Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Tiểu luận môn Thị trường lao động: Phân tích tình hình cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.19 KB, 40 trang )

THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH & XàHỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG ­ XàHỘI ( CƠ SỞ II)
KHOA QUẢN LÍ LAO ĐỘNG

­­­­­­­

TIỂU LUẬN  MƠN 
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG

  

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẦU LAO ĐỘNG  
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

GVBM
: NGUYỄN NGỌC TUẤN
NHĨM SINH VIÊN :
LỚP

NIÊN KHĨA : 
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN



                                     TPHCM, Tháng 06 năm 2010

LỜI MỞ ĐẦU

Thế   giới  ngày càng phát  triển   tăng tiến  về   mọi  mặt.  Gồm  sự   tăng 
trưởng kinh tế và cùng với nó là sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh  
tế, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Bước sang thế kỷ XXI, 
nền kinh tế  thế  giới đều vận động theo chiều hướng toàn cầu hóa và hội  
nhập. Hội nhập kinh tế trên quy mô khu vực và toàn cầu là xu thế  tất yếu  
của kinh tế  mỗi nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu  
này. Cùng với quy luật phát triển của thế  giới Việt Nam gia nhập tổ chức  
thương mại thế giới WTO đã đánh dấu bước đầu phát triển kinh tế nước ta  
trong thời hội nhập. Đây là một cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với  
nước ta hiện nay. Một trong những cơ hội lớn đó là giúp tạo thêm nhiều cơ 
hội việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, việc làm cho người lao động  
và người lao động có điều kiện làm việc ở những lĩnh vực mới, các khu vực 
mới, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài; khu vực dịch vụ; khu 
vực doanh nghiệp vừa và nhỏ… Vì các khu vực này có xu hướng ngày càng  
gia tăng về  nhu cầu sử dụng lao động, cả  về  số  lượng lẫn chất lượng, có  
tác động trực tiếp đến vấn đề  đào tạo và tuyển dụng lao động.  Tuy nhiên, 
cạnh tranh cũng sẽ  quyết liệt hơn và việc sử  dụng lao động đang đòi hỏi  
phải thực hiện đầy đủ  các tiêu chuẩn lao động quốc tế  đặt ra, là yêu cầu 
phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để  đáp ứng nhu cầu của các nhà  
đầu tư cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Cùng với tình hình đó, thành phố Hồ Chí Minh – một trong những trung 
tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam cũng chịu tác động 
không nhỏ. Thị  trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phát triển  
theo các qui luật mới của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập  
khu vực và quốc tế với tư  cách một hệ  thống động và mở: cung và cầu lao 

động biến động rất cao, số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm,  
tái bố trí lại việc làm hàng năm cũng rất lớn.
Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay đối với thành phố Hồ Chí  
Minh nói riêng và đất nước ta nói chung là phải phân tích tận dụng cơ hội  
để  phát triển thị  trường lao động và nghiên cứu, đề  ra những giải pháp để 
vượt qua những khó khăn, thách thức trong vấn đề thị trường lao động, tiến  
tới cân bằng cung cầu lao động.
Từ  đó, tạo điều kiện cho chúng ta phát về  mọi mặt, đặc biệt là giúp 
chúng ta phát triển đạt đến một nền kinh tế  hiện đại làm cho đại bộ  phận  
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

cuộc sống của người dân trong xã hội trở nên tươi đẹp hơn vì mục tiêu dân 
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài tiểu luận này nhóm chúng  
em đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu về vấn đề cung cầu lao động và được 
sự  giúp đỡ  tận tình từ  thầy Nguyễn Ngọc Tuấn trường ĐH Lao Động Xã  
Hội (cơ  sở II). Vì vậy, trước khi vào nội dung bài viết em xin gửi lời cảm  
ơn tới thầy đã tạo điều kiện giúp chúng em hoàn thành đề tài này.
Nhóm thực hiện.

SVTH: 



 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

PHẦN: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết sự phát triển về kinh tế và sự ổn định về chính trị 
­ xã hội không chỉ là cơ sở mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của  
một đất nước. Nó là nền tảng vững chắc của một đất nước phát triển. Vì  
thế  phát triển về  kinh tế  ­ xã hội có nội dung và ý nghĩa khá toàn diện, là 
mục tiêu và ước vọng của các dân tộc trên thế gới nói chung và của dân tộc  
ta nói riêng. Phát triển kinh tế  ­ xã hội bao hàm trong nó mối quan hệ biện  
chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế  ­  
xã hội là điều kiện tuyên quyết và cơ bản để nâng cao đời sống nhân dân và 
đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc ổn định việc làm và nâng cao thu  
nhập cho người lao động. Nó không chỉ là mục tiêu phấn đấu của nhân loại  
mà còn là động lực của sự phát triển đất nước. Vì vậy, toàn Đảng toàn dân 
ta phải tích cực và chủ  động thống nhất đưa ra các biện pháp có tích chất 
quyết định đối với sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước một cách toàn  
diện và bền vững lâu dài. Nhằm đưa đất nước ta phát triển một cách vượt  
bậc trên mọi phương diện: kinh tế ­ văn hóa – xã hội – ngoại giao… Nhưng  
trước hết, chúng ta cần phải xác định được những cơ hội và thách thức hiện 
tại mà nước ta đang có và phải đối mặt vượt qua. Việc gia nhập vào tồ chức  
thương mại thế giới đã đem lại nhiều cơ hội: tăng cơ hội việc làm và nâng 
cao thu nhập cho người lao động, xuất hiện thêm nhiều ngành nghề  mới ở 
những khu vực – lĩnh vực mới, các khu công nghiệp (KCN), khu chế  xuất  
(KCX) được mọc lên... thì kèm theo đó cũng có không ít những khó khăn, thử 
thách được đặt ra cho chung ta như:

Sản phẩm sản xuất ra với chất lượng vẫn còn thấp nên gặp  
nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu ra 
nước ngoài hoặc nếu có xuất khẩu được thì cũng với giá rẻ hơn những sản  
phẩm cùng loại của các quốc gia khác. Đó là do trình độ tay nghề và kỹ năng  
làm việc của công nhân nước ta còn thấp.



Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân còn thấp gây khó  
khăn trong việc áp dụng những công nghệ  mới, khoa học – kỹ  thuật hiện  
đại vào quy trình sản xuất.

SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN


Việc   đầu  tư   cho   công   nghệ   mới,   máy   móc,   thiết   bị   và   dây 
chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại vẫn còn rất hạn chế vì các doanh nghiệp  
ít kinh phí.

Cơ  chế  pháp lý và hệ  thống hành chính, Luật Pháp Việt Nam  
vẫn còn nhiều bất cập gây khó khăn trong việc thu hút và tạo điều kiện  
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.


Sự  di chuyển lao động giữa các vùng miền và ra nước ngoài 
thông qua hoạt động xuất khẩu lao đông gây khó khăn trong việc quản lý và 
điều tiết lao động.
Chính vì nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, cộng với tiến trình phát 
triển tất yếu của đất nước, đang tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa  
đất nước một cách toàn diện và phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở  thành  
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều này sẽ kích sự di chuyển  
lao động giữa các vùng miền, địa phương, các cơ  sở  sản xuất, các doanh  
nghiệp thậm chí là giữa các khu vực. Đó chính là một trong những lý do gây  
ra việc cung – cầu lao động giữa những vùng miền, khu vực mất cân bằng.  
Đây là  một vấn đề nóng bỏng và thực sự cần thiết phải có những giải pháp 
hiệu quả  và thiết thực để  giải quyết. Và thực trạng  ấy cũng chính là thực  
trạng mà thành phố  Hồ  Chi Minh hiện đang mắc phải. Do đó, việc nắm 
vững và điều tiết thị trường cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh  
trong thời gian tới một cách hiệu quả là hết sức khó khăn. Vì vậy, cần thiết  
phải có sự  phối hợp hoạt động và giải quyết của những cơ  quan, đơn vị 
chuyên trách và những bộ phận có liên quan. Tuy nhiên, việc phân tích thực  
trạng và đưa ra các giải pháp khắc phục tình trạng này ở thành phố  Hồ Chí  
Minh trong thời gian qua dường như chưa đủ  mạnh, chưa hiệu quả và chưa 
thiết thực với thực tế. Đây chính là lý do mà nhóm chúng em quyết định  
chọn đề tài sau đây để phân tích và đưa ra giải pháp chiến lược cho vấn đề 
cung cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh:
“Phân tích cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong bối cảnh kinh tế  thị  trường hiện nay thì vấn đề  cung cầu lao 
động đang là một vấn đề  bức xúc cấp thiết cần phải có những biện pháp  
giải quyết một cách triệt để.  Ở  đây, bên cạnh việc tìm lời giải đáp những  
vướng mắc của nhóm về  thực trạng cung ­ cầu lao động tại thành phố  Hồ 
Chí Minh hiện nay. Chúng em cũng đề  ra một số  yêu cầu và mục đích khi  
nghiên cứu đề  tài. Nhằm nhận diện và phân tích những cơ  hội cũng thách 

thức về vấn đề nhân lực và nguồn lao động tại thành phố trong những năm  
tiếp theo. Từ  đó có thể  hiểu và nắm được quy luật cung ­ cầu lao động và  
những cơ  hội thách thức về  vấn đề  lao động tại thành phố, biết được sự 
tham gia và hoạt động của các đơn vị liên quan góp phần vào việc giải quyết  
vấn đề nóng bỏng này tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Mặt khác, cũng 
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

giúp chúng em trang bị   được thêm những kiến thức cần thiết cho ngành 
nghề  quản trị  nhân lực của chúng em trong tương lai. Ngoài ra, chúng em  
mong muốn rằng cuốn tiểu luận này sẽ có thể là nguồn tài liệu có ích giúp 
cho các nhà nghiên cứu thị trường, các nhà hoạch định chiến lược có thể đưa 
ra các biện pháp giải quyết hiệu quả để  giải quyết triệt để  vấn đề  cung –  
cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
­ Đối tượng nghiên cứu: tình hình cung cầu lao động tại thành phố  Hồ Chí 
Minh
+ Các doanh nghiệp sản xuất cũng như các KCX, KCN đang hoạt động  
trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
+ Các cơ sở, trung tâm việc làm ­ dạy nghề và công ty tư vấn trong khu 
vực thành phố.
­ Phạm vi nghiên cứu: toàn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2010.
4. Số liệu
Sô liêu t

́ ̣ ư s
̀ ở Lao Động Thương Binh­ Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh
Giao trinh thi tr
́ ̀
̣ ương lao đông, giao trinh quan tri nhân l
̀
̣
́ ̀
̉
̣
ực, giao trinh
́ ̀  
quan tri doanh nghiêp, giáo trình th
̉
̣
̣
ị trường lao động.
Báo thanh niên, tap chi Tuôi tre…
̣
́
̉
̉
Các trang Web như:




/>.; thanh phô hô chi minh; s
̀
́ ̀ ́

ở  công nghiêp thành ph
̣
ố 
Hồ Chí Minh; doanh nhân; hôi ch
̣ ợ viêc lam; chinh phu; v.v…
̣ ̀
́
̉
5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cư vao giao trinh đa tim hiêu;
́ ̀
́ ̀
̃ ̀
̉
Căn cư vao viêc tim kiêm va thu thâp thông tin t
́ ̀
̣ ̀
́
̀
̣
ừ cac website, bao chi
́
́
́
Dựa vao s
̀ ự hô tr
̃ ợ cua cac chuyên gia, cac đ
̉
́
́ ơn vi c

̣ ơ quan trong xa hôi
̃ ̣
Được thực hiên d
̣ ựa trên cơ  sở  sử  dung ph
̣
ương phap thu thâp sô liêu,
́
̣
́ ̣  
thông kê, tông h
́
̉
ợp va phân tich sô liêu va đ
̀
́
́ ̣
̀ ưa ra nhân đinh.
̣
̣
6. Kết cấu
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ  CUNG CẦU LAO  ĐỘNG TẠI 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

PHẦN: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Một số khái niệm
1. Thị trường lao động
Trong   hệ   thống   các   thị   trường   (thị   trường   hàng  hóa,   thị   trường   lao 
động, thị  trường vốn, thị  trường đất đai…) thì thị  trường lao động là thị 
trường quan trọng bậc nhất. Bởi vì, lao động là nhu cầu của con người. Lao  
động là nguồn gốc tạo ra phần lớn của cải vật chất trong xã hội. Lao động  
là nhân tố  quyết định sự  hoạt động và phát triển của tất cả  các loại thị 
trường. 
Theo Adam Smith “ Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng 
hóa sức lao động ( hoặc dịch vụ lao động ) giữa một bên sử  dụng lao động 
và một bên là người lao động ”.
Theo tiến sỹ  Leo Maglen “ Thị  trường lao động là một hệ  thống trao  
đổi giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao  
động) với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động  
để sử  dụng ( cầu lao động )”
Theo tổ  chức lao động quốc tế  ( ILO ) “ Thị  trường lao động là thị 
trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình 
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 

TUẤN

thỏa thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ 
tiền cộng”
Từ  đó có thể  nêu lên một định nghĩa khái quát về  thị  trường lao động  
như  sau: “ Thị  trường lao động là nơi ngưới có nhu cầu tìm việc làm và  
người có nhu cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ  lao 
động thông qua các hình thức giá cả  ( tiền công, tiền lương ) và các điều 
kiện thỏa thuận khác ( thời gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã  
hội…) trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản  hoặc bằng miệng,  
hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác.
Như  vậy mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các định  
nghĩa nêu trên đều thống nhất với nhau nhũng nội dung cơ bản về thị trường 
lao động là thị trường mà trong đó:
­ Có người cần bán sức lao động, cung cấp dịch vụ lao động (người lao 
động).
­ Có người cần mua sức lao động ( người sử dụng lao động)
­   Có   các   quan   hệ   cung   cầu   lao   động,   giá   cả   sức   lao   động  
(tiền công, tiền lương), các quan hệ  thỏa thuận khác (thời gian làm việc, 
điều kiện lao động, môi trường lao động, bảo hiểm xã hội…) ( giáo trình thị 
trường lao động, 2008, tr 11­ 14)
2. Cung lao động
Cung lao động là số lượng lao động đang tham gia và sẵn sàng tham gia  
vào thị  trường lao động  ở  những thời điểm nhất định (thời điểm xem xét). 
Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến động về 
cầu lao động, trình độ  đào tạo hướng nghiệp – dạy nghề  và tiền lương  
(tiền công) trên thị trường lao động. (giáo trình thị  trường lao động, 2008, tr 
53)
Có thể  hiểu rõ hơn cung về  lao động là tổng nguồn sức lao động do  
người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. 

Tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả 
số nhân lực không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng đã chính thức tham gia  
vào quá trình tái sản xuất xã hội. Xét về mặt số lượng, khi nói đến cung trên  
thị  trường lao động, người ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung  
thực tế  và cung tiềm năng. Cung tiềm năng về  lao động bao gồm những  
người đủ  15 tuổi trở  lên đang làm việc, những người thất nghiệp, những  
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang 
làm công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung thực tế về lao  
động bao gồm tất cả  những người  đủ  15 tuổi trở  lên đang làm việc và 
những người thất nghiệp, hoặc thiếu việc làm.
Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng 
lao động, tức là các phẩm chất cá nhân của người lao động. Trong đó, trình 
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

độ học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là  
những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này.
Từ  đó có thể  thấy rằng các nhân tố  chủ  yếu  ảnh hưởng đến cung lao 
động là: quy mô và tốc độ tăng dân số; quy định pháp lý về độ tuổi lao động;  
tỷ  trọng cư  dân trong độ  tuổi lao động và tỷ  lệ  tham gia vào lực lượng lao  
động; tỷ  lệ  tham gia của lực lượng lao động vào thị  trường lao động; tình 
trạng tự nhiên của người lao động; các phẩm chất cá nhân về học vấn, trình  
độ tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động, và một số 
các chỉ số khác.

3. Cầu lao động
Cầu về lao động là số lượng lao động được thuê mướn trên thị  trường 
lao động. Hay nói cách khác, cầu lao động là toàn bộ  cầu về  sức lao động 
của một nền kinh tế (hoặc của một ngành, địa phương, doanh nghiệp…)  ở 
một thời kỳ  nhất đinh, bao gồm cả  mặt số  lượng, chất lượng, cơ  cấu và 
thường được xác định thông qua chỉ  tiêu việc làm. (giáo trình thị  trường lao  
động, 2008, tr 76)
Nhu cầu về  cầu lao động thể  hiện qua khả  năng thuê mướn lao động  
trên thị trường lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất  
lao động không biến đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và  
tốc độ  sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về  lao động tỷ  lệ 
nghịch với năng xuất lao động. Còn xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao  
năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức…của doanh nghiệp  
càng ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao động. Trong đó, các  
chỉ số quan trọng nhất thể hiện chất lượng lao động là: trình độ  tinh thông 
nghề nghiệp, mức độ phù hợp của nghề nghiệp được đào tạo với công việc 
được giao, kỷ luật lao động…
Theo báo cáo của Bộ Lao đông Thương Binh Xã Hội, ở Việt Nam, hiện  
việc tính cầu tiềm năng về  lao động, tức là việc tính toán nhu cầu về  lao  
động cho tổng số chỗ làm việc có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu 
tố  có khả  năng tạo việc làm trong tương lai như  vốn, đất đai, tư  liệu sản  
xuất, công nghệ, và cả  những điều kiện khác như  chính trị  xã hội…chưa  
được thực hiện.
Các chỉ số quan trọng để  tính thực tế cầu về lao động, tức là nhu cầu 
thực tế về lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định, thể hiện qua  
số lượng chỗ làm việc mới, chỗ làm việc bỏ trống, hầu như chưa được thu 
thập, hoặc có nhưng không đầy đủ, không hệ  thống. Như  vậy cầu thực tế 
về  lao động  ở  nước ta cho đến nay mới chỉ  được xem xét giới hạn trong  
tổng số chỗ làm việc mới được tạo ra hàng năm. Theo số liệu thống kê của  
Bộ LĐ­TB­XH, số lượng chỗ làm việc mới có xu hướng gia tăng trong suốt 

thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2000. Nếu trong giai đoạn 1991­1995, số chỗ 
làm việc tăng thêm bình quân hàng năm khoảng 863 ngàn chỗ  thì đến giai  
SVTH: 


 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

đoạn 1996­2000, bình quân mỗi năm đã có khoảng 1,2 triệu chỗ  làm việc  
mới được tạo ra. So với số lượng người bước vào độ tuổi lao động tăng lên 
hàng năm (trên 1,1 triệu người), thì số  chỗ  làm mới cho những người này. 
Tuy nhiên, trên thực tế, do những méo mó của thị  trường lao  động này, 
những người mới tham gia vào lược lượng lao động lại là nhóm người bị 
thất nghiệp hoặc thiếu việc làm nhiều nhất.
4. Quan hệ cung cầu lao động
Việc nghiên cứu thị trường lao động bắt đầu và kêt thúc bằng sự phân  
tích cung cầu lao động và mối quan hệ giữa chúng. Những kết quả của hoạt  
động thị  trường lao động liên quan chặt chẽ  đến điều kiện lao động (suất 
lương, tổng mức lương, điều kiện làm việc) và mức độ  làm việc. Bất cứ 
kết quả  hoạt động nào của thị  trường lao động cũng là kết quả  hoạt động, 
tương tác của hai lực lượng cung và cầu lao động. (giáo trình thị trường lao  
động, 2008, tr 141)
Cung cầu lao động có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn 
tại. Sự tác động lẫn nhau của hai chủ thề này quyết định tính cạnh tranh của  
thị trường: khi bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hoa này, 
thì bên mua  ở vào địa vị  có lợi hơn trên thị  trường lao động (thị  trường của  
bên mua). Ngược lại, nếu cầu về sức lao động trên thị trường lớn hơn cung  

thì người bán sẽ có lợi hơn, có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn công việc, giá 
cả  sức lao động vì thế  có thể  được nâng cao (thị  trường của bên bán). Bên 
cạnh đó, cũng như bất kỳ mọi dạng thị trường khác, thị trường lao động còn  
chịu tác động của nhiều yếu tố  khác, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới 
động thái phát triển của thị trường này.
II. Các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến cung và cầu lao động
1. Kinh tế ­ xã hội
Gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang có những điều kiện thuận lợi  
chuẩn bị  cho hội nhập kinh tế quốc tế. Riêng trong lĩnh vực lao động, lực  
lượng lao động Việt Nam có nhiều ưu thế: lực lượng lao động dồi dào, trẻ, 
có trình độ văn hoá khá, đặc biệt khả năng tiếp thu của lao động Việt Nam  
được các nước trên thế giới đánh giá là nhanh nhạy. Đặc biệt giá nhân công  
của Việt Nam lại rẻ, đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Thị 
trường lao động Việt Nam và các hoạt động dịch vụ liên quan đã có hơn 10 
mười năm phát triển và đang từng bước hoàn thiện. Hệ thống pháp luật lao  
động Việt Nam được xây dựng về  cơ bản là tương đối đầy đủ  và phù hợp  
với điều kiện nền kinh tế thị trường, đảm bảo được cơ  bản các tiêu chuẩn 
lao động quốc tế. Các chính sách về  an sinh xã hội đã được Việt Nam chú  
tâm phát triển trong những năm gần đây. Với những điều kiện hiện có như 
vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO có nhiều thuận lợi. Đầu tư  nước ngoài  
tăng, tạo thêm nhiều việc làm mới cùng với nó là hiện tượng dịch chuyển  
lao động khiến cơ cấu lao động trở nên năng động hơn. Có thể  khẳng định 
SVTH: 

10 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN


chắc chắn rằng Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều c ơ hội v ề vi ệc  
làm và thu nhập cho người lao động. Người lao động cũng có nhiều cơ  hội  
hơn để  tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ, kỹ 
năng, tác phong lao động, kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó, hội nhập kinh  
tế  quốc tế, gia nhập WTO cũng mang lại cho Việt Nam những thách thức 
về lao động, việc làm. Gia nhập WTO, nguy cơ đầu tiên mà người lao động 
Việt Nam phải đối đầu là sẽ  có nhiều người mất việc làm. Đó có thể  là 
những   lao  động   giản   đơn,   trình   độ   thấp   hoặc   lao  động   trong   các   doanh 
nghiệp sắp xếp lại tổ  chức, thu hẹp sản xuất hoặc do c ải cách về  công  
nghệ  hoặc do bị  phá sản, giải thể  do không thể  cạnh tranh với các doanh  
nghiệp nước ngoài… 
2. Pháp luật Nhà nước
Trong gần một thập kỷ qua, những chủ trương, đường lối chỉ đạo của 
Đảng đã lần lượt được thể chế hóa và đưa vào thực hiện. Trong số các văn  
bản pháp lý   quan trọng   điều chỉnh  việc  hình  thành và  vận  hành  của  thị 
trường lao động  ở  nước ta, quan trọng nhất phải kể  đến là Bộ  Luật Lao  
động ( năm 1994), các Luật, Pháp lệnh, Nghị  định, Thông Tư  liên bộ  liên  
quan đến lao động, việc làm. Chỉ tính riêng từ  ngày 1/1/1995 đến nay, cùng  
với sự ra đời của Bộ Luật Lao động, đã có hàng trăm văn bản pháp quy liên  
quan đến thị  trường lao động được ban hành, về  căn bản đã tạo ra khung 
khổ pháp lý cho thị trường lao động ở Việt Nam.
Bộ  luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam, được ban hành năm 
1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/1995 với 198 Điều đã tạo thành nền tảng  
cho khung khổ  pháp lý của thị  trường lao động  ở  nước ta bằng việc công 
nhận quyền tự  do mua, bán sức lao động trên thị  trường. Điều 16 Bộ  luật 
Lao động đã ghi rõ: Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử 
dụng lao động nào và ở bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm; và người  
sử  dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ  chức dịch vụ 
việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với  

nhu cầu sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy quyền tự 
do tìm việc làm và quyền lựa chọn người làm việc cho mình – hai yếu tố cơ 
bản tạo ra quan hệ cung cầu cho thị trường lao động đã được Bộ  luật này  
xác nhận. 
Một điểm quan trọng nữa là Bộ  luật Lao động còn khẳng định khái 
niệm mới về  việc làm. Nếu như  trước đây, chỉ  có làm việc trong khu vực 
quốc doanh và tập thể  mới đựoc coi là việc làm, thì ngày nay Điều 13 của  
Bộ luật lao động đã chỉ rõ mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập và không bị 
pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm. Quy định này của Bộ  lao 
động đã giúp cởi bỏ những quan niệm cũa về  việc làm, thúc đẩy tinh thần  
tích   cực,   chủ   động   của   người   lao   động   trong   việc   tìm   kiếm   việc   làm, 
khuyến khích các chủ sử dụng lao động tạo công ăn việc làm mới, góp phần  
nâng cao tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động.
SVTH: 

11 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

Ngoài ra, Bộ  luật Lao động còn điều chỉnh nhiều mối quan hệ  quan 
trọng của thị  trường lao động và quan hệ  xã hội khác có liên quan như; các 
quy định về học nghề; về hợp đồng lao động; về tiền lương­ tiền công; về 
kỷ luật lao động; về an toàn vệ sinh lao động; về bảo hiểm xã hội; về quan 
hệ với công đoàn; về quản lý nhà nước đối với lao động,… Những quy định 
này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền có cơ  hội bình  
đẳng về  việc làm, và được trả  công bình đẳng của  các nhóm dân cư  khác 
nhau, bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động,  

quyền và các lợi ích hợp pháp của người sử  dụng lao động, tạo điều kiện 
cho mối quan hệ  lao động được hài hòa và  ổn định, góp phần phát huy trí 
sáng tạo và tài năng của người lao động, của người sử dụng và người quản  
lý lao động.
Ngoài Bộ Luật Lao động, các văn bản pháp quy khác có liên quan cũng  
được ban hành và áp dụng rộng rãi trong những năm gần đây. Trong đó, đáng 
chú ý nhất là Nghị  định 198/ CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ  quy định 
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số  điều của Bộ  luật Lao động về  hợp  
đồng lao động. Nghị  đinh 72/CP (ngày 31/10/1995) của Chính phủ  quy định 
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ  luật Lao động về  việc  
làm. Nghị đinh 72/CP có tầm quan trọng đặc biệt đối với thị trường lao động  
bởi đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm  
vụ, quyền hạn của các trung tâm dịch vụ  việc làm – một thể  chế  giao dịch  
không thể  thiếu của thị  trừong lao động. Các quy định về  bảo hiểm xã hội 
được   chi   tiết   hóa   tại  Nghị   định  12/CP  (ngày  26/1/1995)   của   Chính   phủ,  
Thông tư  06/LĐTBXH (ngày 4/4/1995) của Bộ  LĐ­TB­XH và thông tư  58­
TC/HCSN (ngày 24/7/1995). Liên quan đến vấn đề  dạy và học nghề, có  
Nghị   đinh   90/CP   (ngày   15/12/1995)   của   Chính   phủ   quy   định   chi   tiết   và 
hướng dẫn một số  điều của Bộ  luật Lao động về  dạy và học nghề; và  
Thông tư  số 20/LĐTTBXH­TT (ngày 21/9/1996) của Bộ LĐ­TB­XH hướng 
dẫn về  việc mở  và quản lý cơ  sở  dạy nghề. Các nghị  định 195/CP (ngày  
31/12/1994)   của   Chính   phủ   về   thời   gian   làm   việc,   nghỉ   ngơi;   Nghị   định 
196/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ  về  thỏa  ước lao  động tập thể; 
Nghị đinh 197/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ  về tiền lương… đều là 
những văn bản pháp lý quan trọng quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện  
một số điều của Bộ luật lao động. Đây chính là nền tảng pháp lý chế  định 
các quan hệ cung và cầu lao động, cho phép hình thành thị  trường lao động 
kiểu mới ở Việt Nam trong thời gian qua.
Ngoài ra, các luật hoặc văn bản pháp quy khác như  Nghị  đinh 66/CP,  
Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư  trong nước, luật khuyến 

khích đầu tư  nước ngoài, Bộ  Luật dân sự, Luật Đất đai… cùng với các 
chính sách kinh tế  ­ xã hội khác của Đảng và Nhà nước đều đã thực hiện  
góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tiềm năng lao động xã  
hội; trực tiếp hoặc gián tiếp có ảnh hưởng đến việc hình thành và vận hành 
của thị trường lao động ở nước ta trong những năm gần đây.
SVTH: 

12 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

3. Về đào tạo
Phát triền kinh tế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi người lao động phải 
có trình độ tay nghề nhất định. Nhận ra yêu cầu bức bách này, trong những 
năm gần đây, Nhà nước đã ngày càng chú trọng đến công tác đào tạo, bồi 
dưỡng tay nghề cho người lao động. Điều này cò thể nhìn thấy được thông  
qua những biến đổi của cơ cấu các nghề được đào tạo: nếu như  trước đây  
chỉ chú trọng đào tạo các nghề  như  cơ khí chế tạo, mộc, nề, sửa chữa, dân 
dụng… thì ngày nay hoạt động đào tạo đã mở rộng sang các ngành nghề mới 
như  điện tử, tin học, tài chính, quản trị  kinh doanh, các ngành nghề  truyền  
thống dân tộc,..v.v. Các hoạt động dạy và học nghề  được thực hiện không 
chỉ ở các trường, các lớp, mà còn được thực hiện ngay tại các doanh nghiệp.  
Các doanh nghiệp được khuyến khích đào tạo lao động tại chỗ, hoặc gửi 
người đi học tại  các cơ sở đào tạo trong hoặc ngoài nước.
Nhà nước có chính sách miễn giảm thuế cho các cơ  sở dạy nghề dành  
riêng cho người tàn tật, trẻ  mồ  côi không nơi nương tựa, người dân tộc  
thiểu số, đối tượng tệ nạn xã hội; miễn giảm thuế cho các cơ sở dạy nghề 

có dưới 10 học viên, dạy nghề theo hình thức kèm cặp tại xưởng, nhà máy  
(miễn thuế doanh thu, thuế lợi tức). Ngoài ra, Nhà nước còn giảm 50% thuế 
doanh thu cho các cơ  sở  dạy nghề  truyền thống, trạm, trổ, khảm trai, sơn  
mài, mây tre, gốm sứ, dệt lụa tơ  tằm. Bên cạnh đó sau khi thành lập lại 
Tổng  cục   dạy   nghề   (trực   thuộc   Bộ   Lao   Động­Thương   binh   và   Xã   hội) 
Chính phủ  đang chỉ  đạo việc hoàn thiện và tăng cường công tác dạy nghề 
nhằm làm cho công tác dạy nghề gắn liền với lao động và việc làm đáp ứng  
yêu cầu phát triển kinh tế­xã hội trong giai đoạn tới. Về mặt lý thuyết, đào  
tạo và bồi dưỡng, nâng cao kỹ  thuật, tay nghề  vốn được coi là một trong  
những chính sách phát triển thị  trường lao động chủ  động quan trọng nhất.  
Việc Nhà nước ta chú trọng chính sách đào tạo là điều kiện thuân lợi để thị 
trường này có thể phát triển trong tương lai.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG 
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I. Thực trạng cung cầu lao động cả nước
Thị trường lao động nước ta phát triển không đồng đều, quan hệ cung­
cầu lao động giữa các vùng, các khu vực, ngành nghề  mất cân đối nghiêm 
trọng. Theo báo cáo về thực trạng cung cầu lao động, lực lượng lao động cả 
nước hiện có trên 48 triệu người, trong đó, 73% số  lao động tập trung  ở 
nông thôn. Trong 47 triệu lao động có việc làm, có tới 70% lao động có việc 
làm không  ổn định, dễ  bị  tổn thương và rơi vào nghèo đói, chủ  yếu là lao 
động tự do hoặc làm việc trong gia đình không hưởng lương. Lao động làm  
việc trong các khu vực cũng có sự chênh lệch lớn. Chỉ có 4 triệu người kiếm 
được việc làm tại khu vực nhà nước, 1,67 triệu người làm việc ở  khu vực  
SVTH: 

13 
 



THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tới 
40 triệu người. Dù chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất, nhưng khối kinh tế ngoài 
nhà nước chỉ đóng góp 47% GDP và 35% giá trị sản xuất công nghiệp, trong  
khi khối khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp gần 19% GDP và gần  
45% giá trị  sản xuất công nghiệp. Chính sự phát triển, phân bố không đồng 
đều khiến thị  trường lao động rơi vào tình trạng “thừa mà thiếu”. Nhiều  
doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, kể cả lao 
động qua đào tạo và lao động phổ thông. Theo báo cáo của các địa phương,  
tình trạng lao động không có việc làm vẫn  ở  mức cao trong khi nhu cầu  
tuyển dụng hiện nay rất lớn. 
Cụ thể như ở Đồng Nai, hàng năm địa phương này thiếu hụt 20.000 lao 
động (5.000 lao động đã qua đào tạo và 15.000 lao động phổ  thông). Còn  ở 
Thành phố  Hồ  Chí Minh, từ  đầu năm đến nay, có trên 23.000 lao động mất 
việc làm, nhưng nhu cầu tuyển dụng lên đến trên 61.000 người. Tại Bình 
Dương, số  lao động cần tuyển là gần 42.000 người, Cần Thơ  cần 5.212  
người, Vũng Tàu cần khoảng 5.000 người. Kết quả  tổng hợp từ  các trung 
tâm giới thiệu việc làm và sàn giao dịch việc làm trên cả  nước cũng cho  
thấy, năm 2009 có trên 100.000 chỗ  làm cần tuyển người. Tuy nhiên, số 
người đến đăng ký tuyển dụng chỉ  bằng 17% nhu cầu này,  trong đó số 
người đáp  ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng chỉ  chiếm khoảng 6%.  
Trong số vị trí tuyển, có đến 80% là nhu cầu lao động phổ thông, chủ yếu là 
các doanh nghiệp may mặc, giầy da, chế biến nông, lâm sản. Chất lượng lao  
động qua đào tạo thấp dẫn đến hệ  quả  là nguồn cung lao động không đáp  
ứng nhu cầu. Chỉ khoảng 30%­40% sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm 
ngay, số còn lại phải đào tạo bổ sung kiến thức, kỹ năng. 
Sắp bước sang quý  2 của năm 2010, nhưng việc việc tuyển dụng lao  

động của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả 
nước vẫn đang ở tình trạng cung không đủ cầu.
Theo ý kiến chung của nhiều cán bộ nhân sự  tại các khu công nghiệp,  
khu chế xuất trên địa bàn Hà Nội và Hưng Yên đều cho rằng, “chưa bao giờ 
tuyển lao động lại khó như thời điểm này”. Tình trạng “khủng hoảng” thiếu 
công nhân ở mức báo động đã làm ảnh hưởng trầm trọng đến kế hoạch sản 
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Khảo sát gần 90 doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch việc làm Hà Nội 
trong ngày 10/3 với nhu cầu tuyển 3.500 lao  động nhưng kết quả  doanh 
nghiệp chỉ tuyển được 312 lao động có nghề và 78 lao động phổ thông. Phụ 
trách nhân sự của Công ty Cổ phần May Hưng Long  ở Phố Nối, Hưng Yên 
cho biết: công ty đang có nhu cầu từ 300 đến 500 lao động phổ thông và sẵn 
sàng chu cấp chi phí ăn,  ở  trong 3 tháng để  dạy nghề  cho lao động mới 
nhưng chỉ mới tuyển được hơn 200 người. Được biết, đây là công ty may có  
mức thu nhập vào loại cao (lương bình quân của người lao động đạt 3 triệu  
SVTH: 

14 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

đồng/tháng, thưởng Tết cuối năm 2009, công nhân có năng suất lao động 
trung bình cũng đạt 9 triệu đồng/người). 
Nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu đồ gỗ nội thất ở Hà Nội cũng 
lâm vào cảnh lao đao, chạy đôn chạy đáo tìm lao động phổ  thông, thợ  có 
nghề. 
Còn tại các khu công nghiệp tỉnh Long An, theo bà Nguyễn Thị Hương, 

Phó trưởng phòng Quản lý lao động của Ban quản lý các khu công nghiệp, 
các nhà máy sản xuất  ở  các khu công nghiệp trong tỉnh đang gặp khó khăn  
thiếu hơn 10.000 lao động cho 6 tháng đầu năm 2010. Điều này đã làm ảnh  
hưởng không nhỏ đến việc phát triển sản xuất của các nhà máy năm 2010. 
Tình trạng thiếu lao động chủ  yếu tập trung  ở  ngành dệt, may. Điển 
hình như Công ty Cổ phần Công thương Astagolden (Khu công nghiệp Đức 
Hòa 3); Công ty TNHH Túi xách Simone (Khu công nghiệp Long Hậu (Cần 
Đước); Công ty TNHH Giày Giai Hiệp (Khu công nghiệp Đức Hòa 1); Công  
ty dệt Kim Đông Phương (Khu công nghiệp Xuyến Á) đang thiếu từ  100­
500 công nhân. Công ty TNHH Giày Ching­luh Việt Nam (Khu công nghiệp 
Thuận Đạo, huyện Bến Lức) có tới 23.000 lao động, nhưng sau tết công  
nhân bỏ  nghỉ, hiện nay thiếu 5% lao động  ở  khâu may. Đó là chưa kể  các  
khu công nghiệp  ở huyện Đức Hòa, Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc đang 
chuẩn bị đi vào hoạt động trong quý 2/2010 nhưng vẫn chưa có lao động...
II. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là 
trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam.
Thành   phố   Hồ   Chí   Minh  tọa   độ  10°10'   –   10°38'   Bắc   và   106°22'   – 
106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, 
Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa ­ Vũng 
Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh  Long An  và  Tiền Giang. Nằm trong vùng 
chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, thành 
phố  Hồ  Chí Minh  hình thành nhờ  công cuộc khai  phá miền Nam của nhà 
Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự 
ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để  phục vụ  công cuộc 
khai thác thuộc địa, thành phố  Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát 
triển, trở  thành một trong hai đô thị  quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh 
danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ  đô của 
Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887­1901. Năm 1954, Sài Gòn trở  thành 
thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong 

những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ 
năm  1975, lãnh thổ  Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày  2 tháng 7  năm 
1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành 
"Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa.
SVTH: 

15 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

Thành phố  Hồ  Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng  
diện tích 2.095,01  km². Theo kết quả  điều tra dân số  chính thức vào thời  
điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người 
(chiếm 8,30% dân số  Việt Nam),  mật độ  trung bình 3.401 người/km². Tuy 
nhiên nếu tính những người cư  trú không đăng ký thì dân số  thực tế  của 
thành phố vượt trên 8 triệu người. Giữ  vai trò quan trọng trong nền kinh tế 
Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 20,2 % tổng sản phẩm và 27,9 % 
giá trị sản xuất công nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận  
lợi, nằm ở miền Nam Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 
km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ  biển Đông 50 km theo 
đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực  Đông Nam Á, thành phố 
Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường 
thủy và đường không trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt 
Nam và Đông Nam Á.Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du 
lịch quốc tế, tức 70 % lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực  giáo dục, 
truyền thông, thể thao, giải trí, thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan 

trọng bậc nhất.
Thành phố Hồ  Chí Minh giữ  vai trò đầu tàu kinh tế  của cả  Việt Nam. 
Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm 
tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị  sản xuất công nghiệp và 34,9% dự 
án nước ngoài. Vào năm  2005, thành phố  Hồ  Chí Minh có 4.344.000 lao 
động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham  
gia làm việc. Năm  2008, thu nhập bình quân đầu người  ở  thành phố  đạt  
2.534 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm.
Nền kinh tế của thành phố Hồ  Chí Minh đa dạng về  lĩnh vực, từ  khai  
mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài 
chính... Cơ  cấu kinh tế  của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, 
ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước 
ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần  
còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và  
thủy sản chỉ chiếm 1,2%. 
Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp thành 
phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án 
có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ  USD và 19,5 nghìn 
tỉ  VND. Thành phố  cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn   đầu tư  trực 
tiếp nước ngoài với 2.530 dự  án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm  
2007. Riêng trong năm 2007, thành phố  thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ 
USD.
Về  thương mại, Thành phố  Hồ  Chí Minh có một hệ  thống trung tâm 
mua sắm, siêu thị, chợ  đa dạng. Chợ  Bến Thành là biểu tượng về  giao lưu 
thương mại từ  xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ  một vai trò quan  
trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất 
SVTH: 

16 
 



THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

hiện như  Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của thành phố 
Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp  
1,5 lần thủ đô Hà Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, 
có mã giao dịch là VN­Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến 
ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được  
niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ 
đồng.
Tuy vậy, nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với 
nhiều khó khăn. Toàn thành phố  chỉ  có 10% cơ  sở  công nghiệp có trình độ 
công nghệ  hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ  sở  ngành dệt may, 4/40 cơ  sở 
ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm,  
18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ 
thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ  tầng của thành phố  lạc hậu, quá tải, chỉ 
giá tiêu dùng cao, tệ  nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn  
cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh 
vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
III. Thực trạng cung cầu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh
1. Về cung lao động
1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng
Theo quy định của Bộ luật Lao động, ở Việt Nam, độ tuổi lao động bao  
gồm những người từ 15 đến 60 tuổi đối với nam, và 15 đến 55 tuổi đối với 
nữ. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 thành phố Hồ Chí Minh có  
dân số  7.123.340 người , gồm 1.812.086 hộ  dân, bình quân 3,93 người/hộ. 
Phân theo giới tính: Nam có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415  
người chiếm 51,9% . Dân số  thành phố  tăng nhanh, trong 10 năm từ  1999­

2009   dân   số   thành   phố   tăng   thêm   2,086.185   người,   bính   quân   tăng   gần 
209.000 người/năm, tốc độ  tăng 3,53%/năm, chiếm 22% số  dân tăng thêm 
của cả  nước trong vòng 10 năm.  Thành phố  Hồ  Chí Minh   có nguồn nhân 
lực 4,7 triệu người. Tông sô lao đông đang lam viêc co 3,3 triêu ng
̉
́
̣
̀
̣
́
̣
ươi, t
̀ ổng  
số  người đến tuổi lao động hàng năm bao gồm người  ở  tại thành phố  và 
người ở từ các tỉnh, thành phố khác chuyển đến có nhu cầu đào tạo nghề và 
tìm việc làm có trên 300.000 người. Tỷ  lệ  lao động thất nghiệp năm 2009 
của thành phố bình quân ở mức 5,4%.
Các chỉ tiêu về lao động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm  
2010
Đơn vị tính: người

Chỉ tiêu
SVTH: 

2005

2010

Tốc   độ   tăng 
bình quân 2006­

2010 (%)

17 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

DÂN SỐ 

6.239.938

7.200.000

2,90

A.   NGUỒN   LAO 
ĐỘNG

3.981.375

4.625.360

3,04

1. Số  người trong tuổi 
lao động

3.964.160


4.618.000

3,10

­ Mất sức lao động

68.515

76.680

2,28

­ Có khả năng lao động

3.895.645

4.541.320

3,11

2.   Ngoài   tuổi   có   tham 
gia lao động

85.730

84.040

­0,40


­ Trên tuổi lao động

58.230

57.100

­0,39

­ Dưới tuổi lao động

27.500

26.940

­0,41

 

 

 

việc

2.676.420

3.184.000

3,53


a.   Khu   vực   I   (nông   ­ 
lâm nghiệp ­ thủy sản)

145.282

121.000

­3,59

b.   Khu   vực   II   (công 
nghiệp ­ xây dựng)

1.226.932

1.468.000

3,65

     Công   nghiệp   ­   tiểu 
thủ công nghiệp

1.033.271

1.263.700

4,11

    Xây dựng

193.661


204.300

1,08

c. Khu vực III (dịch vụ)

1.304.206

1.595.000

4,11

    Thương mại

408.425

519.200

4,92

B.   PHÂN   PHỐI   LAO 
ÐỘNG 
1. Lao động đang làm 

SVTH: 

18 
 



THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

    Dịch vụ

895.781

1.075.800

3,73

2. Học sinh

432.585

515.270

3,56

3. Nội trợ

527.020

590.140

2,29

4. Chưa có việc làm


345.350

335.950

­0,55

Trong đó: Thất nghiệp

245.690

232.000

­1,14

Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế
1.2 Cung lao động xét từ giác độ chất lượng
- Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng:
Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 46% lao động qua đào tạo và 
tỷ lệ này ở cả nước chỉ khoảng 30%. Trong khi đó, ở các nước châu Âu, tỷ 
lệ học sinh theo học trường nghề lên đến 56%, các nước châu Á trung bình  
50%. Do đó, việc phát triển, mở  rộng nâng cao chất lượng đào tạo  ở  các 
trường nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề là rất cần thiết.
­ Trình độ học vấn của người lao động:
Năm 2004,  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh tỷ  lệ  nhập học  ở  các cấp giáo  
dục là 75%. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành là 93,2%, HDI 0,814.
­ Tình trạng thể lực của lao động:
Người lao động Việt Nam có thể  lực kém, thể  hiện qua các chỉ  số  về 
cân nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Cụ  thể, trong khi chiều cao trung  
bình của người lao động Việt Nam là 1,47 m; cân nặng 34,4 kg thì các con 
số tương ứng của người Philippin là 1,53m; 45,5 kg; người Nhật là 1,46 m;  

53,3 kg.
­ Kỷ luật lao động của người lao động:
Đại bộ phận người lao động hiện nay của thành phố Hồ Chí Minh còn 
chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và 
hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức kỹ năng làm việc 
theo nhóm, không có khả  năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy  
sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Điều này có thể thấy rõ qua hiện 
tượng các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( trong các khu chế xuất, khu  
công nghiệp), phải mất hàng tháng chỉ  để  đào tạo tác phong cho công nhân 
mới được tuyển đến làm việc tại xí nghiệp.
SVTH: 

19 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

Nhiều vụ  việc mâu thuẫn chủ  ­ thợ  tại các xí nghiệp liên doanh, xí 
nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài có nguồn gốc ban đầu từ  những vụ  vi 
phạm kỷ luật lao động công nghiệp, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản  
thân người lao động.
1.3 Thực trạng cung lao động thành phố năm 2010
Tháng 5­2010, chỉ  số  cung nhân lực cũng giảm 21,53% so với tháng 4 
do lực lượng lao động của các tỉnh, thành phố  khác vào tìm việc tại thành  
phố  Hồ  Chí Minh cũng giảm nhiều so với các năm trước. Sự  thiếu hụt lao 
động và dịch chuyển lao động vẫn tiếp tục xảy ra, khả năng nguồn cung chỉ 
đáp  ứng được từ  65%­75% tổng nhu cầu việc làm, đặc biệt vẫn thiếu hụt  
trên 50% lao động phổ  thông, sơ  cấp nghề. Trước đây, do thiếu việc làm, 

thu nhập  ở các đô thị  cao hơn nên dòng chảy lao động nhập cư  chỉ  có một  
hướng duy nhất đổ  dồn về các thành phố lớn, nhất là ở  phía Nam, đặc biệt 
là thành phố Hồ Chí Minh. Còn bây giờ  ở  phía Bắc, miền Trung, người lao 
động có thể tìm được việc làm tại chỗ hoặc các khu vực lân cận mà không  
cần xa nhà do nhiều KCN mới mọc ra, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã khởi 
động đi vào hoạt động.
Lý do nữa là một phần vì cuối năm 2008 và đầu năm 2009, nhiều công  
ty quá khó khăn đã cho công nhân nghỉ việc, công nhân đã đi tìm công ty khác  
để  có việc làm mới hay chuyển sang các ngành dịch vụ  khác. Hiện nay,  
doanh nghiệp sau khi có đơn hàng trở lại đã không còn đủ công nhân để thực 
hiện. Vì vậy, dấu hiệu thiếu lao động hiện nay còn nặng nề  hơn so với  
trước khi xảy ra suy thoái kinh tế.
Ngoài ra, theo đánh giá chung của cơ  quan quản lý lao động và trung  
tâm giới thiệu việc làm, việc khan hiếm lao động phổ thông còn do nhiều lý  
do như: mức sống  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh hiện quá cao, trong khi mức  
lương chưa tăng tương xứng; tiền lương của công nhân không đáp  ứng đủ 
cho các khoản chi phí như chỗ trọ, tiền ăn…
Khảo sát tại 1156 doanh nghiệp với trên 18.700 nhu cầu tuyển dụng 
trong tháng 5­2010 cho thấy, trên 75% người tìm việc làm có kinh nghiệm từ 
1 năm trở  lên với mức lương mong muốn trên 5 triệu đồng/tháng. Đối với  
lao động phổ  thông, sơ  cấp nghề, nhu cầu tìm việc làm cũng mong muốn  
mức lương từ 2– 3 triệu/tháng trở lên. Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng lao  
động phổ thông, sơ cấp đa số ở mức lương trung bình và thấp, khoảng từ 2  
triệu/tháng trở xuống. Khi mức lương chưa tương xứng với công sức người 
lao động bỏ  ra thì họ  không mặn mà với công việc và doanh nghiệp không  
tuyển đủ là điều dễ hiểu. 
Ngoài ra, doanh nghiệp ít quan tâm đến người lao động, nhiều doanh 
nghiệp cho công nhân tăng ca, làm thêm giờ  nhưng trả  lương không đúng  
luật, nhiều doanh nghiệp trả lương thấp hơn mức tối thiểu được quy định,  
vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp chỉ tuyển lao động theo thời vụ mà  

SVTH: 

20 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

không ký hợp đồng nhằm né tránh các khoản bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã  
hội… khiến người lao động lo ngại và không mặn mà với công việc.
  Nhìn chung thị  trường lao động tại thành phố  Hồ  Chí Minh vẫn có 
những nghịch lý. Trong khi nguồn lao động phổ thông chỉ đáp ứng được 50%  
nhu cầu tuyển dụng thì nguồn lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn  
cao (từ  trung cấp trở lên) lại phải đi tìm việc làm mới hoặc đi tìm công việc 
có điều kiện làm việc và thu nhập khá hơn.
2. Về cầu lao động
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có trên 50.000 doanh nghiệp, trong đó 
doanh nghiệp trong nước chiếm 92%; các cơ  sở  kinh doanh cá thể  có trên  
340.000 cơ  sở, trong đó các cở  sở  hoạt động lĩnh vực thương mại dịch vụ 
chiếm 87%. Vì vậy, nhu cầu về lao động trong những năm tới tại thành phố 
là rất lớn.
Lao động mất việc là vấn đề  “nóng” được dư  luận xã hội quan tâm  
một thời gian dài. Nhưng giờ  đây, khi một số  ngành sản xuất có dấu hiệu 
hồi phục, thành phố Hồ Chí Minh lại đối diện với tình hình thiếu hụt trầm  
trọng lao động, đặc biệt là lao động phổ thông và công nhân kỹ thuật. Trung  
tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động thành phố Hồ 
Chí Minh đã khảo sát 27.000 doanh nghiệp về thực trạng sử dụng lao động. 
Thị  trường lao động thành phố  Hồ  Chí Minh năm 2010 sẽ  chứng kiến sự 
chuyển biến tích cực về  cơ  cấu ngành nghề  và cơ  cấu nguồn nhân lực do  

bước đầu vượt qua thời kỳ  khó khăn về  kinh tế  và việc làm. Nhiều doanh 
nghiệp thường xuyên có nhu cầu tuyển dụng lao động kể cả lao động quản 
lý, có chuyên môn kỹ thuật và lao động phổ thông để đào tạo gắn bố trí việc  
làm tại doanh nghiệp.
Theo Phó Giám đốc Trung tâm Dự  báo nhu cầu nhân lực và Thông tin  
thị   trường   lao   động   thành   phố 
Hồ Chí Minh Trần Anh Tuấn, dự 
kiến năm 2010, thành phố có nhu 
cầu nhân lực  là  280.000  người. 
Xu hướng phát triển theo cơ cấu 
16     nhóm   ngành   nghề   chính, 
trong đó có 10 nhóm ngành nghề 
chiếm hơn 80%. Các nhóm ngành 
này gồm: may ­ dệt ­ giày da ­ 
thủ   công   mỹ   nghệ;   công   nghệ 
thông   tin   ­   viễn   thông   ­   điện,  Nhiều công nhân đã có việc làm sau 
điện   tử   ­   điện   công   nghiệp   ­ 
thời gian sản xuất bị ngừng trệ
điện  lạnh;   quản  lý   ­   quản   trị   ­ 
hành chính văn phòng; cơ khí ­ xây dựng ­ giao thông vận tải ­ hàng hải; tài  
chính ­ ngân hàng ­ kiểm toán ­ bảo hiểm; du lịch ­ môi trường ­ nhà hàng ­ 
SVTH: 

21 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN


khách sạn; kiến trúc ­ thiết kế ­ giấy, bao bì ­ xuất bản; marketing ­ dịch vụ 
tư vấn; y khoa, y tế ­ mỹ phẩm ­ dược; phục vụ, bán hàng.
Trong năm 2010, nhu cầu về lao động có trình độ trên đại học là 1,06%; 
 Đại học khoảng 7,48%; CĐ chuyên nghiệp, CĐ nghề 5,35%; TCCN ­ trung 
cấp nghề  10,27%; CN kỹ  thuật lành nghề  0,67%, còn lại là sơ  cấp nghề 
(17,55%) và LĐ chưa qua đào tạo chiếm 27,62%.
Thị  trường nhân lực 2010 sẽ  có xu hướng tăng mạnh nhu cầu về  lao 
động giản đơn, công nhân kỹ thuật. Theo đó, ngành dệt may, giầy da có nhu  
cầu tuyển dụng lao động lớn nhất (18,79%), tiếp theo là công nghệ  thông  
tin, viễn thông (7,75%). Một số  nhóm ngành có nhu cầu tương đương nhau 
là điện, điện tử, điện công nghiệp; cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải; du 
lịch, môi trường…
Một số nghề “nóng” như tài chính, ngân hàng, kiểm toán bình ổn ở tốp  
giữa với nhu cầu lao động chiếm 6,83%. Nhóm ngành nông, lâm, ngư, thuỷ 
sản có nhu cầu “khiêm tốn” nhất (1,55%).
Ông Trần Anh Tuấn cho biết: “Năm 2010, nhu cầu về lao động tại các 
khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp sản xuất rất lớn. Kết quả 
khảo sát cho thấy, nhu cầu công nhân kỹ  thuật lành nghề lớn nhất (30,7%), 
sau đó là lao động phổ thông và sơ cấp nghề”.
Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố cũng đưa ra đánh giá khái quát  
về trình độ lao động. Lao động được đánh giá cao về trình độ cơ  bản, nắm 
vững chuyên môn ngành nghề được đào tạo, khả  năng thích nghi, hoà nhập 
với công việc cao. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho rằng lao động trẻ còn 
thiếu kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ, tin học chưa đáp ứng được yêu cầu.
Ngoài nắm vững kiến thức cơ bản của nghề được đào tạo; nắm vững 
chuyên môn kỹ  thuật của công việc thực tế  thì các doanh nghiệp, đơn vị 
tuyển dụng cũng rất chú trọng vào khả năng thích nghi thực tế; thái độ  cầu 
tiến; tác phong năng động; có kỹ  thuật cao; có ý thức trách nhiệm; sự  sáng 
tạo… của người lao động làm tiêu chí đánh giá hàng đầu trong việc lựa chọn  
lao động làm việc tại doanh nghiệp.

Xu hướng phát triển về cơ cấu ngành nghề ­ việc làm của thị  
trường lao động thành phố Hồ Chí Minh 2009 ­ 2010
 STT

Ngành nghề

Tỷ trọng(%)

1

Công nghệ Thông tin ­ Viễn thông

7,75

2
SVTH: 

lạnh

Điện  ­   điện   tử   ­   điện  công  nghiệp   ­   điện 

6,82

22 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN


Hóa ­ Hóa thực phầm ­ Hóa chất ­ Hóa dầu

3
4

Cơ  khí ­ Xây dựng ­ Giao thông vận tải ­ 
Hàng hải
San xuât đô gô, trang tri nôi thât
̉
́ ̀ ̃
́ ̣
́

5
6

bản

Giao duc – Đao tao
́ ̣
̀ ̣

7
8

hiêm
̉

11
12


saṇ

7,36
2,07
6,42
3,08

Tài   chính   ­   Ngân   hàng  –   Kiêm
̉   toan 
́ –   Baỏ  

Y khoa ­ Y tế ­ Mỹ phẩm ­ Dược

9
10

Kiến trúc ­ Thiết kế  ­ Giây bao bì ­ Xu
́
ất 

3,15

Du lịch – Môi trường – Nhà hang – Khach
̀
́  

Marketing – Dich vu t
̣
̣ ư vâń

Quản   lý   ­   Quản   trị   ­   Hành   chánh   –   Văn 
phong
̀

6,83
4,56
6,45
6,16
7,60

13

Phục vụ va ban hang
̀ ́ ̀

5,18

14

Nông ­ Lâm ­ Ngư – Thuy san
̉
̉

1,55

15

May dệt – Giay da ­ Th
̀
ủ công mỹ nghệ


18,79

16

Các ngành nghề khác

6,43

 

Tổng cộng

100,00

SVTH: 

23 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

2.1 Thực trạng cầu lao động quý I năm 2010
Theo  Sở   LĐ­TB&XH   TP   Hồ   Chí  Minh,   từ   đầu  năm  2010  đến  nay, 
thành phố  đã tạo việc làm cho 59.400 lao động, trong đó có 21.500 chỗ  làm 
mới.
Tuy nhiên, con số nay vẫn rất ít so với nhu cầu tuyển lao động của các  
doanh  nghiệp.  Chỉ  tính riêng  quý  1,  thành  phố  thiếu  khoảng  100.000 lao 

động, trong đó tập trung nhiều nhất  ở lĩnh vực may mặc, giày da, chế biến  
nông hải sản… Tình trạng thiếu lao động đã làm cho nhiều doanh nghiệp 
không dám ký nhiều hợp đồng sản xuất, gia công hàng có quy mô và giá trị 
lớn khách hàng nước ngoài.
Theo Công ty giày Gia Định, trước Tết Canh Dần, công ty có trên 1.000 
công nhân làm việc nhưng hiện nay chỉ  còn khoảng 600 người. Lãnh đạo 
công ty đang lo thiếu nguồn lao động trầm trọng trong những tháng tới.
Tương   tự,   các   doanh   nghiệp   may   cũng   đang   thiếu   hàng   nghìn   công 
nhân. Tổng công ty CP may Nhà Bè đang có nhu cầu tuyển thêm 2.000 lao  
động. Công ty may Tân Việt cần tuyển 1.200 lao động… Các doanh nghiệp  
ở các KCX­KCN đang cần tuyển trên 10.000 lao động làm việc trong các nhà  
máy lắp ráp điện tử, dệt, may và chế biến thực phẩm...
Theo Trung tâm dự  báo nhu cầu nhân lực và thông tin trhị  trường lao  
động thành phố  Hồ  Chí Minh, hàng trăm doanh nghiệp  ở  các KCX­KCN và 
các quận huyện trên địa bàn thành phố  đang thông qua hệ  thống các trung 
tâm giới thiệu việc làm, các trường đào tạo nghề, các mạng thông tin việc 
làm… để tìm kiếm, tuyển chọn công  nhân.
Để thu hút lao động, nhiều doanh nghiệp đã đưa ra các chính sách, chế 
độ   ưu đãi, mức lương hấp dẫn. Tổng công ty CP may Nhà Bè đưa ra mức  
lương tối thiểu 2 triệu đồng/tháng/công nhân; lao động không biết may sẽ 
được   đào   tạo   nghề,   trả   tiền   ăn   và   hổ   trợ   đào   tạo   1.200.000 
đồng/người/tháng.   Công  ty   may   Tân   Việt   đang   cần  tuyển   hơn   1.200  lao 
động với mức lương từ  1,3 – 3 triệu đồng/người/tháng tùy theo tay nghề.  
Ngoài ra, công ty cũng đưa ra các chính sách hấp dẫn như thưởng theo hiệu  
quả công việc, đài thọ cơm trưa và ăn giữa ca, thưởng chuyên cần…
Tuy nhiên, tình hình thiếu hụt lao động của các doanh nghiệp hiện vẫn  
chưa được cải thiện. Theo một số chuyên gia về  lao động, nguyên nhân do  
nhiều địa phương đang xuất khẩu lao động và hầu hết các tỉnh, thành phố 
trên cả nước điều mở KCN. Công nhân trở về quê làm việc nhiều nên doanh 
nghiệp ở  những thành phố lớn khó tuyển dụng. Bên cạnh đó, mặt bằng giá  

cả  ở thành phố ngày càng đắt đỏ  trong khi đồng lương của người lao động  
tăng không đáng kể, khiến đời sống của công nhân rất khó khăn.
   Một nguyên nhân khác, trong quý 1, thành phố Hồ Chí Minh có thêm 
khoảng 6.000 doanh nghiệp trong nước và 74 doanh nghiệp có vốn đầu tư 
SVTH: 

24 
 


THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC 
TUẤN

nước ngoài mới được cấp phép hoạt động. Điều này càng làm cho nhu cầu 
lao động tăng lên và tình trạng thiếu hụt lao động trầm trọng thêm.
2.2. Thực trạng cầu lao động quý II năm 2010
Thị  trường lao động năm 2010 sôi động trong tuyển dụng không phải 
do thiếu nhiều mà có cả  lý do tuyển dụng để  thay thế  những nhân lực đã  
không còn phù hợp với vị trí công việc, buộc phải thay thế. Vì vậy, nhu cầu  
tuyển dụng lại càng lớn. Nhận định của thành phố Hồ Chí Minh, quý II năm 
2010, thiếu 110.000 người lao động. Trong đó, nguồn lao động được phân 
bổ rõ ràng về trình độ như  40% nhu cầu lao động chuyên môn cao, 20% lao  
động có trình độ  cao đẳng, trung cấp và 40% lao động sơ  cấp, phổ  thông. 
Điều đó, có nghĩa là nhu cầu về lao động phổ  thông không nhiều, thậm chí  
thấp so với nhu cầu lao động có trình độ trên phổ thông. 
Dự  báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị  trường lao động thành phố 
Hồ  Chí Minh cho biết, trong tháng 5­2010, Tình trạng thiếu hụt lao động  
phổ  thông tại thành phố  Hồ  Chí Minh trong tháng 5 vẫn tiếp tục diễn ra  
nhưng sẽ  không cao như  trong quý một vừa qua. Nhu cầu nhân lực toàn 
thành phố  giảm tới trên 24,5% so với tháng trước đó. Trên thực tế, nhiều  

Doanh Nghiệp tuyển lao động nhưng số chỗ việc làm trống thì ít hơn những 
tháng trước và đa phần là  ở  những vị  trí có trình độ  nghề  chuyên môn và  
chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm. Nhu cầu nhân lực trình độ  sơ  cấp 
nghề,   lao  động   phổ   thông  chiếm  tỷ   lệ   40%,   tập  trung   vào  những  nhóm  
ngành nghề  như  dịch vụ, gia công sản xuất, lắp ráp thiết bị, may, giày da, 
chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và buôn bán lẻ. Ông Trần Anh Tuấn,  
Phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao  
động thành phố Hồ Chí Minh, cho biết năm nghề có nhu cầu tuyển dụng lao  
động nhiều nhất trong tháng Tư  gồm nhựa­bao bì, cơ  khí­luyện kim, điện 
tử­viễn thông, marketing­nhân viên kinh doanh, dệt may­giày da.
 Một số ngành có chỉ số cầu nhân lực cao trong quý II vẫn là dệt may,  
giày   da   (24,92%);   marketing,   nhân   viên   kinh   doanh   (15,44%);   bán   hàng 
(7,38%); giao thông vận tải; xây dựng (9,92%);.... Các ngành kế  toán kiểm  
toán, tài chính, ngân hàng, chủ yếu tập trung tuyển trình độ đại học, trên đại  
học và có kinh nghiệm. Nguồn cung tập trung nhiều nhất  ở các nhóm ngành  
như kế toán­kiểm toán (37%), quản lý nhân sự­hành chính văn phòng (17%),  
marketing­nhân viên kinh doanh (8,5 %) và công nghệ thông tin (5,2 %).
2.3 Dự báo cầu lao động quý III năm 2010
Tháng 6­2010 và quý III­2010, thị  trường lao động sẽ  có xu hướng  ổn 
định trở lại. Nhu cầu tuyển dụng lao động của các DN tăng so với tháng 5­
2010 khoảng 15­20% do các DN chuẩn bị  công việc sản xuất kinh doanh 6  
tháng cuối năm. Nhu cầu tuyển lao động phổ thông, sơ cấp vẫn tiếp tục cần  
số lượng lớn cho các ngành dệt may, giày da, điện tử, chế biến thực phẩm,  
chế biến nông sản, thủy sản, vệ sinh công nghiệp, phục vụ ăn uống và bán 
SVTH: 

25 
 



×