quyền sử  dụng  
hoặc hoạt động kinh tế  ngoài nông nghiệp do chủ  hộ  hoặc một thành viên trong hộ 
làm chủ hoặc quản lý.
Như  vậy khái niệm việc làm được mở  rộng và tạo ra khả  năng to lớn giải 
phóng tiềm năng lao động, tạo việc làm cho người lao động.
Việc làm còn có thể  hiểu là phạm trù để  chỉ  trạng thái phù hợp giữa sức lao 

động và tư liệu sản xuất hoặc phương tiện sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần  
cho xã hội. Theo quan niệm này thì việc làm bao gồm :
Thứ nhất : Là sự biểu hiện của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất.
Thứ hai : Lấy lợi ích vật chất, tinh thần mà các hoạt động đó đem lại, xem xét 
hoạt động đó có phải là việc làm hay không.

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 5


Từ  đó ta có việc làm là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư  liệu sản  
xuất. Sự phù hợp đó thể hiện trên cả mặt số lượng và chất lượng thông qua tỷ lệ giữa  
chi phí ban đầu C và chi phí lao động V. Quan hệ tỷ lệ này phù hợp với trình độ công 
nghệ của sản xuất. Khi trinh độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì quan hệ này cũng thay  
đổi theo.
VL          C/V
Trong đó : VL : việc làm
         C : tư liệu sản xuất
        V: lực lượng lao động.
2. Quan hệ việc làm
Quan hệ  việc làm là quan hệ  xã hội hình thành trong lĩnh vực giải  quyết việc 
làm, bảo đảm việc làm cho người lao động .Quan hệ  việc làm là loại quan hệ  pháp 
luật phức tạp, nó bao gồm cả những yếu tố của quan hệ pháp luật hành chính 
Quan hệ về việc làm bao gồm 3 loại:


Quan hệ về bảo đảm việc làm giữa Nhà nước với người lao động .




Quan hệ về bảo đảm việc làm giữa người sử dụng lao động với người 

lao động.


Quan hệ giữa các tổ chức giới thiệu việc làm với người lao động. 

3. Tạo việc làm:
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra  
trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư  liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ 
theo yêu cầu thị trường.
Vấn đề tạo việc làm cho người lao động là một vấn để  rất phức tạp nhưng là 
rất cần thiết mà mỗi quốc gia, mỗi địa phương luôn phải quan tâm. Việc tạo việc làm 
cho người lao động chịu  ảnh hưởng của không những là nền kinh tế  xã hội mà còn  
chịu  ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác. Vì vậy khi xem xét để  đưa ra chính sách  
tạo việc làm cho người lao động cần phải quan tâm đến rất nhiều nhân tố khác.

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 6


Thực chất của tạo việc làm cho người lao động là tạo ra trạng thái phù hợp  
giữa sức lao động và tư  liệu sản xuất gồm cả  về chất lượng và cả  số  lượng. Chất  
lượng, số lượng của tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, những tiến bộ khoa  
học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất cũng như việc sử dụng và quản lý các tư liệu đó.
Số  lượng lao động phụ  thuộc vào quy mô và cơ  cấu dân số. Chất lượng lao  
động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục và y tế. Ngoài ra vấn đề 
môi trường cho sự kết hợp giữa các yếu tố này là hết sức quan trọng, nó bao gồm các 

chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động cũng như người sử dụng lao động 
trong công việc. Thị  trường lao động chỉ  có thể  được hình thành khi người lao động 
với người sử  dụng lao động gặp gỡ  trao đổi đi đến nhất trí vấn đề  sử  dụng sức lao 
động, do vậy vấn để tạo việc làm phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người 
sử dụng lao động đồng thời không thể không thể kể đến vai trò của Nhà nước.
Người sử  dụng lao động là người chủ  yếu tạo ra chỗ làm việc cho người lao  
động, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư  trong và ngoài nước. Để  có quan hệ 
lao động thì giữa người lao động và người sử dụng lao động phải có những điều kiện 
nhất định. Đó là người sử dụng lao động cần phải có vốn, công nghệ, kinh nghiệm và 
thị  trường tiêu thụ. Còn người lao động cần phải có sức khoẻ, trình độ, chuyên môn, 
kinh nghiệm phù hợp với công việc của mình. Để  có được việc làm được trả  công 
theo ý muốn của mình thì người lao động luôn phải học hỏi, trau dồi kiến thức cho  
mình để theo kịp sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ngoài ra người lao động phải luôn 
tự đi tìm việc làm phù hợp với mình để đem lại thu nhập cho gia đình mình.Tuy nhiên 
khi nói đến quan hệ lao động giữa người lao động và người sử  dụng lao động không 
thể không kể đến vai trò của Nhà nước. Nhà nước quản lý quan hệ lao động bằng các 
chính sách khuyến khích động viên nhằm đem lại lợi ích cho cả hai bên. Nhà nước tạo 
điều kiện thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động để họ phát huy 
tối đa năng lực của mình. Ngoài ra Nhà nước cũng đưa ra các chiến lược đào tạo, phát 
triển nguồn nhân lực, đảm bảo phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý. Vì vậy, khi 
nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân 
là các khu vực có thể tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động. 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 7


Hiện nay việc đầu tư của Nhà nước cũng như của các tư nhân đều tập trung ở 
thành thị  và các khu công nghiệp vì  ở  những nơi này sẽ  tạo ra được tỷ  lệ  lợi nhuận  

cao hơn và có khả năng liên kết với nhau hơn. Chính vì điều này sẽ gây ra hiện tượng  
người lao động từ  nông thôn ra thành thị  và cũng làm tăng tỷ  lệ  thất nghiệp  ở  nông 
thôn, do đó cần phải có chính sách tạo việc làm phù hợp cho cả  người lao động  ở 
thành thị và nông thôn.
4.Ý nghĩa việc làm :
Vào bất cứ thời điểm nào và tại bất cứ nơi nào thì việc tạo việc làm cho người 
lao động là hết sức cần thiết. Người lao động có việc làm không những có lợi cho  
chính bản thân họ  và gia đình đồng thời cũng có lợi cho cả  địa phương và quốc gia.  
Khi một quốc gia có tỷ  lệ  người thất nghiệp cũng như  người thiếu việc làm cao thì  
chứng tỏ  rằng quốc gia đó chưa khai thác và sử  dụng hết nguồn lực của con người  
trong xã hội.
Đối với người thất nghiệp thì họ  không có việc làm nên không có thu nhập do  
đó khiến họ bắt buộc phải đi làm những công việc để  kiếm thu nhập trang trải cuộc  
sống. Đôi khi vì mục đích kiếm tiền mà người lao động đã làm những công việc trái  
pháp luật mà bản chất họ không phải là như  vậy. Còn đối với người thiếu việc làm  
thì họ luôn bị áp lực về kinh tế bởi có mức tiền công thấp và có khả năng bị mất việc 
làm. Hiện nay số người thất nghiệp  ở thành thị  còn tồn tại rất nhiều và đây cũng là  
nguyên nhân chủ  yếu gây ra những tệ nạn xã hội như  mại dâm, ma tuý…Đối với xã  
hội thì thất nghiệp và thiếu việc làm gây ra sự lãng phí nguồn lực xã hội. Thất nghiệp  
không những làm giảm thu nhập của người lao động mà còn làm giảm thu nhập của  
toàn xã hội và xã hội phải bỏ chi phí trợ cấp thất nghiệp do đó đời sống xã hội giảm.  
Thất nghiệp làm thiệt hại cho nền kinh tế, gây khó khăn cho gia đình và xã hội dẫn 
đến tiêu cực trong xã hội. Do đó tạo việc làm là hết sức cần thiết đối với mỗi quốc  
gia và là yêu cầu của phát triển kinh tế.
Tạo việc làm là một chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết những  
vấn đề  xã hội. Mọi người lao động đều có việc sẽ  rút ngắn được khoảng cách giàu  
nghèo trong xã hội làm cho xã hội công bằng hơn. Mặt khác khi có việc làm thì người  

SVTH: Lê Thanh Phúc


Trang 8


lao động an tâm hơn, phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong công việc. Việc  
làm và thu nhập giúp người lao động có điều kiện học hỏi và nâng cao trình độ dân trí, 
chăm sóc sức khoẻ  tốt hơn, nâng cao đời sống tinh thần. Như  vậy nếu tạo việc làm 
cho người lao động sẽ làm cho xã hội ổn định hơn, văn minh hơn.
Tạo việc làm cho người lao động được quan tâm đúng mức sẽ  thúc đẩy nền  
kinh tế phát triển, xoá bỏ tình trạng nghèo đói. Nhưng mỗi quốc gia, mỗi địa phương  
cần phải quan tâm đến điều kiện thuận lợi của mình mà có một chính sách tạo việc  
làm cho phù hợp. Mọi người lao động đều có việc làm chứng tỏ quốc gia đó khai thác 
triệt để nguồn lực con người sẵn có và tạo ra một nền sản xuất phát triển.
Tóm lại thì tạo việc làm cho người lao động không những có lợi cho chính bản  
thân người lao động mà còn thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Tạo việc làm cho  
người lao động góp phần ổn định xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước  
đi lên trong xu thế hội nhập.

Chương 2 :Thực trạng về  vấn đề  việc làm  ở  huyện Hoà Bình tỉnh 
Bạc Liêu hiện nay
1. Khái quát về tình hình kinh tế ­xã hội của huyện Hoà Bình :
1.1.  Đặc điểm tự nhiên
Huyện Hoà Bình là một huyện thuần nông của tỉnh Bạc Liêu có diện tích tự 
nhiên là 412,19 Km2; là huyện nằm sát Biển đông vùng đất cực Nam của tổ  quốc; là  
vùng đất trẻ, bằng phẳng được thiên nhiên ưu đãi, ít bị  thiên tai lũ lục.Với hệ  thống  
giao thông thuỷ, bộ được nâng cấp, mỡ rộng nối liền huyện tới tất cả các xã, và các  
vùng miền trong cả nước; có quốc lộ  1A chạy qua dài 12 km tạo thành hai vùng sản  
xuất rỏ rệt ( phía Bắc quốc lộ 1A­ trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi gia súc, gia cấm;  
Nam quốc lộ 1A­ nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản).
Hoà Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa   rỏ  rệt mùa 
mưa và mùa khô ( mùa mưa từ tháng 05 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến 04)

1.2. Đặc điểm kinh tế:
 

Theo báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội năm 2010 

của UBND huyện Hoà Bình tỉnh Bạc Liêu  tại cuộc họp tổng kết cuối năm 2010 ngày 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 9


05/01/2011, mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức về thời tiết, dịch bệnh gây  
hại trên lúa nhưng trong năm 2010 nền kinh tế trong huyện vẫn tiếp tục phát triển với  
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12%, gấp gần 1,3 lần tốc độ  tăng trong năm 2009. Thu 
nhập bình quân đầu người đạt 18.000.000đ/ năm. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở 
hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế  then chốt: Giá trị  sản xuất nông, lâm, ngư 
nghiệp và thủy sản đạt 1.432 tỷ  đồng, đạt 102% so với kế  họch , tăng 6,7% so với  
cúng kỳ. Nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản tiếp tục phát triển khá, các tiến bộ khoa học kỷ 
thuật được áp dụng vào sản xuất, tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thuỷ  sản là  
29.000 tấn, đạt 108,5% so với kế hoạch, tăng 1,85% so với cúng kỳ. Giá trị  sản xuất 
công nghiệp tăng 28% so với năm 2009.
   

Tuy nhiên, tình hình phát triển  kinh tế  của Huyện vẫn còn tồn tại nhiều khó  

khăn vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài. Diễn biến thời tiết, dịch bệnh hết sức  
phức tạp, gia cả  hàng hoá tăng cao, sản xuất nông nghiệp còn nhiều rủi ro, có tăng 
trưởng nhưng chưa bền vững ; sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp về qui mô, 
trang thiết bị, trình độ  kỹ  thuật còn hạn chế  Chất lượng, hiệu quả  tăng trưởng hạn  

chế. Những khó khăn, thách thức đó đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống 
dân cư.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được triển khai tích cực nhằm  ổn  
định và nâng cao đời sống nhân dân. Các giải pháp hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất 
kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập đã được coi trọng. Các đối tượng cứu trợ  xã 
hội được hưởng chính sách trợ giúp thường xuyên như: hỗ  trợ  xây dựng và sửa chữa 
nhà ở, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí và những hỗ trợ khác.
2.Thực trạng vấn đề việc làm ở huyện Hoà Bình hiện nay
2.1.Cơ cấu dân số ở huyện Hoà Bình:
 Theo số liệu điều tra của Chi cục thống kê huyện hoà Bình cuối năm 2010, dân 
số trong toàn huyện là 108.214 người.Trong đó Thành thị là 20.833 người, Nông thôn là 
87.381 người. Trong đó gồm có 03 dân tộc chính là Kinh, Khơme, Hoa sống đan xen  
nhau   (   trong   đó   Kinh   93.774   người,   chiếm   87,07% ;   Khơme   13.277   người,   chiếm 
12,33% ; Hoa 581 người chiếm  0,54%)   

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 10


2.2.Cơ cấu dân số theo tuổi lao động:
 Lao động trong độ tuổi của huyện cuối năm 2010 là 66.293 người chiếm 61.56%  
tổng dân số. Trong đó lao động nữ  chiếm 52,13% bằng 34.561 người, nguồn lao động  
trẻ  chiếm tỷ  trọng cao trong tổng số người trong độ  tuổi : Nhóm tuổi từ  16­20 chiếm 
21,13% ; nhóm tuổi từ  21­35 tuổi chiếm 43,16%. Đây vừa là lợi thế, vừa là thách thức  
đối với huyện trong việc sử dụng và đào tạo việc làm cho nông thôn.
2.3.Trình độ học vấn của lao động :
Trong những năm gần đây, trình độ  học vấn nguồn lao động của huyện được 
nâng cao, tỉ  lệ  lao động trong độ  tuổi lao động  không biết chữ  (mù chữ) và chưa tốt 
nghiệp tiểu học gỉam dần; năm 2005 tỉ  lệ  mù chữ  của người lao động trong độ  tuổi là 

1,39%, thì đến năm 2010 chỉ  còn 0,88% ; tỷ  lệ  chưa tốt nghiệp tiểu học  năm 2005 là  
15,32%, đến năm 2010 giảm còn 9,6%. Tỷ lệ nguồn lao động tốt nghiệp tiểu học , trung  
học cơ sở , trung học phổ thông đều có mức tăng cao, tỷ lệ tốt nghiệp các bật học năm  
2005 tương ứng với từng cấp là : tiểu học 35,89%, trung học cơ sở 35% và THPT 12,3% 
thì đến năm 2010 tiểu học 38,25%, trung học cơ  sở  38% và trung học phổ  thông là 
13,27%.
2.4. Chất lượng lao động của Huyện :
  Cơ cấu nguồn lao động của huyện đến năm 2010 thì tỷ trọng lao động chưa qua  
đào tạo chiếm 67,39%, được đào tạo nghề  chiếm 24,71%. Trong đó trung cấp chuyên 
nghiệp 3,9%, cao đẳng 1,31%, đại học chiếm 2,69%. Như vậy tỷ trọng nguồn lao động  
chưa qua đào tạo chiếm tỷ  trọng cao, nguồn lao động qua đào tạo chưa đáp  ứng mối 
tương quan với nhu cầu sản xuất, dịch vụ của huyện. Số lao động có trình độ  cao tập  
trung chủ yếu trong ngành giáo dục, y tế và quản lý nhà nuớc trên 1.900 người.
2.5. Hiện trạng đào tạo nghề của Huyện :
Trên địa bàn huyện có một trung tâm dạy nghề, một trung tâm giáo dục thường  
xuyên, một chi nhánh trường trung cấp nghề STC và trên 70 cơ sở doanh nghiệp tư nhân  
sản xuất cá thể  (dạy nghề theo hình thức kèm cặp). Lao động được đào tạo nghể  trên  
địa bàn huyện những năm qua tập trung trong việc thực hiện các chương trình, dự án tập 
huấn ngắn ngày trong lĩnh vực cây trồng, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản  ; trung tâm dạy 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 11


nghề  huyện và một số cơ  sở  sản xuất chỉ  tạo được một số  nghề  như :May dân dụng, 
sữa chữa xe máy. Việc đào tạo nghề trong các nhóm nghề trên chỉ tạo việc làm cho một 
số  lao động, chưa đáp  ứng được nhu cầu đào tạo theo các nhóm ngành nghề  thực tế 
đang cần tại địa phương trong các chương trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp 
sạch và một số ngành có trình độ công nghệ cao. Việc đào tạo nghề của các cơ sở nghề 

chưa có sự  liên kết chặt chẽ  với các cơ  sở, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh…  
dẫn đến việc đào tạo nghề  cho lao động chưa phù hợp nên không tìm được việc làm,  
chưa đáp  ứng được nhu cầu lao động theo trình độ    so với yêu cầu về  trình độ  công  
nghệ và chưa đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hoá­ hiện đại hoá hiện nay.
2.6.Thực trạng  việc làm ở huyện Hoà Bình :
Dân số trong độ tuổi lao động là 66.293 người, trong đó có 65.219 người có khả 
năng lao động (chiếm 98,38%) trong đó có việc làm thường xuyên 54.093 người( chiếm 
81,59%), có việc làm nhưng không thường xuyên 4.567 người( chiếm7%), không có 
việc làm 1.173 người( chiếm1.77%).
Số lao động đang làm việc :54.093 người.
+ Thuỷ sản: 20.042 người, chiếm 37,05%;
+ Nông – Lâm nghiệp: 16.636 người, chiếm 30,35%;
+ Công nnghiệp – Xây dựng: 6.401 người, chiếm 11,83%;
+ Thương mại – Dịch vụ: 7.109 người, chiếm 13,14%;
+ Lĩnh vực khác: 3.905 người, chiếm 7.21%;
Nhìn chung thực trạng việc làm của lao động củ  yếu là Thuỷ  sản, Nông – Lâm 
nghiệp, tỷ lệ lao động có việc làm không ổn định và có việc làm theo mùa vụ khá cao.
Với sự cố gắng của UBND huyện Hoà Bình, các đơn vị  đoàn thể, toàn thể  nhân  
dân, các nhà đầu tư…thì qua các năm qua huyện Hoà Bình đã giải quyết được nhiều 
việc làm cho người lao động. Nhưng trong huyện vẫn còn rất nhiều lao động chưa có  
việc làm và còn rất nhiều lao động thiếu việc làm. 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 12


Bảng 1: Số lao động dư thừa ở huyện Hoà Bình qua các năm.
(ĐVT : người)
Số LĐ có 


Năm

Dân số

Số LĐ có 

việc làm 

khả năng 

trong các 



thành phần 
kinh tế

2006

Số LĐ có 
việc làm 
nhưng 

Số LĐ có 

không 

việc làm


thường 

103.14

63.420

53.174

xuyên
7.890

104.25

64.274

54.275

8.123

1.876

105.69

65.074

54.841

8.670

1.563


106.83

65.219

54.790

9.324

1.105

108.21

66.104

55.721

9.878

505

2.356

0
2007
5
2008
7
2009
5

2010

4
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Hoà Bình  giai đoạn 2006­2010)
Từ  những số  liệu trên cho thấy mặc dù số  lao động có khả  năng lao động của  
huyện Hoà Bình tăng qua tất cả  các năm, nhưng số  luợng người lao động có việc làm 
không  ổn định cũng tăng theo và số  lượng người   không có việc làm có giảm nhưng 
không đáng kể . Lượng lao động dư thừa này chủ yếu ở khu vực nông thôn, vì điều kiện 
tìm chỗ làm việc là khó khăn mà chủ yếu họ tập chung vào việc trồng trọt và chăn nuôi. 
Thời gian làm việc của họ mang tính mùa vụ do đó xảy ra tình trạng thiếu việc làm cho 
lao động ở nông thôn. Do trong những năm gần đây huyện Hoà Bình đã có nhiều chuyển 
đổi trong những ngành kinh tế  mà tạo thêm được nhiều việc làm cho lao động trong 
huyện, giảm số lao động dư thừa. Từ năm 2006 – 2010 thì trên địa bàn huyện Hoà Bình  
có nhiều Doanh nghiệp tư nhân kinh doanh Thuỷ sản  được đầu tư và đi vào hoạt động  
vì vậy đã tạo việc làm cho một số lao người lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn, 
do đó mà số lao động nhàn rỗi được giảm mạnh hàng năm. Mặt khác thì bản thân ngành  
SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 13


nông nghiệp cũng có sự thay đổi về cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, thị trường hoá  
ngành nông nghiệp do đó giảm tỷ lệ thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp.
Như  vậy thì mặc dù số lao động dư  thừa và số  lao động không có việc làm qua  
các năm có giảm nhưng cũng không đáng; Việc này là một tồn tại rất lớn ở huyện Hoà  
Bình. Chúng ta cần phải có một chương trình tạo việc làm cho người lao động mà trước 
hết là lao động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn.
Qua bảng số liệu trên cho thấy số lao động được giải quyết việc làm mới tăng 
dần qua các năm: năm 2007 tạo được việc làm cho 713   người;   năm 2008 tạo được 
việc làm cho 860 người ; năm 2009 là 1.112 người; nhưng đến năm 2010 là 1.154 người.  

Điều này chứng tỏ công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình đã ngày  
càng đạt được nhiều thành công. Đó là sự cố gắng của toàn thể các ban ngành, đoàn thể 
và sự ủng hộ của toàn bộ nhân dân huyện Hoà Bình .
2.7. Những tồn tại và nguyên nhân:
Dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ­ UBND huyên, bằng những quyết tâm và những 
việc làm cụ thể của các cấp, ban ngành đã sắp xếp được số lượng việc làm tương đối 
cao. Góp phần giảm áp lực đáng kể  nhu cầu bức xúc của lao động việc làm trong 
huyện, tạo lập được việc làm tương đối bình ổn, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân  
từng bước được nâng cao. Tuy nhiên vẫn còn gặp những khó khăn, tồn tại như sau : 
Do đặc điểm và tính chất của nông nghiệp, cho nên lao động trong khối nông 
nghiệp còn có những hạn chế nhất định như  trình độ thấp, tính thời vụ, chủ  yếu là lao  
động phổ thông, chưa qua đào tạo và có đào tạo trong thời gian rất ngắn, nên tay nghề 
chưa cao, người lao động chưa bắt nhịp được với nhịp sống công nghiệp, sản phẩm làm  
ra chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, dẫn đến thu nhập thấp. 
Chúng ta chưa có trung tâm đào tạo nghề quy mô tiêu chuẩn nên số lượng lao động đào  
tạo chưa nhiều, chất lượng đào tạo còn chưa cao.
Số  lao động được đào tạo chưa nhiều, số  lao động có trình độ  chuyên môn còn 
rất thấp vì thế gây khó khăn trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Số lao động  
được giải quyết việc làm của huyện thấp hơn số lao động có nhu cầu cần được giải  
quyết việc làm. Số lao động ở nông thôn còn chiếm tỷ lệ khá cao.

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 14


Các ngành nghề ở địa phương chưa được đầu tư  chiều sâu, quy trình công nghệ 
không được đổi mới, sự  áp dụng khoa học kỹ  thuật vào trong sản xuất còn hạn chế,  
chưa phục vụ tốt cho người lao động trong công việc.
Công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, công ty TNHH, công ty cổ phần  

còn lỏng lẻo dẫn đến việc đào tạo và tuyển dụng còn bị  động, chưa có kể  hoạch kết 
hợp giữa đào tạo và tuyển dụng. Ngoài ra người lao động chưa được đảm bảo quyền 
lợi tối đa như việc đảm bảo chế độ  BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, người thất  
nghiệp chưa được quan tâm nhiều.
Việc dịch chuyển cơ  cấu kinh tế  mặc dù có sự  tiến chuyển mạnh nhưng vẫn 
chưa kéo theo được sự  dịch chuyển cơ cấu lao động nhiều. Vấn đề  đào tạo nghề  cho  
người lao động mới chỉ là trên phương diện số lượng mà chưa gắn với nhu cầu về lao 
động của các ngành nghề, các thành phần kinh tế.
Ngân sách cho vấn đề  tạo việc làm cho người lao động mặc dù có tăng trong  
thời gian vừa qua nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết được việc làm cho nhiều lao động 
trong huyện. Ngoài ra các cán bộ  làm công tác quản lý và tạo việc làm cho người lao  
động chưa được coi trọng cả về số lượng và chất lượng.
Cơ sở hạ tầng trong huyện Hoà Bình có chất lượng chưa cao. Việc áp dụng khoa  
học kỹ thuật vào trọng đời sống và sản xuất tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn lạc 
hậu. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong tiểu thủ công nghiệp vẫn dùng 
lao động chân tay là chủ yếu, vì vậy mà người lao động làm việc vất vả mà năng suất 
lại không cao.
Người lao động trong huyện vẫn còn tự tìm việc làm cho mình là chủ yếu, không  
thông qua những trung tâm tư  vấn việc làm, không trông chờ  vào Nhà nước. Phương  
hướng hàng năm của các cấp ngành về  vấn đề  giải quyết việc làm chưa được đề  cập  
đúng vị trí. 
Chính vì thế mà trong thời gian gần đây chúng ta cần phải có phương hướng tạo 
việc làm cho người lao động phù hợp hơn, giải quyết việc làm cho người lao động 
trong huyện, đặc biệt là lao động nông thôn.

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 15



  Chương  3:   Giải   pháp  nâng  cao  hiệu  quả   giải  quyết  việc  làm   cho 
người lao động tại huyện Hoà Bình
1. Phương hướng, mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm trong giai đoạn 
2011­2015:
1.2. Phương hướng, mục tiêu :
Năm 2011 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X: 
Tập trung xây dựng, quy hoạch, kế hoạch, lộ trình cụ thể thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ 
chỉ tiêu năm 2011 và những năm tiếp theo. Tăng cường các giải pháp chỉ đạo, điều hành,  
huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá cao, 
hiệu quả, bền vững gắn với việc xây dựng nông thôn theo Quyết định số 491 của Thủ 
tướng chính phủ; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, 
giới thiệc việc làm, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 
Đảm bảo các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế 13%; thu nhập bình quân đầu người 23  
triệu đồng/ năm; tổng vốn đầu tư  sản xuất 1.444 tỉ đồng; giá trị  sản xuất đạt 2.858 tỷ 
đồng, trong đó giá trị  nông nghiệp đạt 1.504 tỷ  đồng tăng 5%; giá trị  công nghiệp, xây  
dựng 948 tỷ đồng, tăng 21%; giá trị thương mại, dịch vụ đạt 406 tỷ đồng tăng 18%.
Để  đạt được các chỉ  tiêu trên thời gian tới mục tiêu giải quyết việc làm cho 
người lao động được  đặt lên hàng đầu. Bằng nhiều hướng khác nhau để  mỡ  rộng quy  
mô, tăng nhanh số  lượng được đào tạo nghề; từng bước nâng cao chất lượng và hiệu  
quả đào tạo nhằm tạo việc làm, từng bước giảm dần tỷ lệ thất nghiệp, giải quyết việc  
làm tại chỗ  cho lao động nông thôn, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần  
chuyển dịch cơ cấu  lao động và cơ  cấu kinh tế, phục vụ  sự  nghiệp công nghiệp hoà,  
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở địa phương. 
Biểu 2 : Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình 
giai đoạn 2011 ­ 2015 :

Năm
2011

Tổng số việc 

làm
4.000

SVTH: Lê Thanh Phúc

Do phát triển kinh tế, 
chuyển đổi cơ cấu (đv :  
người)
3.800

Do công ty cổ phần, 
công ty TNHH (đv: người)
        1.200
Trang 16


2012
4.000
2.650
1.350
2013
4.000
2.550
1.450
2014
4.000
3.200
1.800
2015
4.000

2.800
2.200
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Hòa Bình giai đoạn 2011 ­ 2015)
Để  đạt được mục tiêu trên, giảm bớt được những khó khăn, nguyên nhân gây  
cản trở việc tạo việc làm cho người lao động ở  huyện Hoà Bình thì trong thời gian tới  
chúng ta có những giải pháp cụ thể.
1.2. Những giải pháp tạo việc làm cho người lao động  ở  huyện Hoà Bình  
trong thời gian tới
Trong thời gian tới chúng ta có nhiều giải pháp để  tạo điều kiện thuận lợi cho 
việc tạo việc làm cho người lao động. Chúng ta cần kết hợp những giải pháp này để 
cho người lao động trong huyện Hoà Bình có đủ  việc làm, nâng cao thu nhập, giúp xoá 
đói giảm nghèo. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu :
1.2.1. Chính sách của địa phương
Trong thời gian tới chính sách của huyện Hoà Bình là phải gắn thực hiện chương 
trình phát triển kinh tế  với chương trình việc làm thì việc chuyển dịch cơ  cấu nông 
nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ  công nghiệp và đầu tư  xây dựng cơ  bản – dịch vụ 
thương mại có nghĩa là cơ cấu đầu tư vốn vào lĩnh vực này cũng thay đổi, sẽ tạo dựng  
được những bước chuyển biến tích cực trong lĩnh vực việc làm. Chúng ta cần phải có 
một chương trình phát triển kinh tế  sao cho cân đối về  lực lượng lao động giữa các  
ngành với nhau, không để  tình trạng có ngành thừa lao động nhưng có ngành lại khó 
khăn khi tìm lao động.
Trong thời gian tới mục tiêu cơ  cấu nông nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ  công  
nghiệp – dịch vụ, thương mại đạt tỷ  lệ  18,9% ­ 57,6% ­ 23,5%. Bình quân đầu người 
đạt trên 1.000USD/ người/ năm. Như  vậy trong thời gian tới chúng ta tăng tỷ  trọng 
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại. Đây là cách tốt nhất để 
phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động  ở  huyện Hoà Bình vì lực 
lượng lao động trong nông nghiệp của huyện hiện nay nhàn dỗi rất nhiều, do đó việc 
phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ  công nghiệp, thương mại dịch vụ  sẽ góp phần  
giải quyết việc làm cho lượng lao động này. Ngoài ra việc tăng tỷ  trọng ngành công  
SVTH: Lê Thanh Phúc


Trang 17


nghiệp, tiểu thủ  công nghiệp, thương mại, dịch vụ  cũng phù hợp với xu hướng phát  
triển của đất nước .
Mặt khác chính sách của địa phương trong thời gian tới phải quan tâm hơn đối  
với người lao động, tạo những cơ  hội cho người lao động có thể  tự  tạo việc làm cho 
chính bản thân mình như  cho vay vốn với lãi xuất thấp… và phải quan tâm đến người  
lao động thiếu việc làm và thất nghiệp trong huyện hơn như  trợ  cấp, giới thiệu việc  
làm. Ngoài ra cần phải chú trọng đến việc kiểm tra giám sát việc đảm bảo quyền lợi  
cho người lao động như việc đóng  BHXH, BHYT, BH thất nghiệp cho người lao động,  
đảm bảo thời gian làm việc theo đúng tiêu chuẩn ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất  
là các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn huyện. Để  giải quyết việc làm cho nhiều lao  
động thì chúng ta cần phải tập trung đến những chương trình tạo việc làm cho người 
lao động hơn cũng như nâng cao chất lượng của các cán bộ chuyên trách về lĩnh vực lao 
động việc làm. Có như vậy thì công tác tạo việc làm cho người lao động ở  huyện Hoà  
Bình mới thành công hơn, người lao động trong huyện đỡ vất vả hơn.
1.2.2. Biện pháp trong nông nghiệp
Trong thời gian tới,  ở  huyện Hoà Bình phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông 
nghiệp toàn diện.Vì ngành nông nghiệp của huyện Hoà Bình hiện nay gặp nhiều khó  
khăn như  diện tích đất canh tác giảm, nhưng người lao động làm việc trong ngành này 
lại nhiều, đây là áp lực rất lớn trong công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện  
Hoà Bình nhất là lao động trong nông nghiệp. Do đó trong thời gian tới chúng ta phải có  
các biện pháp như: khai thác chiều sâu của đất, thâm canh, tăng vụ, tạo ra nhiều giống 
mới…để tạo ra nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn, tạo thu nhập cho người nông  
dân.
Ngành nông nghiệp huyện Hoà Bình còn lạc hậu nên trong thời gian tới phải đầu 
tư  vốn để  phát triển kết cấu hạ  tầng cơ  sở trong nông thôn. Đẩy nhanh tiến bộ  khoa  
học kỹ thuật công nghệ trong nông nghiệp, từng bước cơ giới hoá từng khâu sản xuất,  

chuyển đổi cơ  cấu vật nuôi theo hướng năng suất cao, tăng vụ, tăng diện tích cây vụ 
đông, tăng cường công tác khuyến nông bảo vệ  thực vật. Thực hiện bê tông hoá kênh 
mương. Chúng ta cần có kế  hoạch sử  dụng quỹ  đất, mặt nước cho hợp lý, không để 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 18


người lao động ngồi chơi mà đất đai mặt nước bỏ  không sử  dụng. Ngoài ra cần phải 
chú trọng đến việc thị trường hóa nông nghiệp, phải có phương hướng trồng trọt, chăn  
nuôi không những đáp  ứng đủ  nhu cầu của người dân trong huyện mà còn có thể  đem  
bán ở những địa phương khác. Có thực hiện các biện pháp trên thì người lao động trong 
nông nghiệp làm việc nhàn hạ  hơn, có nhiều việc làm hơn, giảm bớt lượng lao động 
thiếu việc làm trong nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo trong nông thôn. Huyện Hoà Bình 
là huyện làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản là chủ yếu nên chúng ta cần phải khai 
thác triệt để thuận lợi trong nông nghiệp để tạo việc làm cho người nông dân.
1.2.3. Biện pháp trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản
Hiện nay số lao động làm việc trong ngành công nghiệp,tiểu thủ  công nghiệp ở 
huyện Hoà Bình ngày càng tăng, điều này chứng tỏ  việc phát triển ngành này sẽ  hứa 
hẹn rất nhiều trong việc tạo việc làm cho người lao động. Nhất là khi ngành nông 
nghiệp tuy có phát triển nhưng còn bị hạn chế bởi diện tích canh tác có hạn thì việc phát 
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong những năm tới là mục tiêu hàng đầu trong 
việc phát triển kinh tế  huyện Hoà Bình đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho người  
lao động trong huyện.
Trong năm 2011 huyện Hoà Bình đặt ra mục tiêu phát triển công nghiệp, tiểu thủ 
công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 28%; giá trị sản xuất đạt 781 tỷ đồng. Để đạt được  
mục tiêu trên thì trong những năm tới chúng ta phải ưu tiên phát triển công nghiệp, đầu  
tư kết cấu cơ sở hạ tầng; quy hoạch khu công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị. Phải có 
chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế  vào đầu tư  vào phát triển như  việc  

giảm thuế... Tạo môi trường đầu tư  thông thoáng như  thủ  tục cấp giấy phép, cấp đất, 
công tác đền bù, giải toả, bàn giao đất cần phải làm nhanh, gọn, rút ngắn thời gian chờ 
đợi đầu tư của doanh nghiệp để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Để hỗ trợ 
ngành nông nghiệp đang rất khó khăn thì trong thời gian tới chúng ta cần phải  ưu tiên  
cho những dự án hàng chế biến nông sản thực phẩm. Nhưng việc tiếp nhận dự án đầu  
tư  không nên vội vàng mà phải xem xét tới vấn đề  đảm bảo vệ  sinh môi trường để 
không ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân. Hiện nay việc phát triển công nghiệp trên địa  
bàn huyện đang là phương hướng hàng đầu trong việc giải quyết việc làm cho hàng 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 19


nghìn lao động  ở  huyện Hoà Bình , thể  hiện  ở  số  lao động làm việc tại các doanh  
nghiệp, các công ty cổ phần và công ty TNHH ngày càng tăng. Nhưng việc giải quyết 
việc làm cho những lao động nhàn dỗi trong khu vực nông nghiệp thì không thể  thiếu  
đến các cơ sở tiểu thủ công nghiệp ở cơ sở. Vì thế trong thời gian tới chúng ta phải tập 
trung đầu tư các chương trình phát triển kinh tế, chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu  
thủ  công nghiệp  ở  cơ  sở; khôi phục và phát triển các ngành nghề  truyền thống như  : 
chạm gỗ, làm thảm chiếu cói, mây tre đan xuất khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm, trợ 
giúp, tìm đầu ra cho sản phẩm, trợ  giúp vốn, đào tạo nghề  cho người lao động. Việc 
khôi phục những làng nghề truyền thống vừa giúp tạo việc làm cho lao động nhàn dỗi ở 
nông thôn, tăng thêm thu nhập vừa mang tính bản sắc dân tộc sâu sắc. Do đó dù có phát 
triển kinh tế đến mức nào thì chúng ta cũng không thể bỏ qua những nghề truyền thống  
của quê hương.
Về lĩnh vực xây dựng cơ bản, huyện Hoà Bình trong thời gian tới phải đẩy mạnh 
tiến độ  thi công những công trình được giao như  việc xây dựng công trình bệnh viện, 
bãi rác của huyện, công trình bờ  kè kinh sáng Bạc Liêu – Cà Mau  đoạn Thị  Trấn Hoà  
Bình, công trình phòng học, Chợ  Hoà Bình, Trung tâm thương mại Hoà Bình, và các  

công trình Tỉnh, Trung ương làm chủ đầu tư trên địa bàn huyện …Vấn đề  xây dựng cơ 
bản là vấn đề  phải được quan tâm đầu tiên vì nó sẽ  góp phần to lớn trong vấn đề  thu  
hút những nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư, do đó sẽ góp phần vào việc phát triển  
kinh tế, tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình.
1.2.4. Giải pháp về dịch vụ, thương mại
Vấn đề  dịch vụ  thương mại  ở  huyện Hoà Bình trong thời gian qua chưa được  
chú trọng mạnh, vì vậy trong thời gian tới cần phải mở rộng mạng lưới thương mại –  
dịch vụ từ thôn đến xã, huyện. Hiện nay quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá không 
thể  không nói đến việc phát triển của dịch vụ  thương mại, ngoài ra lĩnh vực này đang  
thu hút rất nhiều lao động vì vậy việc phát triển dịch vụ  thương mại sẽ tạo rất nhiều  
việc làm cho người lao động. Vì vậy trong thời gian tới huyện Hoà Bình phải quy hoạch 
và xây dựng các chợ cụm dân cư; thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các 
hoạt động thương mại dịch vụ. Ngoài ra cần phải nâng cao chất lượng hoạt động của  

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 20


các dịch vụ  bưu chính viễn thông, chú trọng đến chất lượng hoạt động của hệ  thống  
bưu điện văn hoá xã. Khi khu công nghiệp Vĩnh Mỹ  B được hình thành thì dịch vụ 
thương mại cũng được phát triển theo, đòi hỏi công tác dịch vụ thương mại phải được  
chuẩn bị  tốt, đáp  ứng nhu cầu của doanh nghiệp và cán bộ  công nhân viên trong toàn 
huyện. Việc phát triển của dịch vụ  thương mại không những làm cho việc sinh hoạt  
của người dân trong khu vực được dễ dàng hơn mà còn thu hút một lượng lớn lao động 
làm việc trong lĩnh vực này. Để  hoạt động dịch vụ thương mại hoạt động tốt thì trong 
thời gian tới phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động thương 
mại. Chất lượng dịch vụ thương mại tại địa bàn huyện ta còn nhiều yếu kém, bất cập,  
nhất là công tác văn minh thương nghiệp, chất lượng phục vụ cần phải có những bước  
chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa. 

Ngoài ra để  giúp đỡ  tích cực cho vấn đề  phát triển nền kinh tế  của huyện Hoà  
Bình thì hoạt động tài chính tín dụng phải phát triển mạnh để  tạo nguồn vốn để  hoạt 
động sản xuất kinh doanh.Vốn là điều kiện tiên quyết đến vấn đề  phát triển kinh tế.  
Nhưng người lao động lại thiếu vốn trầm trọng để  phát triển kinh tế, để  tạo việc làm 
cho bản thân và gia đình. Vì thế  trong thời gian tới thì hoạt động về  tài chính tín dụng  
đóng một vai trò rất quan trọng. Để tạo điều kiện cho người lao động có thể phát triển  
kinh tế  thì trong thời gian tới các ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ 
nông dân và doanh nhân vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, kịp thời với cơ hội đầu 
tư, thời vụ. Phải chú trọng phát triển các quỹ tín dụng nhân dân tại 7xã, thị trấn để nắm  
bắt được nhu cầu vay vốn, mục đích đầu tư, hiệu quả  đầu tư  được xác thực. Tránh  
việc cho người lao động vay nặng lãi.
Cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ  thống ngân hàng trong toàn huyện. Chú trọng  
việc tiếp nhân dân đến vay vốn được tốt hơn. Ngoài ra chúng ta cần phải có chính sách  
thu hút sự hình thành của các loại hình ngân hàng để tạo điều kiện cho người lao động  
vay vốn và tạo chỗ làm cho lao động trong huyện.
Như vậy để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bìnhthì  
trong thời gian tới chúng ta phải chú trọng đến vấn đề  phát triển thương mại dịch vụ 
hơn.
1.2.5. Giải pháp về giáo dục ­ đào tạo hướng nghiệp:
SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 21


Một nguyên nhân quan trọng nhất gây khó khăn cho việc tạo việc làm cho người  
lao động ở huyện Hoà Bình chính là bản thân người lao động. Lực lượng lao động của 
huyện Hoà Bình rất dồi dào nhưng trình độ  của người lao động lại rất thấp. Vì vậy 
trong thời gian tới cùng với các chính sách phát triển kinh tế xã hội thì công tác giáo dục 
và hướng nghiệp là rất quan trọng.
Trong thời gian tới chúng ta cần phải giữ  vững những thành tích đã đạt được 

trong những năm qua  ở  các cấp tiểu học, THCS, THPT để  xây dựng bước khởi đầu  
vững chắc trong việc phát triển trình độ chuyện môn cho người lao động.
Vì việc đào tạo nghề  của chúng ta chưa gắn liền với nhu cầu lao động trên thị 
trường, vì vậy cần phải tổ  chức những hoạt động dịch vụ  tư  vấn giới thiệu việc làm, 
định hướng có chọn lọc các ngành nghề cho phù hợp với trình độ chuyên môn, trình độ 
văn hoá. Mở các khoá đào tạo nghề tại huyện, trực tiếp tại các xã, thị trấn, đặc biệt là 
các ngành nghề truyền thống để tạo việc làm cho người lao động nhàn dỗi ở nông thôn; 
tổ chức các đoàn đi thực tế tham quan, khảo sát, học tập  ở những địa phương, cá nhân 
có cách làm hay, điển hình về làm kinh tế.
Trong thời gian tới thì hình thức xuất khẩu lao động đi làm việc tại nước ngoài 
hứa hẹn nhiều thành công. Vì vậy chúng ta cần phải nâng cao chất lượng của người lao  
động bằng các hình thức như đào tạo tại cơ sở hoặc gửi đi học ở  những trung tâm, địa 
phương khác để khai thác hình thức xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Hiện nay thì số học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng của huyện ta không 
ngừng tăng lên qua các năm nhưng số sinh viên ra trường về làm việc tại địa phương thì 
lại rất ít. Vì thế trong thời gian tới cần phải có chính sách thu hút người tài, lao động có 
trình độ  chuyên môn không những  ở  địa phương mà còn  ở  các địa phương khác, tránh  
tình trạng chảy máu chất xám  ở  huyện Hoà Bình. Có thể  thu hút lao động có trình độ 
chuyên môn cao bằng nhiều cách như khuyến khích tài chính, khuyến khích tinh thần…
Do đó trong thời gian tới thì huyện Hoà Bình phải chú ý đến vấn đề  này khi ra chính 
sách về việc làm.
Trình độ  của người lao động không những quyết định đến vấn đề  tiền lương,  
tiền công của người lao động mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tạo việc làm 
cho người lao động. Vì vậy mà huyện Hoà Bình đang tiếp tục đề  nghị  tỉnh xây dựng  
SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 22


trung tâm đào tạo nghề tại trung tâm huyện. Điều này hứa hẹn một lực lượng lao động  

có trình độ trong tương lai.
1.2.6. Phối hợp chương trình việc làm với các chương trình khác
Như  chương trình xoá đói giảm nghèo, chính sách người có công với nước, các 
phong trào đoàn thể  như: Thanh niên, Phụ  Nữ, Hội Nông dân tập thể, hội cựu chiến  
binh… để  tạo điều kiện cho công tác tạo việc làm cho người lao động được gắn kết  
hơn với các phong trào khác trong huyện, từ đó thì công tác tuyên truyền, khuyến khích 
người lao động sẽ có tác dụng hơn và như vậy thì việc tạo việc làm cho người lao động 
sẽ hoàn thiện hơn.
1.2.7. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
Bằng các hình thức: tăng thời lượng phát thanh, truyền thanh của huyện, xã có  
nội dung về lao động việc làm; phổ biến tuyên truyền những gương làm kinh tế giỏi để 
người lao động có thể học hỏi và noi theo. Ngoài ra việc xây dựng và phát triển làng văn  
hoá mới, xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hoá mới, xoá bỏ tệ nạn xã hội, công 
tác giữ gìn an ninh trật tự – an toàn xã hội phải được làm thường xuyên, tạo dựng cuộc 
sống bình yên cho nhân dân, để người lao động yên tâm sản xuất.
2. Nhận xét và một số kiến nghị
2.1. Nhận xét
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vấn đề lao động – việc làm tại huyện Hòa 
Bình vẫn là một vấn đề bức xúc, còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Chất lượng việc  
làm chưa cao, tính  ổn định, bền vững trong việc làm thấp, hiệu quả  tạo việc làm còn  
thấp; nhu cầu có việc làm vẫn là vấn đề  bức xúc của Huyện; chuyển dịch cơ cấu lao 
động chậm, lao động chủ yếu làm việc trong nông nghiệp (54,7%), lao động ở khu vực  
nông thôn chiếm chủ yếu (75%) gây sức ép lớn về giải quyết việc làm. Để  giải quyết 
đựoc vấn đề  này đòi hỏi phải có sự  nỗ  lực rất lớn của toàn Đảng bộ  và Nhân dân  
huyện Hòa Bình.
Qua tìm hiểu thực trạng việc làm tại huyện Hòa Bình em có một số  kiền nghị 
như sau:   
2.2

. Một số kiến nghị:


SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 23


Thứ  nhất: UBND huyện sớm hoàn thiện dự  án xây dựng Trung tâm dạy nghề 
của Huyện để trung tâm ổn định đi vào hoạt động dạy nghề tăng cả  về số lượng , lẫn  
chất luợng  tạo việc làm ổn định lâu dài cho người lao động nhằm ổn định cuộc sống, 
phát triển kinh tế xã hội của huyện nhà nói riêng và cả nước nói chung.
Thứ hai, trung tâm dạy nghề phải gắn kế hoạch đào tạo với nhu cầu thực tế lao  
đông của thị trường lao động, đảm bảo đầu ra khi học viên ra trường.
Thứ  ba:có chính sách hỗ  trợ  người lao động trong quá trình đào tạo nghề  và đi 
xuất khẩu, cũng như nên có chính sách bảo vệ người lao động ở nước ngoài khi họ gặp  
khó khăn hay bị người quản lý lao động có những hành động không đúng pháp luật.
Thứ  tư:  tập trung bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ  làm công tác lao 
động việc làm. Tiếp tục mở  nhiều các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật tiến bộ về 
Nông nghiệp, thuỷ  sản và đào tạo kỹ  năng nghề  và kỹ  năng giao tiếp thực hành cho  
người lao động để  đáp  ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thị  trường lao động nước  
ngoài.
Thứ năm:UBND huyện sớm hoàn thành dự án xây dựng cụm công nghiệp tại xã 
Vĩnh Mỹ  B và dự  án xây dựng khu du lịch Sinh thái tại xã Vĩnh thịnh nhằm tạo thêm  
việc làm cho người lao động.
Thứ sáu :Uỷ ban nhân dân huyện tăng cường quan hệ hợp tác trong và ngoài tỉnh,  
tìm thị trường tiêu thụ hàng thuỷ  sản và kêu gọi đầu tư  vào các lĩnh vực huyện có nhu 
cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và cơ sở hạ tầng, phát triển du lịch.
Thứ  bảy:  Uỷ  ban nhân dân huyện chỉ  đạo các ngành chức năng, phối hợp các  
xã , khảo sát, quy hoạch xây dựng quy hoạch cánh đồng mẫu, cánh đồng nông nghiệp  
công nghệ  cao , cánh đồng sản xuất lúa giống chất lượng  ở  các xã Vĩnh Mỹ  B, Minh 
diệu, Vĩnh Bình, lập dự  án tranh thủ  vôns từ  nnhiều nguồn, nhất là việc đầu tư  cho 

thuỷ  lợi, xây dựng các trạm bơm, cải tạo đồng ruộng, mua sắm phương tịên, công cụ 
sản xuất phục vụ cơ giới hoá, triển khai, áp dung các mô hình sản xuất ới có hiệu quả,  
hướng dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khả  năng thích ứng của nông dân về 
nhu cầu hàng nông sản trên thị trường để bố trí sản xuất cây ,con cho phù hợp.
Thứ tám: Phòng Lao động thương binh & Xã hội phải có dự báo và thông tin thị 

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 24


trường lao động trong và ngoài nước, để từ đó có kế hoạch đào tạo nghề đáp ứng được  
nhu cầu lao động cho thị  trương trong nước và nước ngoài.Tóm lại, cần có một định  
hướng rõ ràng và một cơ  chế để  đánh giá nhu cầu cụ  thể  trước khi đào tạo (nội dung 
đào tạo, mức ngân sách, các ràng buộc sau đào tạo…).

PHẦN KẾT LUẬN

     Việc làm cho người lao động trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
đang diễn ra với tốc độ  cao như hiện nay  ở nước ta cả trước mắt và trong những năm  
tới vẫn là vấn đề  nóng bỏng. Giải quết tốt việc làm cho người lao động sẽ  làm giảm 
lượng thất nghiệp, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động ,góp phần nâng cao  
đời sống của người lao động nói chung. Mặt khác, nền kinh tế  xã hội dần dần được 
nâng cao và ngày càng phát triển. Giải quyết vấn đề  này không phải một sớm một  
chiều mà phải có sự đầu tư lâu dài, sự phối hợp từ trên xuống dưới để tháo gỡ dần dần 
những khó khăn về  kinh tê xã hội.Chính vì vậy, huyện Hòa Bình cần phải khắc phục  
những hạn chế  còn tồn đọng trong chính sách giải quyết việc làm và đưa ra những 
phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế  xã hôi cũng như  những chính sách về  việc  
làm thiết thực hơn góp phần giải quyết  tốt việc làm cho người lao động .
    Chuyên đề   còn ít  nhiều hạn chế do khả năng và trình độ  còn hạn chế, thời  

gian nghiên cứu có hạn. Do vậy kính mong có sự góp ý chân thành của thầy giáo nhằm 
hoàn thiện hơn phương pháp nghiên cứu và chất lượng nội dung bài viết. 
    Qua đây em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn của thầy  Nguyễn 
Ngọc Tuấn  đã giúp chúng em hoàn thành tốt chuyên đề này./.

SVTH: Lê Thanh Phúc

Trang 25


×