Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.02 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

TẠ HỒNG HẠNH

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU
HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy

HÀ NộI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN

Tạ Hồng Hạnh


MỤC LỤC
LờI CAM ĐOAN
DANH MụC CÁC CHữ VIếT TắT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT
KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ........................ 6
1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu ............. 6
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu ................................................ 6
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu ......................... 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và chiết khấu
hối phiếu của ngân hàng thương mại ........................................................... 10
1.2.1. Khái niệm hối phiếu ........................................................................ 10
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu: .............................................. 14
1.2.3. Phân loại hối phiếu ......................................................................... 15
1.2.4. Vai trò của Hối phiếu...................................................................... 18
1.2.5. Khái niệm chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại ......... 23
1.2.6. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thương mại ....................................................................................... 24
1.2.7. Vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại ......27
1.3. Nguyên tắc và phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại....29

1.3.1 Nguyên tắc chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại ......... 29
1.3.2 Các phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 30
1.3.2.1 Phương thức mua có bảo lưu quyền truy đòi. ........................... 32
1.3.2.2 Phương thức chiết khấu hối phiếu có kỳ hạn ............................ 32

1.4. Phân biệt hoạt động chiết khấu hối phiếu và cầm cố hối phiếu của ngân
hàng thương mại........................................................................................... 34
1.5. Phân biệt giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại và
hoạt động chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ....................37

Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 44


Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT
KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM .... 45
2.1 Trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thương mại. ......................................................................................... 45
2.2 Chủ thể tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại .....50

2.2.1 Bên nhận chiết khấu: ....................................................................... 51
2.2.2 Bên được chiết khấu: ....................................................................... 52
2.2.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu. ...53

1.2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chiết khấu: ............................ 53
2.2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của bên được chiết khấu ............................. 54
2.3 Hợp đồng chiết khấu hối phiếu .............................................................. 56
2.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng chiết khấu hối phiếu ............ 56
2.3.2. Các loại hợp đồng chiết khấu hối phiếu ......................................... 58
2.3.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu ............ 61
2.3.3.1 Hình thức của hợp đồng chiết khấu hối phiếu ........................... 61
2.3.3.2 Nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu ............................ 61
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 71
Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM ................................................................ 72

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu
của ngân hàng thương mại tại Việt Nam ..................................................... 72
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết
khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam ............................ 75
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KÍ HIỆU

STT

NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT

1

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

2

BLDS 2005

: Bộ luật dân sự 2005

3


NHTM

: Ngân hàng thương mại

4

ĐHQGHN

: Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế Việt Nam sau gần ba mươi năm đổi mới đã đạt được rất nhiều
thành tựu to lớn. Việt nam ngày nay được biết đến như một nền kinh tế đang
nổi với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, ngành tài chính - ngân hàng của
Việt Nam những năm trở lại đây đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ,
góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo nền kinh tế đất nước. Nhưng không
thể chỉ dừng lại ở đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải nâng cao
quy mô và năng lực của mình hơn nữa để có thể bắt kịp với sự phát triển của
các ngân hàng trên thế giới. Chính vì vậy, đa dạng hóa và phát triển các hoạt
động, dịch vụ ngân hàng là một đòi hỏi cấp thiết của bất cứ ngân hàng nào
trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Một trong các sản phẩm dịch
vụ đó là chiết khấu hối phiếu.
Hoạt động chiết khấu hối phiếu là một trong những nghiệp vụ cấp tín
dụng cổ điển của các ngân hàng thương mại trên thế giới. Nhưng ở nước ta
hoạt động chiết khấu hối phiếu tại các ngân hàng thương mại còn diễn ra khá
ít, thậm chí có nhiều ngân hàng chưa triển khai nghiệp vụ cấp tín dụng bằng
chiết khấu hối phiếu. Việc ghi nhận hoạt động chiết khấu hối phiếu với tư
cách là một trong những hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 đã tạo ra cơ sở pháp lý ban đầu
cho việc xác lập và thực hiện giao dịch này trên thực tế, đảm bảo quyền lợi
cho các chủ thể khi tham gia giao dịch. Để điều chỉnh một cách chi tiết và
hiệu quả hơn hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại đối
với khách hàng, các nhà làm luật đã cụ thể hóa hoạt động này không những
trong các văn bản luật mà còn thể hiện cả ở văn bản dưới luật. Đặc biệt với
việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN quy

1


định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng đã tạo một hành lang pháp lý cụ thể và rõ ràng hơn
cho nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu của các Ngân hàng thương mại. Bên cạnh
đó, gần đây Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định về
hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã thay thế
Quyết định số 63 nêu trên. Có thể nói, đây là văn bản có nhiều điểm tiến bộ
hơn Quyết định số 63, tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực còn các điểm
hạn chế nhất định cần khắc phục và hoàn thiện. Hiện nay thị trường hối phiếu
cũng như hoạt động chiết khấu Hối phiếu diễn ra chưa phổ biến. Chế tài đối
với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Hối phiếu và chiết khấu Hối
phiếu chưa được qui định cụ thể. Hối phiếu chưa phát huy được vai trò là một
loại công cụ chuyển nhượng trên thị trường, là cầu nối trong tín dụng thương
mại. Mặt khác trong thực tiễn có rất nhiều học giả nghiên cứu hoạt động này
dưới góc độ kinh tế học, chỉ đơn thuần tìm hiểu nó với tư cách là một nghiệp
vụ kinh doanh ngân hàng với những đặc thù mang tính chất kỹ thuật kinh tế,
nhưng lại có rất ít các tài liệu nghiên cứu về bản chất pháp lý cũng như tính
ưu việt của hoạt động này khiến cho các ngân hàng thương mại rất ít lựa chọn
hình thức này để cấp tín dụng cho khách hàng. Do vậy việc nghiên cứu để làm

rõ thực trạng pháp luật, những điểm bất cập và hạn chế, trên cơ sở đó nêu ra
các giải pháp hoàn thiện và vận dụng một cách có hiệu quả những quy định
của pháp luật về chiết khấu hối phiếu là rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại phát triển được hoạt động chiết khấu, trên cơ sở đó
thúc đẩy hoạt động thương mại của doanh nghiệp
Trên đây là lý do tôi chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động chiết khấu
hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến thời điểm hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về hối
phiếu như bài báo của TS. Lê Hoàng Nga “Thương phiếu ở Việt nam, đôi
điều cần trao đổi - Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ 7/2002"; Đỗ Thị
Hồng Hạnh “Một số bất cập của các quy định pháp luật về thương phiếu hiện
nay - Tạp chí Ngân hàng, số 5/2002”; Lê Văn Hải “Tín dụng thương mại
góp phần thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế - Tạp chí Thị trường tài
chính - tiền tệ số 4/1999”; Nguyễn Hải Hà “Thương phiếu với vấn đề lạnh
mạnh hoá hoạt động tiền tệ - Tạp chí Thị trường tài chính 7/1999”; TS.Đinh
Dũng Sỹ “Khái niệm thương phiếu và Pháp lệnh thương phiếu – Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, 7/2000”.....Ngoài ra, giáo trình Luật Ngân hàng Việt nam,
Khoa Luật - ĐHQGHN, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà nội 2005 cũng đã có
những phân tích cụ thể về hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng nói chung
và hoạt động chiết khấu Hối phiếu và giấy tờ có giá nói riêng; Bên cạnh đó,
cuốn sách của GS. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế trong
ngoại thương, NXB. Giáo dục năm 2002; cuốn sách của tác giả Phạm Minh,
Luật thương phiếu, Nhà xuất bản thống kê, 2002 cũng thể hiện nghiên cứu sâu
về Hối phiếu. Tuy nhiên, phần lớn hoạt động chiết khấu Hối phiếu của ngân
hàng thương mại chưa được phân tích rõ trong bất kỳ một công trình nghiên

cứu nào. Các tác giả mới chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về Hối
phiếu và chiết khấu Hối phiếu, chưa nêu bật được thực trạng pháp luật về vấn
đề này ở Việt Nam, những bất cập và các giải pháp hoàn thiện. Đặc biệt, chưa
có công trình nào nghiên cứu về hoạt động chiết khấu hối phiếu từ khi ban
hành Thông tư 04/2013/TT – NHNN. Vì vậy, một công trình nghiên cứu toàn
diện các vấn đề về pháp luật chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại
tại Việt Nam hiện nay là cần thiết, nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển hoạt
động thương mại trong nền kinh tế và tạo sự luân chuyển vốn nhịp nhàng giữa
những người thừa và thiếu vốn.

3


3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
- Trong khuôn khổ của luận văn, mục đích nghiên cứu của đề tài được
xác định như sau:
Thứ nhất làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về Hối phiếu và chiết
khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại.
Thứ hai nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện
hành về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam,
so sánh hoạt động chiết khấu hối phiếu với hoạt động cầm cố hối phiếu của
Ngân hàng thương mại, so sánh giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thương mại đối với khách hàng và chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu
của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng để từ đó hiểu hơn về bản chất
của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.
Thứ ba phát hiện những điểm bất cập của pháp luật về chiết khấu Hối
phiếu để từ đó nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các qui định pháp luật về chiết khấu Hối phiếu

tại Ngân hàng thương mại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề như lịch sử
hình thành, phát triển của Hối phiếu và pháp luật về Hối phiếu, pháp luật về
hoạt động chiết khấu Hối phiếu, vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu
đối với ngân hàng và khách hàng; Đánh giá những bất cập trong thực trạng
pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại
Việt Nam để từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam.

4


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau để làm rõ các nội dung trong đề tài:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được sử
dụng xuyên suốt luận văn gắn với từng nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài được bố cục thành ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hối phiếu và chiết khấu hối phiếu
của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của
ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động
chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

5



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT KHẤU
HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu
Hối phiếu (bao gồm hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ). Trước đây
Hối phiếu được gọi là thương phiếu. Hối phiếu ra đời khi nền kinh tế hàng
hóa ngày càng phát triển, việc giao lưu buôn bán cả nội địa và quốc tế của các
thương nhân diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhưng không phải lúc nào người
mua cũng có tiền mặt để thanh toán cho người bán vì vậy mà họ phải tìm ra
một giải pháp phù hợp đó là mua bán chịu, tức là thỏa thuận người bán giao
hàng trước, còn người mua sẽ thanh toán sau khi nhận hàng với một thời hạn
nhất định theo sự thỏa thuận của các bên, từ đó tín dụng thương mại được
hình thành và tín dụng thương mại được thể hiện qua việc tạo lập và thanh
toán bằng hối phiếu. Hối phiếu chính là một phương tiện thanh toán thay cho
tiền mặt mà các thương nhân đã sáng tạo ra." Hối phiếu ra đời từ thế kỷ XII
khi nền kinh tế hàng hóa đã phát triển phá vỡ kiểu sản xuất tự cung tự cấp đã
tồn tại hàng ngàn năm" [30].
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại nói chung và hối
phiếu nói riêng có vai trò rất to lớn. Một mặt, nó được sử dụng như phương
tiện thanh toán để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ mua bán chịu,
trả chậm. Mặt khác, thông qua việc phát hành và lưu thông hối phiếu, hối
phiếu được sử dụng như một công cụ tín dụng giữa người ký phát và người bị
ký phát, giữa người ký phát và người thụ hưởng, giữa người thụ hưởng và
ngân hàng chiết khấu. Đồng thời, việc thể hiện quan hệ tín dụng thương mại
bằng hối phiếu tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia.
6



"Trong lịch sử, hối phiếu được biết đến từ rất xa xưa, như là bản ghi
nhận khoản nợ khi các thương gia mua bán hàng hóa chịu. Các thương gia ở
thành phố cảng Italia là những người đầu tiên phát hành, sử dụng thương
phiếu ở thế kỷ XII. Các chứng chỉ này được ghi nhận là thương phiếu đầu tiên
được phát hành và sử dụng" [30].
Việc sử dụng hối phiếu trở thành phổ biến ở thế kỷ XVI, khi hối phiếu
đã được chuyển nhượng. Thông qua hình thức chuyển nhượng, hối phiếu đã
được sử dụng như một phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại, mua
bán hàng hóa. Ngày nay, hối phiếu được sử dụng rộng rãi như là phương tiện
thanh toán trong quan hệ thương mại quốc tế và trong quan hệ thương mại nội
địa của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra hối phiếu còn được sử
dụng rộng rãi trong các giao dịch vay nợ quốc tế như là văn bản cam kết nhận
nợ và cam kết thanh toán đối với các khoản vay [30].
Cùng với sự phát triển kinh tế, thương mại và công nghệ, hối phiếu
ngày càng hoàn thiện hơn về hình thức và nội dung, dần thoát ly khỏi cơ sở
kinh tế ban đầu của nó là quan hệ thương mại, nghĩa là, sau khi được ký phát
hối phiếu trở thành một loại giấy tờ có giá có hiệu lực độc lập hoàn toàn với
giao dịch kinh tế “sản sinh” ra nó. Vì là chứng từ có giá lại chuyển nhượng
được, nên hối phiếu không chỉ dừng lại ở quan hệ tín dụng thương mại mà
còn được sử dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng, chiết khấu, cầm cố, thế
chấp và là phương tiện thanh toán trong các giao dịch khác. Hơn nữa, ngày
nay hối phiếu còn trở thành một loại hàng hóa để mua bán trên thị trường tiền
tệ, đặc biệt ở một số nước, việc mua bán hối phiếu đã phát triển mạnh thành
một thị trường riêng biệt.
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu
Để Hối phiếu trở thành phương tiện thanh toán và nâng cao hiệu quả sử
dụng của hối phiếu, ngoài việc phải chứng chỉ hóa hối phiếu thì pháp luật về
7



hối phiếu và các hoạt động thương mại liên quan đến hối phiếu cần phải được
ban hành đầy đủ và hoàn thiện hơn. Thực tế thì hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã ban hành luật về hối phiếu. Tuy nhiên, ngày nay thương mại quốc tế
đã phát triển rất nhiều, từ đó làm phát sinh nhu cầu sử dụng hối phiếu làm
phương tiện thanh toán quốc tế gia tăng, do đó nếu không có sự quy định
thống nhất pháp luật về hối phiếu trong khi Người ký phát và Người bị ký
phát lại ở hai quốc gia khác nhau thì việc sử dụng và thanh toán hối phiếu sẽ
rất khó khăn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một Luật quốc tế thống
nhất về hối phiếu.
Hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Den Haag năm 1912 đã ra
kiến nghị về việc cần ký kết một hiệp định giữa các nước, trong đó, các nước
thành viên cam kết sẽ soạn thảo và thi hành pháp lệnh hối phiếu ở nước mình.
Tại thời điểm đó, Mỹ và Khối liên hiệp Anh đã tự tách khỏi cam kết thống
nhất này. Tuy nhiên do xảy ra thế chiến lần thứ nhất nên các nước dự hội nghị
không thể đi tới việc ký hiệp định về Luật hối phiếu.
Tới năm 1930, hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Geneve, các
nước thành viên đã phê chuẩn Công ước về Luật hối phiếu, gọi là Công ước
Geneve 1930 về Luật hối phiếu thống nhất (Uniform Law for Bills of
Exchange – Geneve Convention 1930, ULB 1930).
Ngày nay, Luật hối phiếu thống nhất ULB 1930 có hiệu lực tại tất cả
các nước (ngoại trừ Anh). Nhiều nước khác mặc dù không tham gia công ước
Geneve, nhưng vẫn xây dựng Luật hối phiếu của họ tương thích với ULB
1930, chính điều đó càng làm cho tính hiệu lực quốc tế của ULB ngày càng
được thừa nhận trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến, nền kinh tế Việt Nam "là nền kinh tế
tự cung, tự cấp, bế quan tỏa cảng" [30], các quy định pháp luật về kinh doanh
thương mại còn chưa được chú trọng ban hành, do đó hối phiếu chưa ra đời ở
Việt Nam trong thời kỳ này.
8



Đến thời kỳ pháp thuộc, do thương mại phát triển cho nên luật về
thương mại mới được ban hành. Năm 1864, Luật thương mại của Pháp được
áp dụng ở Nam kỳ và đến năm 1888 thì được áp dụng ở Bắc kỳ. Ở Trung bộ,
triều đình Nguyễn ban hành Bộ Luật thương mại Việt Nam Trung phần năm 1942.
Trong thời kỳ này, sau khi phê chuẩn công ước Geneva vào cuối năm 1935, tháng
12 năm 1937 Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã ban hành Nghị định chính thức
áp dụng Luật thương phiếu của Pháp trên toàn lãnh thổ Đông Dương.
Từ 1945 đến 1954, Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp, đất nước lúc này chia thành hai khu vực, khu vực do
thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng và Khu vực kháng chiến. Trong khu vực
do thực dân Pháp chiếm đóng thì thương phiếu nói chung và hối phiếu nói
riêng vẫn được sử dụng trong cả nội thương và ngoại thương. Còn trong khu
vực kháng chiến thì không sử dụng thương phiếu bởi vì lúc đó kinh tế chủ yếu
để phục cho kháng chiến, không còn cơ sở cho thương phiếu hình thành và
phát triển.
Từ năm 1954 đến 1972, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền, Miền
Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chịu ảnh hưởng của kinh
tế tư bản chủ nghĩa do sự chiếm đóng của đế quốc Mỹ. Lúc này, miền Nam
Việt Nam sử dụng thương phiếu theo Luật thương mại của Pháp. Năm 1972,
Chính phủ Miền Nam Việt Nam đã ban hành Luật thương mại, trong đó đã
dành riêng một chương quy định về Hối phiếu, Kỳ phiếu và Chi phiếu (Séc).
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Luật thương mại Sài Gòn 1972 không
còn được sử dụng nữa. Từ năm 1954 đến 1999, thương phiếu chỉ được sử
dụng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát
hành Hối phiếu đòi nợ đều áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu (ULB 1930).
Ngày 24/12/1999, Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam ra đời, đánh
dấu một bước phát triển mới của lưu thông thương phiếu tại Việt Nam. Tuy
9



nhiên, sau khi được ban hành, pháp luật Thương phiếu đã bộc lộ nhiều hạn
chế, khiến cho pháp lệnh này khó được áp dụng trong thực tiễn. Trước yêu
cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi
các quy định trong pháp lệnh thương phiếu 1999 để nó phù hợp hơn với các
hoạt động thương mại trên thực tế. Vì vậy Luật các công cụ chuyển nhượng
đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 đã đánh dấu một bước phát
triển mới đối với pháp luật về hối phiếu của Việt Nam. Ngoài ra, Luật các tổ
chức tín dụng năm 2010 hiện cũng là cơ sở pháp lý quan trọng, cho phép các
tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng dưới hình thức chiết khấu các
giấy tờ có giá, trong đó có Hối phiếu. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa hoạt động
chiết khấu Hối phiếu, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
63/2006/QĐ – NHNN quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ
chuyển nhượng của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định này đã
được thay thế bởi Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định
về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Có thể nói,
các văn bản trên tạo hành lang pháp lý quan trọng để phát triển thị trường Hối
phiếu nói chung và hoạt động chiết khấu của ngân hàng thương mại nói riêng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và
chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm hối phiếu
Cho đến hiện nay vẫn còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau về
nội hàm của khái niệm hối phiếu:
Theo cách hiểu thông thường: Hối phiếu là giấy nợ được lập ra trong
một quan hệ thương mại giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương
nhân với những người không phải thương nhân

10



Theo điều 3 Luật Hối phiếu Anh 1882: Hối phiếu là một lệnh không
điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu
người này thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể
xác định được trong tương lai một khoản tiền nhất định cho một người xác
định hoặc theo lệnh của người này hoặc cho người cầm hối phiếu.
Luật hối phiếu của Đức năm 1933 không định nghĩa thế nào là hối
phiếu nhưng lại có những quy định rất rõ ràng về các yếu tố cấu thành nên hối
phiếu. Cụ thể, tại điều 1 Luật hối phiếu Đức ban hành ngày 21.6.1933 quy
định: Một hối phiếu đòi nợ gồm có:
- Chữ “Hối phiếu” trong nội dung của chứng chỉ và bằng ngôn ngữ
được sử dụng khi phát hành chứng chỉ;
- Chỉ thị thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định;
- Họ và tên người phải thanh toán (người bị ký phát);
- Hạn định thanh toán hối phiếu;
- Địa điểm thanh toán hối phiếu
- Họ và tên người được thanh toán hoặc theo lệnh của người này;
- Ngày, tháng và địa điểm ký phát;
- Chữ ký của người ký phát hối phiếu [3].
Tương tự như vậy Điều 75 Luật hối phiếu Đức 1933 quy định về các
cấu thành hối phiếu tự nhận nợ như sau:
- Chữ “Hối phiếu” trong nội dung chứng chỉ và bằng ngôn ngữ được
sử dụng khi phát hành chứng chỉ;
- Cam kết thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định;
- Hạn định thanh toán hối phiếu;
- Địa điểm thanh toán hối phiếu;
- Họ và tên người được hưởng thanh toán hoặc theo lệnh của người này;
- Ngày, tháng và địa điểm ký phát;
11



- Chữ ký của người ký phát [3].
Luật hối phiếu của Singapore năm 1965 định nghĩa về hối phiếu đòi nợ
và hối phiếu nhận nợ như sau:
- Hối phiếu đòi nợ là một lệnh yêu cầu thanh toán không điều kiện
bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu người này
thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định
trong tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người xác
định hoặc trả cho người cầm hối phiếu [20].
- Một công cụ không phù hợp với các điều kiện trên hoặc một công cụ
ra lệnh thực hiện thêm bất kỳ một hành động nào ngoài việc thanh toán tiền
không phải là hối phiếu đòi nợ.
- Hối phiếu nhận nợ là một cam kết không điều kiện được lập thành
văn bản do người lập ký cho một người khác, cam kết sẽ thanh toán ngay khi
có yêu cầu hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định được trong
tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người cụ thể hoặc
cho người cầm hối phiếu. Theo nghĩa của điều này, một công cụ có hình thức
giống hối phiếu nhận nợ trả theo lệnh của người ký phát không được coi là
hối phiếu nhận nợ, trừ khi được ký hậu bởi người lập hối phiếu.
Theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ năm 1995 thì: “Hối phiếu là
phiếu qua đó một người (chủ nợ) yêu cầu một người khác (con nợ) trả một
món tiền theo kỳ hạn nhất định cho một người thứ ba ”
Theo Bộ Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 thì: “Thương phiếu (bao
gồm hối phiếu, lệnh phiếu và chi phiếu) là một thứ phiếu có thể chuyển dịch
được, dùng để xác nhận cho người cầm phiếu một trái quyền ngắn hạn”
Theo Luật thương mại Việt Nam năm 1997 thì: “Thương phiếu (gồm
hối phiếu và lệnh phiếu) được hiểu là chứng từ ghi nhận sự thanh toán vô điều
kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định”.
12



Theo Pháp lệnh thương phiếu năm 1999 thì: Thương phiếu là chứng chỉ
có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều
kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu bao
gồm hối phiếu và lệnh phiếu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tại điều 4 Luật các
công cụ chuyển nhượng 2005 thì: Hối phiếu bao gồm hai loại là Hối phiếu đòi
nợ và hối phiếu nhận nợ:
- Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người
bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu
hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
- Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một
thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
Vậy từ định nghĩa về Hối phiếu trong Luật các công cụ chuyển nhượng
cũng như trong các văn bản khác cho thấy Hối phiếu bao gồm hai loại: nhận
nợ và đòi nợ, thể hiện một số đặc thù sau:
- Một là, hối phiếu là một chứng chỉ có giá, phương tiện thanh toán;
- Hai là, hối phiếu ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định;
- Ba là, thời hạn thanh toán của hối phiếu là khi có yêu cầu hoặc sau
một thời hạn có thể xác định trong tương lai.
Về bản chất, hối phiếu là một hành vi pháp lý được thực hiện bởi bên
có quyền hoặc bên có nghĩa vụ – để ràng buộc nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ
đối với việc thanh toán hối phiếu. Tuy nhiên chỉ khi hành vi pháp lý ấy được
thực hiện dưới hình thức và nội dung theo luật định thì nó mới ràng buộc
nghĩa vụ thanh toán hối phiếu của chủ thể đó. Hành vi pháp lý bao gồm: hành
vi ký phát hành, ký chấp nhận, ký bảo lãnh (nếu có) và ký chuyển nhượng hối
phiếu của người ký phát hành, người bị ký phát, người bảo lãnh, người
chuyển nhượng...

13


1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu:
Hối phiếu là một loại giấy tờ có giá, có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là: Hối phiếu được nhìn nhận là trái vụ của một bên, do hối phiếu
được hiểu là một lệnh trả tiền hoặc cam kết trả tiền vô điều kiện của người
phát lệnh (người ký phát, người phát hành) cho người thụ hưởng. Khi đó câu
hỏi được đặt ra là: tính chất vô điều kiện của việc trả tiền được thiết lập đối
với ai và thiết lập từ khi nào:
Đối với người ký phát: Kể từ khi lập hối phiếu
Đối với người bị ký phát: Kể từ khi chấp nhận hối phiếu
Đối với người bảo lãnh: Kể từ khi ký bảo lãnh
Đối với người nhận chuyển nhượng: Kể từ khi hối phiếu được chuyển
nhượng hợp lệ.
Hai là: Hối phiếu có tính trừu tượng. Xuất phát từ hình thức và nội
dung của hối phiếu, ta thấy trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả hoặc cam kết
trả mà không ghi nguyên nhân. Trong lưu thông, giá trị của hối phiếu không
bị ràng buộc vào nguyên nhân phát sinh ra nó. Điều đó có nghĩa là khi một
hối phiếu được phát hành và chuyển giao cho người khác thì nó trở thành một
chứng thư độc lập và được phép lưu thông mà không phụ thuộc vào việc có
tồn tại hay không một giao dịch cơ sở, miễn là trong thời hạn còn hiệu lực.
Ba là: Hối phiếu có tính lưu thông (là một công cụ có tính chuyển nhượng)
trong thời hạn hối phiếu có hiệu lực, hối phiếu được mua, bán trong giao lưu thương
mại giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với ngân hàng.
Bốn là: Hối phiếu là một công cụ thanh toán. Ngoài ra hối phiếu còn là
một công cụ tín dụng, nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại, đặc biệt là
thương mại quốc tế. Các thương nhân sử dụng hối phiếu thay cho tiền mặt vì
nhiều mục đích khác, có thể là trong quan hệ mua bán trả chậm có bảo đảm,
có thể là nhằm tạo sự thuận lợi cho các bên trong quan hệ kinh doanh mà khi

14


sử dụng tiền mặt để thanh toán sẽ không đạt được, vì hối phiếu có thể đem ra
mua bán, trao đổi hay đem chiết khấu tại ngân hàng hay lưu thông trong dân
sự. Chính đặc điểm này đã giúp hối phiếu ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Năm là: Hối phiếu có thời hạn thường là ngắn hạn (đến 1 năm). Việc
quy định này trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng, thời
gian càng dài rủi ro càng lớn, bởi vậy quy định một thời hạn thanh toán ngắn
tạo nên một tâm lý an tâm cho thương nhân khi sử dụng và cầm giữ hối phiếu.
Mặt khác, việc quy định một thời hạn thanh toán ngắn còn thúc đẩy sự lưu
thông hối phiếu, qua đó việc sử dụng hối phiếu trở nên thông dụng hơn. Thời
hạn thanh toán ngắn giúp cho người ký phát có thể chuyển nhượng hối phiếu
với khả năng thanh khoản cao.
1.2.3. Phân loại hối phiếu
- Căn cứ vào người tạo lập hối phiếu, hối phiếu có thể được chia thành:
"Hối phiếu đòi nợ là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký
phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến
một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai
phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người
này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu" [4].
Hối phiếu đòi nợ được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong các
trường hợp sau:
Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng phục vụ người
mua trả tiền cho người thứ ba.
Hối phiếu đòi nợ do người mua lập yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
trả tiền cho người bán
Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng
thanh toán tiền theo thư tín dụng (L/C)
Hối phiếu đòi nợ lại có thể chia thành hai loại:

15


Hối phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát chấp nhận: Là loại hối
phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát ký chấp nhận sẽ thực hiện yêu cầu
thanh toán của người ký phát. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán Hối phiếu của
người bị ký phát chưa hình thành. Nếu Hối phiếu loại này được chuyển
nhượng mà đến hạn lại không được thanh toán, thì người thụ hưởng có quyền
truy đòi người ký phát Hối phiếu.
Hối phiếu đòi nợ đã được người bị ký phát chấp nhận: Sau khi đã ký
chấp nhận trên Hối phiếu, người bị ký phát có nghĩa vụ thanh toán một phần
hoặc toàn bộ số tiền ghi trên Hối phiếu đòi nợ khi đến hạn thanh toán. Điều
đó có nghĩa là hành vi chấp nhận đã làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán Hối
phiếu (một phần hoặc toàn bộ) của người bị ký phát.
Hối phiếu nhận nợ là cam kết thanh toán một số tiền nhất định trong
tương lai cho người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
- Căn cứ vào thời hạn thanh toán hối phiếu, hối phiếu có thể được
chia thành:
Hối phiếu thanh toán ngay sau khi xuất trình là loại Hối phiếu có cam
kết hoặc được yêu cầu thanh toán khi xuất trình hoặc trên Hối phiếu không
qui định thời hạn thanh toán.
Hối phiếu thanh toán sau một thời gian xác định
Hối phiếu thanh toán vào một ngày cụ thể nhất định Ví dụ: Thanh toán
Hối phiếu này vào ngày 30/5/2013.
Hối phiếu thanh toán vào một ngày có thể xác định được trong tương
lai Ví dụ: Thanh toán Hối phiếu này sau 30 ngày kể từ ngày ký chấp nhận Hối
phiếu. Việc qui định thời hạn thanh toán một cách linh hoạt như vậy nhằm
đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.


16


- Căn cứ vào việc thanh toán Hối phiếu có kèm chứng từ thương mại
hay không, Hối phiếu có thể được chia thành:
Hối phiếu trơn: Là Hối phiếu mà việc thanh toán và chấp nhận thanh
toán không dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm.
Hối phiếu kèm chứng từ: Là Hối phiếu mà việc thanh toán dựa vào
chứng từ thương mại gửi kèm với các điều kiện D/P (Trả tiền đổi lấy chứng
từ), D/A (Chấp nhận thanh toán đổi lấy chứng từ), D/TC (thực hiện các điều
khoản và các điều kiện khác đổi lấy chứng từ).
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của Hối phiếu, có thể phân
chia Hối phiếu thành ba loại:
Hối phiếu vô danh: Là Hối phiếu không ghi tên người thụ hưởng hoặc
ghi trả cho người cầm phiếu. Đối với loại Hối phiếu này, bất cứ ai cầm được
Hối phiếu đều có thể trở thành người thụ hưởng Hối phiếu, việc chuyển
nhượng Hối phiếu vô danh được tiến hành bằng phương thức chuyển giao,
không phải thông qua thủ tục ký hậu.
Hối phiếu ghi danh: Là Hối phiếu ghi trả theo lệnh của một người nào đó.
Người có nghĩa vụ trả tiền của Hối phiếu sẽ trả tiền cho người thụ hưởng có tên
ghi trên Hối phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác. Việc
chuyển nhượng Hối phiếu ghi danh được thực hiện bằng thủ tục ký hậu.
Hối phiếu ký danh: Là Hối phiếu ghi rõ tên của người thụ hưởng không
kèm theo từ “theo lệnh”. Loại Hối phiếu này không thể được chuyển nhượng
bằng thủ tục ký hậu, tức là không có tính lưu thông [9].
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng Hối phiếu, chúng ta có thể chia Hối
phiếu thanh hai loại sau đây:
Hối phiếu nội địa: Là Hối phiếu ghi rõ đồng thời được phát hành và
thanh toán trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hoặc được phát hành tại
một quốc gia để đòi tiền một người khác trong cùng lãnh thổ quốc gia đó.

17


Hối phiếu quốc tế: Là Hối phiếu được phát hành và thanh toán tại hai
quốc gia khác nhau hoặc được phát hành để đòi tiền một người khác ở nước
ngoài. Hối phiếu quốc tế được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế và
tín dụng quốc tế.
- Căn cứ vào cơ sở hình thành Hối phiếu có thể chia Hối phiếu thành
Hối phiếu thực: Là Hối phiếu được hình thành từ các giao dịch cơ sở
như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng vay
tài sản của tổ chức cá nhân trong nền kinh tế, hợp đồng tín dụng ngân
hàng….Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán sau khi hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng thì ký phát Hối phiếu đòi nợ đòi tiền
người mua hoặc sau khi nhận được Hối phiếu nhận nợ từ người mua thì người
bán mới tiến hành giao hàng [9].
Hối phiếu khống: Là Hối phiếu không hình thành dựa trên các giao
dịch cơ sở.
- Căn cứ vào loại tiền tệ ghi trên Hối phiếu có thể phân chia thành:
Hối phiếu nội tệ là loại Hối phiếu được ghi trả bằng đồng tiền của quốc
gia nơi Hối phiếu được thanh toán.
Hối phiếu ngoại tệ là loại Hối phiếu được ghi trả bằng đồng tiền không
phải là đồng tiền của quốc gia nơi Hối phiếu được thanh toán.
- Căn cứ vào giao dịch cơ sở của Hối phiếu, có thể chia Hối phiếu
thành hai loại:
Hối phiếu thương mại: Là Hối phiếu được phát hành trên cơ sở giao
dịch thương mại như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch
vụ,….
Hối phiếu tài chính: Là Hối phiếu được phát hành trên cơ sở giao dịch
tài chính như: hợp đồng vay nợ.
1.2.4. Vai trò của Hối phiếu

- Đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế.
18


Khi bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, người bán chưa thu tiền ngay
từ người mua. Người bán lập Hối phiếu yêu cầu người mua thanh toán tiền
hàng hoặc dịch vụ cho chính người bán hoặc cho một người khác (thường là
chủ nợ của người bán trong một quan hệ Hợp đồng khác) được ghi tên trên
Hối phiếu. Đây là quan hệ tín dụng thương mại giữa người bán và người mua,
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Việc cấp tín dụng
thương mại dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa có thể được hiểu là hình
thức thanh toán chậm. Hành vi mua bán chịu hàng hóa hoặc thanh toán chậm
được xem là hình thức tín dụng. Trong việc mua bán chịu hàng hóa, người
bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn trong một thời gian nhất
định (vốn ở đây được thể hiện dưới hình thức hàng hóa) và khi đến thời hạn
đã được thỏa thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình
thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Tín dụng thương mại dưới hình
thức mua bán chịu hàng hóa được thực hiện trên cơ sở Hối phiếu.
Các thương nhân có thể huy động vốn qua nhiều kênh khác nhau như:
Tín dụng nhà nước, tín dung ngân hàng, tín dung thương mại, phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên, để có thể vay vốn các ngân hàng thương mại, các
doanh nghiệp phải tuân thủ những điều kiện trình tự, thủ tục theo quy định
của pháp luật và bản thân ngân hàng thương mại. Muốn phát hành cổ phiếu,
trái phiếu các doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện khắt khe của luật
chứng khoán và cũng rất khó để huy động được lựơng tiền mong muốn một
cách nhanh chóng vì vậy, việc sử dụng Hối phiếu như một công cụ tín dụng
trực tiếp giữa các thương nhân có nhiều ưu điểm so với các loại hình tín dụng
khác như: Thời hạn cấp tín dụng linh hoạt, điều kiện, thủ tục cấp tín dụng đơn
giản. Nhờ những ưu điểm này mà Hối phiếu đóng vai trò quan trọng trong
việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Nó đã phần nào làm giảm

bớt sức ép về vốn đối với các ngân hàng thương mại nhất là khi tốc động lưu
thông hàng hóa rất nhanh mà vốn của các ngân hàng thương mại có hạn
19


Tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới, tăng sức cạnh tranh và nguồn
doanh thu cho các ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, việc khai thác và nâng cao chất lượng của
các loại hình dịch vụ mới là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng
thương mại. Bởi vì chính nhờ các dịch vụ tiện ích đó mà các ngân hàng
thương mại thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn. Hối phiếu với 4 chức
năng cơ bản (Công cụ tín dụng, là tài sản bản đảm trong Hợp đồng tín dụng,
là công cụ đầu tư vốn, và là phương tiện thanh toán) có vai trò kích thích
những sản phẩm dịch vụ mới của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, những
nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến Hối phiếu là: Nghiệp vụ nhờ thu Hối
phiếu, nghiệp vụ bảo lãnh Hối phiếu, nghiệp vụ chấp nhận Hối phiếu. Thực
hiện những nghiệp vụ này ngân hàng thương mại được hưởng những phí dịch
vụ: Phí nhờ thu, phí bảo lãnh, phí chấp nhận hối phiếu. Những khoản phí này
làm tăng doanh thu cho ngân hàng thương mại.
- Tạo cơ sở để mở rộng hoạt động cấp tín dụng cho các chủ thể trong
nền kinh tế qua các dịch vụ cầm cố, chiết khấu, bảo lãnh hối phiếu.
Nếu có nhu cầu về vốn, người thụ hưởng hối phiếu có thể đem hối
phiếu chưa đến hạn thanh toán đi chiết khấu, cầm cố hối phiếu, chiết khấu và
được cấp một khoản tín dụng.
Đối với hối phiếu được bảo lãnh, người bảo lãnh có nghĩa vụ cam kết
với người nhận bảo lãnh sẽ thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền ghi trên
hối phiếu nếu đã đến hạn thanh toán mà người được bảo lãnh không thanh
toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Như vậy, bảo lãnh hối phiếu khác với
cầm cố, chiết khấu hối phiếu ở chỗ: nghĩa vụ trả tiền của người bảo lãnh chỉ
phát sinh trong các trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán đầy đủ

khi hối phiếu hết hạn.
Ngoài ra Hối phiếu gắn hoạt động tín dụng với quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa, làm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
20


×