MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................2
1.Lý do chọn đề tài................................................................................2
2.Mục tiêu nghiên cứu............................................................................2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................3
4.Phương pháp nghiên cứu.....................................................................3
5.Nguồn số liệu.....................................................................................3
6.Kết cấu................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................4
Chương 1:Cơ sở lí luận về vấn đề việc làm...................................4
1.Việc làm...........................................................................................4
2 Quan hệ việc làm.............................................................................5
3 Tạo việc làm....................................................................................6
4.Ý nghĩa việc làm..............................................................................7
Chương 2:Thực trạng về vấn đề việc làm ở huyện Hòa Bình
tỉnh Bạc Liêu hiện nay........................................................................8
1.Khái quát về tình hình kinh tế xã hội..............................................8
1.1. Đặc điểm tự nhiên ....................................................................8
1.2. Đặc điểm kinh tế.......................................................................9
2.Thực trạng vấn đề viêc làm.............................................................9
2.1. Cơ cấu dân số ...........................................................................9
2.2. Cơ cấu tuổi lao động................................................................10
2.3. Chất lượng lao động................................................................10
2.4. Chất lượng lao động ...............................................................10
2.5 Hiện trạng đào tạo nghề...........................................................10
2.6.Thực trạng về việc làm............................................................11
2.7. Những tồn tại và nguyên nhân...............................................13
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết việc
làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình....................................14
1. Phương hướng,mục tiêu và giải pháp.......................................14
1.1. Phương hướng, mục tiêu.........................................................14
1.2 Những giải pháp.......................................................................15
2..Nhận xét và một số kiến nghị......................................................21
2.1.Nhận xét....................................................................................21
2.2.Một số kiến nghị.......................................................................22
PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................23
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn chuyên đề :
Vấn đề việc làm là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi một địa
phương, mỗi quốc gia. Vấn đề này không những mang tính kinh tế mà còn mang tính
xã hội sâu sắc. Vì vậy trong thời gian qua thì vấn đề tạo việc làm cho người lao động
luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Hiện nay thì số lượng lao động có
việc làm không ngừng tăng, số người thất nghệp và thiếu việc làm giảm đi; có sự
chuyển biến tích cực trong cơ cấu và chất lượng lao động. Nhưng trong toàn quốc thì
vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở mỗi địa phương là rất khác nhau bởi còn
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của các địa phương, các vùng. Do đó không
phải địa phương nào cũng có kết quả tạo việc làm cho người lao động đều tốt cả.
Tỉnh Bạc Liêu nói chung và huyện Hoà Bình nói riêng mặc dù trong những năm
gần đây tuy có những kết quả cao trong công tác tạo việc làm cho người lao động
nhưng vẫn còn rất nhiều tồn tại. Số lao động được giải quyết việc làm ở huyện Hoà
Bình không ngừng tăng qua các năm nhưng tỷ lệ người thất nghiệp và người thiếu
việc làm ở nông thôn còn khá cao. Sở dĩ có kết quả như vậy vì huyện Hoà Bình còn
gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Vì vậy trong
thời gian tới Huyện uỷ – UBND huyện đưa vấn đề tạo việc làm cho người lao động
lên hàng đầu.
Nhận thấy được vai trò của việc tạo việc làm cho người lao động, em xin chọn
chuyên đề : “Thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện
Hoà Bình – tỉnh Bạc Liêu” làm đề tài để tìm hiểu rõ hơn về thưc trạng việc làm
nhằm góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết vấn đề việc làm
cho Huyện nhà.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 2
2. Mục tiêu nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu về vấn đề thực trạng việc làm hiện nay tại
Huyện và những kết quả đạt được, các cơ hội cũng như thách thức ảnh hưởng đến
vấn đề việc làm hiện nay ở Huyện Hoà Bình. Đồng thời nêu lên những hạn chế, bất
cập trong các chính sách nhằm bảo đảm và giải quyết việc làm cho người lao động
của Nhà nước.Qua đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả hoat động giải quyết việc làm cho người lao động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc làm và các giải pháp giải quyết việc
làm ở huyện Hoà Bình trong giai đoạn 20102015
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề việc làm ở huyện Hoà Bình
4. Phương pháp nghiên cứu:
Căn cứ vào giáo trình thị trường lao động của PGS.TS.Nguyễn Tiệp
Dựa trên phân tích số liệu của các báo cáo thực tiễn từ các Doanh nghiệp, báo
cáo của Phòng Lao động thương binh – xã hội Huyện , Phòng thống kê của huyện về
việc làm
5. Nguồn số liệu
Giáo trình thị trường lao động của PGS.TS.Nguyễn Tiệp
Dựa trên các báo tình hình thực hiện phát triển kinh tế xã hội năm 2010 và kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2011 của UBND huyện Hoà Bình.
Niên giám thống kê năm 2010 của chi cục Thống kê huyện Hoà Bình.
6. Kết cấu
Phân m
̀ ở đâu
̀
Phân nôi dung
̀ ̣
1. Chương I:Cơ sở lí luận về việc làm
2. Chương II:Thực trạng việc làm ở huyện Hoà Bình hiện nay
3. Chương III:Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết
việc làm
Phân kêt
̀ ́
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 3
Do kiến thức, tư đuy, thông tin còn hạn hẹp cho nên không tránh khỏi những sai
sót trong quá trình nghiên cứu. Em kính mong được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy và
các độc giả quan tâm để em hoàn thành tốt chuyên đề này.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:Cơ sở lí luận về vấn đề việc làm
1. Việc làm
Việc làm là một khái niệm phức tạp, nó gắn với hoạt động thực tiễn của con
người, vì vậy để hiểu rõ được khái niệm về việc làm thì chúng ta phải hiểu rõ khái
niệm người có việc làm.
Tại Hội nghị lần thứ 13 năm 1983 tổ chức lao động thế giới (ILO) đưa ra quan
niệm : “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả công, lợi
nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt
động mang tính chất tự tạo việc làm vị lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận
được tiền công hay hiện vật”.
Người có việc làm là những người lao động ở tất cả các khu vực (công và tư)
có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân và gia đình, xã hội. Tại nhiều nước trên
thế giới sử dụng khái niệm này.
Khi điều tra thống kê về lao động và việc làm, khái niệm trên được cụ thể hoá
bằng các tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mỗi nước trên thế giới đặt ra. Trong đó có
thể chia ra thành hai nhóm :
Nhóm thứ nhất : Là nhóm có việc làm và đang làm việc, đó là những người đang
làm bất cứ công việc gì được trả công hoặc làm việc trong các trang trại hay cơ sở
sản xuất kinh doanh của gia đình.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 4
Nhóm thứ hai : Là những người có việc làm nhưng hiện không làm việc, đó là
những người có việc làm nhưng hiện tại đang nghỉ ốm hoặc các lý do cá nhân khác.
Những người không thuộc hai nhóm trên được gọi là những người không có
việc làm.
Theo điều 13 bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa
nhận là việc làm”. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm nếu nó đáp ứng được
hai tiêu chuẩn :
Thứ nhất, đó là hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm.
Thứ hai, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động.
Việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo cơ sở thống nhất trong lĩnh
vực điều tra nghiên cứu và hoạch định chính sách về việc làm.
Như vậy, việc làm là hoạt động được thể hiện trong ba dạng sau :
Thứ nhất, hoạt động lao động để nhận tiền công hoặc tiền lương bằng tiền
mặt hay hiện vật.
Thứ hai, hoạt động lao động để thu lợi nhuận cho bản thân.
Thứ ba, làm công việc cho hộ gia đình của mình, không được trả thù lao dưới
mức tiền công, tiền lương cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nhà nước trên ruộng
đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng
hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ
làm chủ hoặc quản lý.
Như vậy khái niệm việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải
phóng tiềm năng lao động, tạo việc làm cho người lao động.
Việc làm còn có thể hiểu là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao
động và tư liệu sản xuất hoặc phương tiện sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội. Theo quan niệm này thì việc làm bao gồm :
Thứ nhất : Là sự biểu hiện của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất.
Thứ hai : Lấy lợi ích vật chất, tinh thần mà các hoạt động đó đem lại, xem xét
hoạt động đó có phải là việc làm hay không.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 5
Từ đó ta có việc làm là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất. Sự phù hợp đó thể hiện trên cả mặt số lượng và chất lượng thông qua tỷ lệ giữa
chi phí ban đầu C và chi phí lao động V. Quan hệ tỷ lệ này phù hợp với trình độ công
nghệ của sản xuất. Khi trinh độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì quan hệ này cũng thay
đổi theo.
VL C/V
Trong đó : VL : việc làm
C : tư liệu sản xuất
V: lực lượng lao động.
2. Quan hệ việc làm
Quan hệ việc làm là quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực giải quyết việc
làm, bảo đảm việc làm cho người lao động .Quan hệ việc làm là loại quan hệ pháp
luật phức tạp, nó bao gồm cả những yếu tố của quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ về việc làm bao gồm 3 loại:
Quan hệ về bảo đảm việc làm giữa Nhà nước với người lao động .
Quan hệ về bảo đảm việc làm giữa người sử dụng lao động với người
lao động.
Quan hệ giữa các tổ chức giới thiệu việc làm với người lao động.
3. Tạo việc làm:
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra
trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ
theo yêu cầu thị trường.
Vấn đề tạo việc làm cho người lao động là một vấn để rất phức tạp nhưng là
rất cần thiết mà mỗi quốc gia, mỗi địa phương luôn phải quan tâm. Việc tạo việc làm
cho người lao động chịu ảnh hưởng của không những là nền kinh tế xã hội mà còn
chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác. Vì vậy khi xem xét để đưa ra chính sách
tạo việc làm cho người lao động cần phải quan tâm đến rất nhiều nhân tố khác.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 6
Thực chất của tạo việc làm cho người lao động là tạo ra trạng thái phù hợp
giữa sức lao động và tư liệu sản xuất gồm cả về chất lượng và cả số lượng. Chất
lượng, số lượng của tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, những tiến bộ khoa
học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất cũng như việc sử dụng và quản lý các tư liệu đó.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô và cơ cấu dân số. Chất lượng lao
động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục và y tế. Ngoài ra vấn đề
môi trường cho sự kết hợp giữa các yếu tố này là hết sức quan trọng, nó bao gồm các
chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động cũng như người sử dụng lao động
trong công việc. Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi người lao động
với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao
động, do vậy vấn để tạo việc làm phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người
sử dụng lao động đồng thời không thể không thể kể đến vai trò của Nhà nước.
Người sử dụng lao động là người chủ yếu tạo ra chỗ làm việc cho người lao
động, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước. Để có quan hệ
lao động thì giữa người lao động và người sử dụng lao động phải có những điều kiện
nhất định. Đó là người sử dụng lao động cần phải có vốn, công nghệ, kinh nghiệm và
thị trường tiêu thụ. Còn người lao động cần phải có sức khoẻ, trình độ, chuyên môn,
kinh nghiệm phù hợp với công việc của mình. Để có được việc làm được trả công
theo ý muốn của mình thì người lao động luôn phải học hỏi, trau dồi kiến thức cho
mình để theo kịp sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ngoài ra người lao động phải luôn
tự đi tìm việc làm phù hợp với mình để đem lại thu nhập cho gia đình mình.Tuy nhiên
khi nói đến quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động không
thể không kể đến vai trò của Nhà nước. Nhà nước quản lý quan hệ lao động bằng các
chính sách khuyến khích động viên nhằm đem lại lợi ích cho cả hai bên. Nhà nước tạo
điều kiện thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động để họ phát huy
tối đa năng lực của mình. Ngoài ra Nhà nước cũng đưa ra các chiến lược đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực, đảm bảo phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý. Vì vậy, khi
nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân
là các khu vực có thể tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 7
Hiện nay việc đầu tư của Nhà nước cũng như của các tư nhân đều tập trung ở
thành thị và các khu công nghiệp vì ở những nơi này sẽ tạo ra được tỷ lệ lợi nhuận
cao hơn và có khả năng liên kết với nhau hơn. Chính vì điều này sẽ gây ra hiện tượng
người lao động từ nông thôn ra thành thị và cũng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở nông
thôn, do đó cần phải có chính sách tạo việc làm phù hợp cho cả người lao động ở
thành thị và nông thôn.
4.Ý nghĩa việc làm :
Vào bất cứ thời điểm nào và tại bất cứ nơi nào thì việc tạo việc làm cho người
lao động là hết sức cần thiết. Người lao động có việc làm không những có lợi cho
chính bản thân họ và gia đình đồng thời cũng có lợi cho cả địa phương và quốc gia.
Khi một quốc gia có tỷ lệ người thất nghiệp cũng như người thiếu việc làm cao thì
chứng tỏ rằng quốc gia đó chưa khai thác và sử dụng hết nguồn lực của con người
trong xã hội.
Đối với người thất nghiệp thì họ không có việc làm nên không có thu nhập do
đó khiến họ bắt buộc phải đi làm những công việc để kiếm thu nhập trang trải cuộc
sống. Đôi khi vì mục đích kiếm tiền mà người lao động đã làm những công việc trái
pháp luật mà bản chất họ không phải là như vậy. Còn đối với người thiếu việc làm
thì họ luôn bị áp lực về kinh tế bởi có mức tiền công thấp và có khả năng bị mất việc
làm. Hiện nay số người thất nghiệp ở thành thị còn tồn tại rất nhiều và đây cũng là
nguyên nhân chủ yếu gây ra những tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý…Đối với xã
hội thì thất nghiệp và thiếu việc làm gây ra sự lãng phí nguồn lực xã hội. Thất nghiệp
không những làm giảm thu nhập của người lao động mà còn làm giảm thu nhập của
toàn xã hội và xã hội phải bỏ chi phí trợ cấp thất nghiệp do đó đời sống xã hội giảm.
Thất nghiệp làm thiệt hại cho nền kinh tế, gây khó khăn cho gia đình và xã hội dẫn
đến tiêu cực trong xã hội. Do đó tạo việc làm là hết sức cần thiết đối với mỗi quốc
gia và là yêu cầu của phát triển kinh tế.
Tạo việc làm là một chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết những
vấn đề xã hội. Mọi người lao động đều có việc sẽ rút ngắn được khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội làm cho xã hội công bằng hơn. Mặt khác khi có việc làm thì người
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 8
lao động an tâm hơn, phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong công việc. Việc
làm và thu nhập giúp người lao động có điều kiện học hỏi và nâng cao trình độ dân trí,
chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, nâng cao đời sống tinh thần. Như vậy nếu tạo việc làm
cho người lao động sẽ làm cho xã hội ổn định hơn, văn minh hơn.
Tạo việc làm cho người lao động được quan tâm đúng mức sẽ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, xoá bỏ tình trạng nghèo đói. Nhưng mỗi quốc gia, mỗi địa phương
cần phải quan tâm đến điều kiện thuận lợi của mình mà có một chính sách tạo việc
làm cho phù hợp. Mọi người lao động đều có việc làm chứng tỏ quốc gia đó khai thác
triệt để nguồn lực con người sẵn có và tạo ra một nền sản xuất phát triển.
Tóm lại thì tạo việc làm cho người lao động không những có lợi cho chính bản
thân người lao động mà còn thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Tạo việc làm cho
người lao động góp phần ổn định xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước
đi lên trong xu thế hội nhập.
Chương 2 :Thực trạng về vấn đề việc làm ở huyện Hoà Bình tỉnh
Bạc Liêu hiện nay
1. Khái quát về tình hình kinh tế xã hội của huyện Hoà Bình :
1.1. Đặc điểm tự nhiên
Huyện Hoà Bình là một huyện thuần nông của tỉnh Bạc Liêu có diện tích tự
nhiên là 412,19 Km2; là huyện nằm sát Biển đông vùng đất cực Nam của tổ quốc; là
vùng đất trẻ, bằng phẳng được thiên nhiên ưu đãi, ít bị thiên tai lũ lục.Với hệ thống
giao thông thuỷ, bộ được nâng cấp, mỡ rộng nối liền huyện tới tất cả các xã, và các
vùng miền trong cả nước; có quốc lộ 1A chạy qua dài 12 km tạo thành hai vùng sản
xuất rỏ rệt ( phía Bắc quốc lộ 1A trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi gia súc, gia cấm;
Nam quốc lộ 1A nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản).
Hoà Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rỏ rệt mùa
mưa và mùa khô ( mùa mưa từ tháng 05 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến 04)
1.2. Đặc điểm kinh tế:
Theo báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2010
của UBND huyện Hoà Bình tỉnh Bạc Liêu tại cuộc họp tổng kết cuối năm 2010 ngày
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 9
05/01/2011, mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức về thời tiết, dịch bệnh gây
hại trên lúa nhưng trong năm 2010 nền kinh tế trong huyện vẫn tiếp tục phát triển với
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12%, gấp gần 1,3 lần tốc độ tăng trong năm 2009. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 18.000.000đ/ năm. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở
hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp và thủy sản đạt 1.432 tỷ đồng, đạt 102% so với kế họch , tăng 6,7% so với
cúng kỳ. Nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản tiếp tục phát triển khá, các tiến bộ khoa học kỷ
thuật được áp dụng vào sản xuất, tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản là
29.000 tấn, đạt 108,5% so với kế hoạch, tăng 1,85% so với cúng kỳ. Giá trị sản xuất
công nghiệp tăng 28% so với năm 2009.
Tuy nhiên, tình hình phát triển kinh tế của Huyện vẫn còn tồn tại nhiều khó
khăn vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài. Diễn biến thời tiết, dịch bệnh hết sức
phức tạp, gia cả hàng hoá tăng cao, sản xuất nông nghiệp còn nhiều rủi ro, có tăng
trưởng nhưng chưa bền vững ; sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp về qui mô,
trang thiết bị, trình độ kỹ thuật còn hạn chế Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn
chế. Những khó khăn, thách thức đó đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống
dân cư.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được triển khai tích cực nhằm ổn
định và nâng cao đời sống nhân dân. Các giải pháp hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập đã được coi trọng. Các đối tượng cứu trợ xã
hội được hưởng chính sách trợ giúp thường xuyên như: hỗ trợ xây dựng và sửa chữa
nhà ở, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí và những hỗ trợ khác.
2.Thực trạng vấn đề việc làm ở huyện Hoà Bình hiện nay
2.1.Cơ cấu dân số ở huyện Hoà Bình:
Theo số liệu điều tra của Chi cục thống kê huyện hoà Bình cuối năm 2010, dân
số trong toàn huyện là 108.214 người.Trong đó Thành thị là 20.833 người, Nông thôn là
87.381 người. Trong đó gồm có 03 dân tộc chính là Kinh, Khơme, Hoa sống đan xen
nhau ( trong đó Kinh 93.774 người, chiếm 87,07% ; Khơme 13.277 người, chiếm
12,33% ; Hoa 581 người chiếm 0,54%)
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 10
2.2.Cơ cấu dân số theo tuổi lao động:
Lao động trong độ tuổi của huyện cuối năm 2010 là 66.293 người chiếm 61.56%
tổng dân số. Trong đó lao động nữ chiếm 52,13% bằng 34.561 người, nguồn lao động
trẻ chiếm tỷ trọng cao trong tổng số người trong độ tuổi : Nhóm tuổi từ 1620 chiếm
21,13% ; nhóm tuổi từ 2135 tuổi chiếm 43,16%. Đây vừa là lợi thế, vừa là thách thức
đối với huyện trong việc sử dụng và đào tạo việc làm cho nông thôn.
2.3.Trình độ học vấn của lao động :
Trong những năm gần đây, trình độ học vấn nguồn lao động của huyện được
nâng cao, tỉ lệ lao động trong độ tuổi lao động không biết chữ (mù chữ) và chưa tốt
nghiệp tiểu học gỉam dần; năm 2005 tỉ lệ mù chữ của người lao động trong độ tuổi là
1,39%, thì đến năm 2010 chỉ còn 0,88% ; tỷ lệ chưa tốt nghiệp tiểu học năm 2005 là
15,32%, đến năm 2010 giảm còn 9,6%. Tỷ lệ nguồn lao động tốt nghiệp tiểu học , trung
học cơ sở , trung học phổ thông đều có mức tăng cao, tỷ lệ tốt nghiệp các bật học năm
2005 tương ứng với từng cấp là : tiểu học 35,89%, trung học cơ sở 35% và THPT 12,3%
thì đến năm 2010 tiểu học 38,25%, trung học cơ sở 38% và trung học phổ thông là
13,27%.
2.4. Chất lượng lao động của Huyện :
Cơ cấu nguồn lao động của huyện đến năm 2010 thì tỷ trọng lao động chưa qua
đào tạo chiếm 67,39%, được đào tạo nghề chiếm 24,71%. Trong đó trung cấp chuyên
nghiệp 3,9%, cao đẳng 1,31%, đại học chiếm 2,69%. Như vậy tỷ trọng nguồn lao động
chưa qua đào tạo chiếm tỷ trọng cao, nguồn lao động qua đào tạo chưa đáp ứng mối
tương quan với nhu cầu sản xuất, dịch vụ của huyện. Số lao động có trình độ cao tập
trung chủ yếu trong ngành giáo dục, y tế và quản lý nhà nuớc trên 1.900 người.
2.5. Hiện trạng đào tạo nghề của Huyện :
Trên địa bàn huyện có một trung tâm dạy nghề, một trung tâm giáo dục thường
xuyên, một chi nhánh trường trung cấp nghề STC và trên 70 cơ sở doanh nghiệp tư nhân
sản xuất cá thể (dạy nghề theo hình thức kèm cặp). Lao động được đào tạo nghể trên
địa bàn huyện những năm qua tập trung trong việc thực hiện các chương trình, dự án tập
huấn ngắn ngày trong lĩnh vực cây trồng, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản ; trung tâm dạy
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 11
nghề huyện và một số cơ sở sản xuất chỉ tạo được một số nghề như :May dân dụng,
sữa chữa xe máy. Việc đào tạo nghề trong các nhóm nghề trên chỉ tạo việc làm cho một
số lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo theo các nhóm ngành nghề thực tế
đang cần tại địa phương trong các chương trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp
sạch và một số ngành có trình độ công nghệ cao. Việc đào tạo nghề của các cơ sở nghề
chưa có sự liên kết chặt chẽ với các cơ sở, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh…
dẫn đến việc đào tạo nghề cho lao động chưa phù hợp nên không tìm được việc làm,
chưa đáp ứng được nhu cầu lao động theo trình độ so với yêu cầu về trình độ công
nghệ và chưa đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay.
2.6.Thực trạng việc làm ở huyện Hoà Bình :
Dân số trong độ tuổi lao động là 66.293 người, trong đó có 65.219 người có khả
năng lao động (chiếm 98,38%) trong đó có việc làm thường xuyên 54.093 người( chiếm
81,59%), có việc làm nhưng không thường xuyên 4.567 người( chiếm7%), không có
việc làm 1.173 người( chiếm1.77%).
Số lao động đang làm việc :54.093 người.
+ Thuỷ sản: 20.042 người, chiếm 37,05%;
+ Nông – Lâm nghiệp: 16.636 người, chiếm 30,35%;
+ Công nnghiệp – Xây dựng: 6.401 người, chiếm 11,83%;
+ Thương mại – Dịch vụ: 7.109 người, chiếm 13,14%;
+ Lĩnh vực khác: 3.905 người, chiếm 7.21%;
Nhìn chung thực trạng việc làm của lao động củ yếu là Thuỷ sản, Nông – Lâm
nghiệp, tỷ lệ lao động có việc làm không ổn định và có việc làm theo mùa vụ khá cao.
Với sự cố gắng của UBND huyện Hoà Bình, các đơn vị đoàn thể, toàn thể nhân
dân, các nhà đầu tư…thì qua các năm qua huyện Hoà Bình đã giải quyết được nhiều
việc làm cho người lao động. Nhưng trong huyện vẫn còn rất nhiều lao động chưa có
việc làm và còn rất nhiều lao động thiếu việc làm.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 12
Bảng 1: Số lao động dư thừa ở huyện Hoà Bình qua các năm.
(ĐVT : người)
Số LĐ có
Năm
Dân số
Số LĐ có
việc làm
khả năng
trong các
LĐ
thành phần
kinh tế
2006
Số LĐ có
việc làm
nhưng
Số LĐ có
không
việc làm
thường
103.14
63.420
53.174
xuyên
7.890
104.25
64.274
54.275
8.123
1.876
105.69
65.074
54.841
8.670
1.563
106.83
65.219
54.790
9.324
1.105
108.21
66.104
55.721
9.878
505
2.356
0
2007
5
2008
7
2009
5
2010
4
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Hoà Bình giai đoạn 20062010)
Từ những số liệu trên cho thấy mặc dù số lao động có khả năng lao động của
huyện Hoà Bình tăng qua tất cả các năm, nhưng số luợng người lao động có việc làm
không ổn định cũng tăng theo và số lượng người không có việc làm có giảm nhưng
không đáng kể . Lượng lao động dư thừa này chủ yếu ở khu vực nông thôn, vì điều kiện
tìm chỗ làm việc là khó khăn mà chủ yếu họ tập chung vào việc trồng trọt và chăn nuôi.
Thời gian làm việc của họ mang tính mùa vụ do đó xảy ra tình trạng thiếu việc làm cho
lao động ở nông thôn. Do trong những năm gần đây huyện Hoà Bình đã có nhiều chuyển
đổi trong những ngành kinh tế mà tạo thêm được nhiều việc làm cho lao động trong
huyện, giảm số lao động dư thừa. Từ năm 2006 – 2010 thì trên địa bàn huyện Hoà Bình
có nhiều Doanh nghiệp tư nhân kinh doanh Thuỷ sản được đầu tư và đi vào hoạt động
vì vậy đã tạo việc làm cho một số lao người lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn,
do đó mà số lao động nhàn rỗi được giảm mạnh hàng năm. Mặt khác thì bản thân ngành
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 13
nông nghiệp cũng có sự thay đổi về cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, thị trường hoá
ngành nông nghiệp do đó giảm tỷ lệ thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp.
Như vậy thì mặc dù số lao động dư thừa và số lao động không có việc làm qua
các năm có giảm nhưng cũng không đáng; Việc này là một tồn tại rất lớn ở huyện Hoà
Bình. Chúng ta cần phải có một chương trình tạo việc làm cho người lao động mà trước
hết là lao động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn.
Qua bảng số liệu trên cho thấy số lao động được giải quyết việc làm mới tăng
dần qua các năm: năm 2007 tạo được việc làm cho 713 người; năm 2008 tạo được
việc làm cho 860 người ; năm 2009 là 1.112 người; nhưng đến năm 2010 là 1.154 người.
Điều này chứng tỏ công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình đã ngày
càng đạt được nhiều thành công. Đó là sự cố gắng của toàn thể các ban ngành, đoàn thể
và sự ủng hộ của toàn bộ nhân dân huyện Hoà Bình .
2.7. Những tồn tại và nguyên nhân:
Dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ UBND huyên, bằng những quyết tâm và những
việc làm cụ thể của các cấp, ban ngành đã sắp xếp được số lượng việc làm tương đối
cao. Góp phần giảm áp lực đáng kể nhu cầu bức xúc của lao động việc làm trong
huyện, tạo lập được việc làm tương đối bình ổn, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
từng bước được nâng cao. Tuy nhiên vẫn còn gặp những khó khăn, tồn tại như sau :
Do đặc điểm và tính chất của nông nghiệp, cho nên lao động trong khối nông
nghiệp còn có những hạn chế nhất định như trình độ thấp, tính thời vụ, chủ yếu là lao
động phổ thông, chưa qua đào tạo và có đào tạo trong thời gian rất ngắn, nên tay nghề
chưa cao, người lao động chưa bắt nhịp được với nhịp sống công nghiệp, sản phẩm làm
ra chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, dẫn đến thu nhập thấp.
Chúng ta chưa có trung tâm đào tạo nghề quy mô tiêu chuẩn nên số lượng lao động đào
tạo chưa nhiều, chất lượng đào tạo còn chưa cao.
Số lao động được đào tạo chưa nhiều, số lao động có trình độ chuyên môn còn
rất thấp vì thế gây khó khăn trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Số lao động
được giải quyết việc làm của huyện thấp hơn số lao động có nhu cầu cần được giải
quyết việc làm. Số lao động ở nông thôn còn chiếm tỷ lệ khá cao.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 14
Các ngành nghề ở địa phương chưa được đầu tư chiều sâu, quy trình công nghệ
không được đổi mới, sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất còn hạn chế,
chưa phục vụ tốt cho người lao động trong công việc.
Công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, công ty TNHH, công ty cổ phần
còn lỏng lẻo dẫn đến việc đào tạo và tuyển dụng còn bị động, chưa có kể hoạch kết
hợp giữa đào tạo và tuyển dụng. Ngoài ra người lao động chưa được đảm bảo quyền
lợi tối đa như việc đảm bảo chế độ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, người thất
nghiệp chưa được quan tâm nhiều.
Việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế mặc dù có sự tiến chuyển mạnh nhưng vẫn
chưa kéo theo được sự dịch chuyển cơ cấu lao động nhiều. Vấn đề đào tạo nghề cho
người lao động mới chỉ là trên phương diện số lượng mà chưa gắn với nhu cầu về lao
động của các ngành nghề, các thành phần kinh tế.
Ngân sách cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động mặc dù có tăng trong
thời gian vừa qua nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết được việc làm cho nhiều lao động
trong huyện. Ngoài ra các cán bộ làm công tác quản lý và tạo việc làm cho người lao
động chưa được coi trọng cả về số lượng và chất lượng.
Cơ sở hạ tầng trong huyện Hoà Bình có chất lượng chưa cao. Việc áp dụng khoa
học kỹ thuật vào trọng đời sống và sản xuất tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn lạc
hậu. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong tiểu thủ công nghiệp vẫn dùng
lao động chân tay là chủ yếu, vì vậy mà người lao động làm việc vất vả mà năng suất
lại không cao.
Người lao động trong huyện vẫn còn tự tìm việc làm cho mình là chủ yếu, không
thông qua những trung tâm tư vấn việc làm, không trông chờ vào Nhà nước. Phương
hướng hàng năm của các cấp ngành về vấn đề giải quyết việc làm chưa được đề cập
đúng vị trí.
Chính vì thế mà trong thời gian gần đây chúng ta cần phải có phương hướng tạo
việc làm cho người lao động phù hợp hơn, giải quyết việc làm cho người lao động
trong huyện, đặc biệt là lao động nông thôn.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 15
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm cho
người lao động tại huyện Hoà Bình
1. Phương hướng, mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm trong giai đoạn
20112015:
1.2. Phương hướng, mục tiêu :
Năm 2011 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X:
Tập trung xây dựng, quy hoạch, kế hoạch, lộ trình cụ thể thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
chỉ tiêu năm 2011 và những năm tiếp theo. Tăng cường các giải pháp chỉ đạo, điều hành,
huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá cao,
hiệu quả, bền vững gắn với việc xây dựng nông thôn theo Quyết định số 491 của Thủ
tướng chính phủ; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, giáo dục và đào tạo, dạy nghề,
giới thiệc việc làm, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đảm bảo các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế 13%; thu nhập bình quân đầu người 23
triệu đồng/ năm; tổng vốn đầu tư sản xuất 1.444 tỉ đồng; giá trị sản xuất đạt 2.858 tỷ
đồng, trong đó giá trị nông nghiệp đạt 1.504 tỷ đồng tăng 5%; giá trị công nghiệp, xây
dựng 948 tỷ đồng, tăng 21%; giá trị thương mại, dịch vụ đạt 406 tỷ đồng tăng 18%.
Để đạt được các chỉ tiêu trên thời gian tới mục tiêu giải quyết việc làm cho
người lao động được đặt lên hàng đầu. Bằng nhiều hướng khác nhau để mỡ rộng quy
mô, tăng nhanh số lượng được đào tạo nghề; từng bước nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo nhằm tạo việc làm, từng bước giảm dần tỷ lệ thất nghiệp, giải quyết việc
làm tại chỗ cho lao động nông thôn, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần
chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoà,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở địa phương.
Biểu 2 : Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình
giai đoạn 2011 2015 :
Năm
2011
Tổng số việc
làm
4.000
SVTH: Lê Thanh Phúc
Do phát triển kinh tế,
chuyển đổi cơ cấu (đv :
người)
3.800
Do công ty cổ phần,
công ty TNHH (đv: người)
1.200
Trang 16
2012
4.000
2.650
1.350
2013
4.000
2.550
1.450
2014
4.000
3.200
1.800
2015
4.000
2.800
2.200
(Báo cáo chương trình việc làm huyện Hòa Bình giai đoạn 2011 2015)
Để đạt được mục tiêu trên, giảm bớt được những khó khăn, nguyên nhân gây
cản trở việc tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình thì trong thời gian tới
chúng ta có những giải pháp cụ thể.
1.2. Những giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình
trong thời gian tới
Trong thời gian tới chúng ta có nhiều giải pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tạo việc làm cho người lao động. Chúng ta cần kết hợp những giải pháp này để
cho người lao động trong huyện Hoà Bình có đủ việc làm, nâng cao thu nhập, giúp xoá
đói giảm nghèo. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu :
1.2.1. Chính sách của địa phương
Trong thời gian tới chính sách của huyện Hoà Bình là phải gắn thực hiện chương
trình phát triển kinh tế với chương trình việc làm thì việc chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đầu tư xây dựng cơ bản – dịch vụ
thương mại có nghĩa là cơ cấu đầu tư vốn vào lĩnh vực này cũng thay đổi, sẽ tạo dựng
được những bước chuyển biến tích cực trong lĩnh vực việc làm. Chúng ta cần phải có
một chương trình phát triển kinh tế sao cho cân đối về lực lượng lao động giữa các
ngành với nhau, không để tình trạng có ngành thừa lao động nhưng có ngành lại khó
khăn khi tìm lao động.
Trong thời gian tới mục tiêu cơ cấu nông nghiệp – công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp – dịch vụ, thương mại đạt tỷ lệ 18,9% 57,6% 23,5%. Bình quân đầu người
đạt trên 1.000USD/ người/ năm. Như vậy trong thời gian tới chúng ta tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại. Đây là cách tốt nhất để
phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình vì lực
lượng lao động trong nông nghiệp của huyện hiện nay nhàn dỗi rất nhiều, do đó việc
phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ sẽ góp phần
giải quyết việc làm cho lượng lao động này. Ngoài ra việc tăng tỷ trọng ngành công
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 17
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ cũng phù hợp với xu hướng phát
triển của đất nước .
Mặt khác chính sách của địa phương trong thời gian tới phải quan tâm hơn đối
với người lao động, tạo những cơ hội cho người lao động có thể tự tạo việc làm cho
chính bản thân mình như cho vay vốn với lãi xuất thấp… và phải quan tâm đến người
lao động thiếu việc làm và thất nghiệp trong huyện hơn như trợ cấp, giới thiệu việc
làm. Ngoài ra cần phải chú trọng đến việc kiểm tra giám sát việc đảm bảo quyền lợi
cho người lao động như việc đóng BHXH, BHYT, BH thất nghiệp cho người lao động,
đảm bảo thời gian làm việc theo đúng tiêu chuẩn ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất
là các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn huyện. Để giải quyết việc làm cho nhiều lao
động thì chúng ta cần phải tập trung đến những chương trình tạo việc làm cho người
lao động hơn cũng như nâng cao chất lượng của các cán bộ chuyên trách về lĩnh vực lao
động việc làm. Có như vậy thì công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà
Bình mới thành công hơn, người lao động trong huyện đỡ vất vả hơn.
1.2.2. Biện pháp trong nông nghiệp
Trong thời gian tới, ở huyện Hoà Bình phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp toàn diện.Vì ngành nông nghiệp của huyện Hoà Bình hiện nay gặp nhiều khó
khăn như diện tích đất canh tác giảm, nhưng người lao động làm việc trong ngành này
lại nhiều, đây là áp lực rất lớn trong công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện
Hoà Bình nhất là lao động trong nông nghiệp. Do đó trong thời gian tới chúng ta phải có
các biện pháp như: khai thác chiều sâu của đất, thâm canh, tăng vụ, tạo ra nhiều giống
mới…để tạo ra nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn, tạo thu nhập cho người nông
dân.
Ngành nông nghiệp huyện Hoà Bình còn lạc hậu nên trong thời gian tới phải đầu
tư vốn để phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông thôn. Đẩy nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật công nghệ trong nông nghiệp, từng bước cơ giới hoá từng khâu sản xuất,
chuyển đổi cơ cấu vật nuôi theo hướng năng suất cao, tăng vụ, tăng diện tích cây vụ
đông, tăng cường công tác khuyến nông bảo vệ thực vật. Thực hiện bê tông hoá kênh
mương. Chúng ta cần có kế hoạch sử dụng quỹ đất, mặt nước cho hợp lý, không để
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 18
người lao động ngồi chơi mà đất đai mặt nước bỏ không sử dụng. Ngoài ra cần phải
chú trọng đến việc thị trường hóa nông nghiệp, phải có phương hướng trồng trọt, chăn
nuôi không những đáp ứng đủ nhu cầu của người dân trong huyện mà còn có thể đem
bán ở những địa phương khác. Có thực hiện các biện pháp trên thì người lao động trong
nông nghiệp làm việc nhàn hạ hơn, có nhiều việc làm hơn, giảm bớt lượng lao động
thiếu việc làm trong nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo trong nông thôn. Huyện Hoà Bình
là huyện làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản là chủ yếu nên chúng ta cần phải khai
thác triệt để thuận lợi trong nông nghiệp để tạo việc làm cho người nông dân.
1.2.3. Biện pháp trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản
Hiện nay số lao động làm việc trong ngành công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp ở
huyện Hoà Bình ngày càng tăng, điều này chứng tỏ việc phát triển ngành này sẽ hứa
hẹn rất nhiều trong việc tạo việc làm cho người lao động. Nhất là khi ngành nông
nghiệp tuy có phát triển nhưng còn bị hạn chế bởi diện tích canh tác có hạn thì việc phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong những năm tới là mục tiêu hàng đầu trong
việc phát triển kinh tế huyện Hoà Bình đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động trong huyện.
Trong năm 2011 huyện Hoà Bình đặt ra mục tiêu phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 28%; giá trị sản xuất đạt 781 tỷ đồng. Để đạt được
mục tiêu trên thì trong những năm tới chúng ta phải ưu tiên phát triển công nghiệp, đầu
tư kết cấu cơ sở hạ tầng; quy hoạch khu công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị. Phải có
chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế vào đầu tư vào phát triển như việc
giảm thuế... Tạo môi trường đầu tư thông thoáng như thủ tục cấp giấy phép, cấp đất,
công tác đền bù, giải toả, bàn giao đất cần phải làm nhanh, gọn, rút ngắn thời gian chờ
đợi đầu tư của doanh nghiệp để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Để hỗ trợ
ngành nông nghiệp đang rất khó khăn thì trong thời gian tới chúng ta cần phải ưu tiên
cho những dự án hàng chế biến nông sản thực phẩm. Nhưng việc tiếp nhận dự án đầu
tư không nên vội vàng mà phải xem xét tới vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường để
không ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân. Hiện nay việc phát triển công nghiệp trên địa
bàn huyện đang là phương hướng hàng đầu trong việc giải quyết việc làm cho hàng
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 19
nghìn lao động ở huyện Hoà Bình , thể hiện ở số lao động làm việc tại các doanh
nghiệp, các công ty cổ phần và công ty TNHH ngày càng tăng. Nhưng việc giải quyết
việc làm cho những lao động nhàn dỗi trong khu vực nông nghiệp thì không thể thiếu
đến các cơ sở tiểu thủ công nghiệp ở cơ sở. Vì thế trong thời gian tới chúng ta phải tập
trung đầu tư các chương trình phát triển kinh tế, chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu
thủ công nghiệp ở cơ sở; khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống như :
chạm gỗ, làm thảm chiếu cói, mây tre đan xuất khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm, trợ
giúp, tìm đầu ra cho sản phẩm, trợ giúp vốn, đào tạo nghề cho người lao động. Việc
khôi phục những làng nghề truyền thống vừa giúp tạo việc làm cho lao động nhàn dỗi ở
nông thôn, tăng thêm thu nhập vừa mang tính bản sắc dân tộc sâu sắc. Do đó dù có phát
triển kinh tế đến mức nào thì chúng ta cũng không thể bỏ qua những nghề truyền thống
của quê hương.
Về lĩnh vực xây dựng cơ bản, huyện Hoà Bình trong thời gian tới phải đẩy mạnh
tiến độ thi công những công trình được giao như việc xây dựng công trình bệnh viện,
bãi rác của huyện, công trình bờ kè kinh sáng Bạc Liêu – Cà Mau đoạn Thị Trấn Hoà
Bình, công trình phòng học, Chợ Hoà Bình, Trung tâm thương mại Hoà Bình, và các
công trình Tỉnh, Trung ương làm chủ đầu tư trên địa bàn huyện …Vấn đề xây dựng cơ
bản là vấn đề phải được quan tâm đầu tiên vì nó sẽ góp phần to lớn trong vấn đề thu
hút những nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư, do đó sẽ góp phần vào việc phát triển
kinh tế, tạo việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bình.
1.2.4. Giải pháp về dịch vụ, thương mại
Vấn đề dịch vụ thương mại ở huyện Hoà Bình trong thời gian qua chưa được
chú trọng mạnh, vì vậy trong thời gian tới cần phải mở rộng mạng lưới thương mại –
dịch vụ từ thôn đến xã, huyện. Hiện nay quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá không
thể không nói đến việc phát triển của dịch vụ thương mại, ngoài ra lĩnh vực này đang
thu hút rất nhiều lao động vì vậy việc phát triển dịch vụ thương mại sẽ tạo rất nhiều
việc làm cho người lao động. Vì vậy trong thời gian tới huyện Hoà Bình phải quy hoạch
và xây dựng các chợ cụm dân cư; thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các
hoạt động thương mại dịch vụ. Ngoài ra cần phải nâng cao chất lượng hoạt động của
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 20
các dịch vụ bưu chính viễn thông, chú trọng đến chất lượng hoạt động của hệ thống
bưu điện văn hoá xã. Khi khu công nghiệp Vĩnh Mỹ B được hình thành thì dịch vụ
thương mại cũng được phát triển theo, đòi hỏi công tác dịch vụ thương mại phải được
chuẩn bị tốt, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong toàn
huyện. Việc phát triển của dịch vụ thương mại không những làm cho việc sinh hoạt
của người dân trong khu vực được dễ dàng hơn mà còn thu hút một lượng lớn lao động
làm việc trong lĩnh vực này. Để hoạt động dịch vụ thương mại hoạt động tốt thì trong
thời gian tới phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động thương
mại. Chất lượng dịch vụ thương mại tại địa bàn huyện ta còn nhiều yếu kém, bất cập,
nhất là công tác văn minh thương nghiệp, chất lượng phục vụ cần phải có những bước
chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.
Ngoài ra để giúp đỡ tích cực cho vấn đề phát triển nền kinh tế của huyện Hoà
Bình thì hoạt động tài chính tín dụng phải phát triển mạnh để tạo nguồn vốn để hoạt
động sản xuất kinh doanh.Vốn là điều kiện tiên quyết đến vấn đề phát triển kinh tế.
Nhưng người lao động lại thiếu vốn trầm trọng để phát triển kinh tế, để tạo việc làm
cho bản thân và gia đình. Vì thế trong thời gian tới thì hoạt động về tài chính tín dụng
đóng một vai trò rất quan trọng. Để tạo điều kiện cho người lao động có thể phát triển
kinh tế thì trong thời gian tới các ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ
nông dân và doanh nhân vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, kịp thời với cơ hội đầu
tư, thời vụ. Phải chú trọng phát triển các quỹ tín dụng nhân dân tại 7xã, thị trấn để nắm
bắt được nhu cầu vay vốn, mục đích đầu tư, hiệu quả đầu tư được xác thực. Tránh
việc cho người lao động vay nặng lãi.
Cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng trong toàn huyện. Chú trọng
việc tiếp nhân dân đến vay vốn được tốt hơn. Ngoài ra chúng ta cần phải có chính sách
thu hút sự hình thành của các loại hình ngân hàng để tạo điều kiện cho người lao động
vay vốn và tạo chỗ làm cho lao động trong huyện.
Như vậy để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động ở huyện Hoà Bìnhthì
trong thời gian tới chúng ta phải chú trọng đến vấn đề phát triển thương mại dịch vụ
hơn.
1.2.5. Giải pháp về giáo dục đào tạo hướng nghiệp:
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 21
Một nguyên nhân quan trọng nhất gây khó khăn cho việc tạo việc làm cho người
lao động ở huyện Hoà Bình chính là bản thân người lao động. Lực lượng lao động của
huyện Hoà Bình rất dồi dào nhưng trình độ của người lao động lại rất thấp. Vì vậy
trong thời gian tới cùng với các chính sách phát triển kinh tế xã hội thì công tác giáo dục
và hướng nghiệp là rất quan trọng.
Trong thời gian tới chúng ta cần phải giữ vững những thành tích đã đạt được
trong những năm qua ở các cấp tiểu học, THCS, THPT để xây dựng bước khởi đầu
vững chắc trong việc phát triển trình độ chuyện môn cho người lao động.
Vì việc đào tạo nghề của chúng ta chưa gắn liền với nhu cầu lao động trên thị
trường, vì vậy cần phải tổ chức những hoạt động dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm,
định hướng có chọn lọc các ngành nghề cho phù hợp với trình độ chuyên môn, trình độ
văn hoá. Mở các khoá đào tạo nghề tại huyện, trực tiếp tại các xã, thị trấn, đặc biệt là
các ngành nghề truyền thống để tạo việc làm cho người lao động nhàn dỗi ở nông thôn;
tổ chức các đoàn đi thực tế tham quan, khảo sát, học tập ở những địa phương, cá nhân
có cách làm hay, điển hình về làm kinh tế.
Trong thời gian tới thì hình thức xuất khẩu lao động đi làm việc tại nước ngoài
hứa hẹn nhiều thành công. Vì vậy chúng ta cần phải nâng cao chất lượng của người lao
động bằng các hình thức như đào tạo tại cơ sở hoặc gửi đi học ở những trung tâm, địa
phương khác để khai thác hình thức xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Hiện nay thì số học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng của huyện ta không
ngừng tăng lên qua các năm nhưng số sinh viên ra trường về làm việc tại địa phương thì
lại rất ít. Vì thế trong thời gian tới cần phải có chính sách thu hút người tài, lao động có
trình độ chuyên môn không những ở địa phương mà còn ở các địa phương khác, tránh
tình trạng chảy máu chất xám ở huyện Hoà Bình. Có thể thu hút lao động có trình độ
chuyên môn cao bằng nhiều cách như khuyến khích tài chính, khuyến khích tinh thần…
Do đó trong thời gian tới thì huyện Hoà Bình phải chú ý đến vấn đề này khi ra chính
sách về việc làm.
Trình độ của người lao động không những quyết định đến vấn đề tiền lương,
tiền công của người lao động mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tạo việc làm
cho người lao động. Vì vậy mà huyện Hoà Bình đang tiếp tục đề nghị tỉnh xây dựng
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 22
trung tâm đào tạo nghề tại trung tâm huyện. Điều này hứa hẹn một lực lượng lao động
có trình độ trong tương lai.
1.2.6. Phối hợp chương trình việc làm với các chương trình khác
Như chương trình xoá đói giảm nghèo, chính sách người có công với nước, các
phong trào đoàn thể như: Thanh niên, Phụ Nữ, Hội Nông dân tập thể, hội cựu chiến
binh… để tạo điều kiện cho công tác tạo việc làm cho người lao động được gắn kết
hơn với các phong trào khác trong huyện, từ đó thì công tác tuyên truyền, khuyến khích
người lao động sẽ có tác dụng hơn và như vậy thì việc tạo việc làm cho người lao động
sẽ hoàn thiện hơn.
1.2.7. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
Bằng các hình thức: tăng thời lượng phát thanh, truyền thanh của huyện, xã có
nội dung về lao động việc làm; phổ biến tuyên truyền những gương làm kinh tế giỏi để
người lao động có thể học hỏi và noi theo. Ngoài ra việc xây dựng và phát triển làng văn
hoá mới, xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hoá mới, xoá bỏ tệ nạn xã hội, công
tác giữ gìn an ninh trật tự – an toàn xã hội phải được làm thường xuyên, tạo dựng cuộc
sống bình yên cho nhân dân, để người lao động yên tâm sản xuất.
2. Nhận xét và một số kiến nghị
2.1. Nhận xét
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vấn đề lao động – việc làm tại huyện Hòa
Bình vẫn là một vấn đề bức xúc, còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Chất lượng việc
làm chưa cao, tính ổn định, bền vững trong việc làm thấp, hiệu quả tạo việc làm còn
thấp; nhu cầu có việc làm vẫn là vấn đề bức xúc của Huyện; chuyển dịch cơ cấu lao
động chậm, lao động chủ yếu làm việc trong nông nghiệp (54,7%), lao động ở khu vực
nông thôn chiếm chủ yếu (75%) gây sức ép lớn về giải quyết việc làm. Để giải quyết
đựoc vấn đề này đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn của toàn Đảng bộ và Nhân dân
huyện Hòa Bình.
Qua tìm hiểu thực trạng việc làm tại huyện Hòa Bình em có một số kiền nghị
như sau:
2.2
. Một số kiến nghị:
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 23
Thứ nhất: UBND huyện sớm hoàn thiện dự án xây dựng Trung tâm dạy nghề
của Huyện để trung tâm ổn định đi vào hoạt động dạy nghề tăng cả về số lượng , lẫn
chất luợng tạo việc làm ổn định lâu dài cho người lao động nhằm ổn định cuộc sống,
phát triển kinh tế xã hội của huyện nhà nói riêng và cả nước nói chung.
Thứ hai, trung tâm dạy nghề phải gắn kế hoạch đào tạo với nhu cầu thực tế lao
đông của thị trường lao động, đảm bảo đầu ra khi học viên ra trường.
Thứ ba:có chính sách hỗ trợ người lao động trong quá trình đào tạo nghề và đi
xuất khẩu, cũng như nên có chính sách bảo vệ người lao động ở nước ngoài khi họ gặp
khó khăn hay bị người quản lý lao động có những hành động không đúng pháp luật.
Thứ tư: tập trung bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác lao
động việc làm. Tiếp tục mở nhiều các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật tiến bộ về
Nông nghiệp, thuỷ sản và đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng giao tiếp thực hành cho
người lao động để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động nước
ngoài.
Thứ năm:UBND huyện sớm hoàn thành dự án xây dựng cụm công nghiệp tại xã
Vĩnh Mỹ B và dự án xây dựng khu du lịch Sinh thái tại xã Vĩnh thịnh nhằm tạo thêm
việc làm cho người lao động.
Thứ sáu :Uỷ ban nhân dân huyện tăng cường quan hệ hợp tác trong và ngoài tỉnh,
tìm thị trường tiêu thụ hàng thuỷ sản và kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực huyện có nhu
cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và cơ sở hạ tầng, phát triển du lịch.
Thứ bảy: Uỷ ban nhân dân huyện chỉ đạo các ngành chức năng, phối hợp các
xã , khảo sát, quy hoạch xây dựng quy hoạch cánh đồng mẫu, cánh đồng nông nghiệp
công nghệ cao , cánh đồng sản xuất lúa giống chất lượng ở các xã Vĩnh Mỹ B, Minh
diệu, Vĩnh Bình, lập dự án tranh thủ vôns từ nnhiều nguồn, nhất là việc đầu tư cho
thuỷ lợi, xây dựng các trạm bơm, cải tạo đồng ruộng, mua sắm phương tịên, công cụ
sản xuất phục vụ cơ giới hoá, triển khai, áp dung các mô hình sản xuất ới có hiệu quả,
hướng dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khả năng thích ứng của nông dân về
nhu cầu hàng nông sản trên thị trường để bố trí sản xuất cây ,con cho phù hợp.
Thứ tám: Phòng Lao động thương binh & Xã hội phải có dự báo và thông tin thị
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 24
trường lao động trong và ngoài nước, để từ đó có kế hoạch đào tạo nghề đáp ứng được
nhu cầu lao động cho thị trương trong nước và nước ngoài.Tóm lại, cần có một định
hướng rõ ràng và một cơ chế để đánh giá nhu cầu cụ thể trước khi đào tạo (nội dung
đào tạo, mức ngân sách, các ràng buộc sau đào tạo…).
PHẦN KẾT LUẬN
Việc làm cho người lao động trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đang diễn ra với tốc độ cao như hiện nay ở nước ta cả trước mắt và trong những năm
tới vẫn là vấn đề nóng bỏng. Giải quết tốt việc làm cho người lao động sẽ làm giảm
lượng thất nghiệp, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động ,góp phần nâng cao
đời sống của người lao động nói chung. Mặt khác, nền kinh tế xã hội dần dần được
nâng cao và ngày càng phát triển. Giải quyết vấn đề này không phải một sớm một
chiều mà phải có sự đầu tư lâu dài, sự phối hợp từ trên xuống dưới để tháo gỡ dần dần
những khó khăn về kinh tê xã hội.Chính vì vậy, huyện Hòa Bình cần phải khắc phục
những hạn chế còn tồn đọng trong chính sách giải quyết việc làm và đưa ra những
phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế xã hôi cũng như những chính sách về việc
làm thiết thực hơn góp phần giải quyết tốt việc làm cho người lao động .
Chuyên đề còn ít nhiều hạn chế do khả năng và trình độ còn hạn chế, thời
gian nghiên cứu có hạn. Do vậy kính mong có sự góp ý chân thành của thầy giáo nhằm
hoàn thiện hơn phương pháp nghiên cứu và chất lượng nội dung bài viết.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn của thầy Nguyễn
Ngọc Tuấn đã giúp chúng em hoàn thành tốt chuyên đề này./.
SVTH: Lê Thanh Phúc
Trang 25