Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Tiểu luận: Khái quát về kinh doanh bảo hiểm & pháp luật kinh doanh bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.97 KB, 49 trang )

KHÁI QUÁT  VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM & PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM.

Phần I : TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM – PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
I. KHÁI NIỆM KINH DOANH BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM. 
1/ Khái niệm chung về bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm 
Dù phương thức sản xuất nào, con người và tài sản cũng luôn bị đe doạ bởi thiên tai  
và các tai biến bất ngờ phát sinh ngay trong hoạt động của con người. 
Dù muốn hay không nhiều loại rủi ro đã xuất hiện vẫn tồn tại và sẽ  còn chi phối  
đến cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, DN và toàn xã hội. Chính sự tồn tại của rủi ro 
là nguồn gốc phát sinh tồn tại của bảo hiểm. Nguyên nhân gây ra những rủi ro là yếu tố tự 
nhiên, kỹ thuật và yếu tố xã hội khác. Suốt trong lịch sử của mình, loài người đã phải chịu 
đựng và chứng kiến biết bao hiểm hoạ, nào là động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, sóng  
thần, dịch bệnh, chiến tranh, tai nạn giao thông, hoả hoạn, phóng xạ, ô nhiễm. .. 
Rủi ro, hiểm hoạ  bất ngờ  xảy ra không biết trước về  thời gian, địa điểm, quy mô, 
mức độ  thiệt hại, điều đó  ảnh hưởng đến cuộc sống, cũng như  quá trình sản xuất kinh  
doanh  ở  từng cá nhân, gia đình, tổ  chức và cũng  ảnh hưởng đến sự   ổn định chung của xã 
hội. Đứng trước thực trạng đó, con người luôn có những hành động tích cực, chủ  động để 
ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả  những tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra với  
tất cả khả năng của mình, nhằm giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại để sớm phục hồi  
quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống. Các biện pháp phổ  biến được con người sử 
dụng là:
­Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp do con người sử dụng do nhận thức được quy 
luật của tự  nhiên như  đắp đê chống lũ, trồng rừng phòng hộ, xây dựng các trạm phòng  
cháy, xây dựng hệ thống dự báo thời tiết… 
­Biện pháp cứu trợ: biện pháp này được thực hiện khi đã có rủi ro xảy ra để  khắc  
phục hậu quả của rủi ro. Biện pháp này có thể do chính quyền nhà nước thực hiện hoặc do 
các tổ  chức, cá nhân thực hiện trên tinh thần nhân đạo và mang tính tự  nguyện nhằm giúp  
đỡ các tổ chức, cá nhân gặp rủi ro khắc phục các hậu quả.
 ­Biện pháp dự trữ ­ bảo hiểm: Bảo hiểm là biện pháp phòng xa để nhằm hạn chế 
tới mức thấp nhất những rủi ro gây ra. Mần mống của bảo hiểm có từ  xa xưa khi con  
người chưa biết đến bảo hiểm nhưng họ đã có ý thức được việc làm cần thiết để bảo đảm  


cho sự  sinh tồn như  dự  trữ  lương thực, vật nuôi trong ngày săn bắn được nhiều để  dùng 
cho những ngày mưa rét không đi săn bắn và hái lượm được. Đó là là những dấu hiệu đầu 
tiên về hoạt động bảo hiểm mang tính chất tự bảo hiểm. 
Bảo hiểm thực chất là việc con người phải dành ra một phần sản phẩm trong kết  
quả  lao động hàng năm của mình để  lập ra quỹ  dự  trữ  đủ  lớn về  vật tư  hoặc bằng tiền  
(quỹ đó gọi là quỹ dự trữ bảo hiểm ) nhằm :

1


­Hỗ  trợ  tài chính cho việc đề  phòng và hạn chế  tổn thất khi hiểm hoạ  chưa hoặc  
đang xảy ra. 
­Bù đắp và bồi thường kịp thời những thiệt hại và tổn thất về người và tài sản, sau  
khi xảy ra hiểm hoạ. 
Có 3 loại quỹ được thành lập và chi dùng cho mục đích nêu trên là :
­Quỹ dự trữ nhà nước được lập ra từ ngân sách nhà nước (quỹ dự phòng trong ngân 
sách, quỹ dự  trữ  quốc gia, quỹ dự  trữ tài chính ). Quỹ  này thuộc sở hữu nhà nước do nhà  
nước quản lý, nó được sử dụng để bù đắp những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây  
ra trên diện rộng quy mô lớn, vì phạm vi hoạt động rộng, nên chỉ  sử  dụng khi có những 
biến cố  rủi ro lớn trên nhiều vùng,  ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp dân cư. quỹ  này không  
được sử  dựng khi rủi ro thiệt hại mang tính cá biệt. Do đó nó không đáp  ứng đầy đủ  các 
nhu cầu của từng tổ chức, gia đình, cá nhân. 
­Quỹ  dự  phòng riêng của từng tổ  chức, cá nhân, gia đình : ( Quỹ  dự  trữ  phân tán) 
Quỹ  này do các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân tự  lập ra bằng thu nhập của mình, họ  tự 
quản lý, sử dụng cho nên nó có thể đáp ứng kịp thời, nhanh chóng chủ động đối với những 
tổn thất vừa và nhỏ, nhưng vì quy mô quỹ không lớn, không thể bù đắp cho những tổn thất 
lớn, không phát huy được tính cộng đồng tương trợ, nó chỉ  đóng khung trong từng đơn vị,  
không cơ  động, có thể  dẫn đến tình trạng  ứ  đọng vốn, lãng phí vốn, hiệu quả  kinh tế 
không cao. 
­Quỹ  bảo hiểm tập trung  do đông đảo những người tham gia bảo hiểm đóng góp 

theo một chế  độ  thống nhất và bình đẳng (Quỹ  dự  trữ  tập trung mang tính cộng đồng ).  
Quỹ này được lập bằng tiền do những tổ chức, cá nhân có cùng khả năng gặp những biến  
cố  nào đó đóng góp, tạo lập quỹ. Nó được sử  dụng để  phòng ngừa và bù đắp những tổn  
thất cho các tổ chức, cá nhân tham gia lập quỹ khi có sự kiện bảo hiểm xuất hiện. Phương  
thức tạo lập và sử dụng quỹ này trên nguyên tắc “ lấy số đông bù cho số ít ” nên nó mang  
tính kinh tế, tính xã hội cao. Bởi vì: Giúp cho người tham gia bảo hiểm khắc phục nhanh  
chóng những thiệt hại, đảm bảo cho quá trình sản xuất và đời sống phát triển bình thường.  
Nó là biện pháp dự  trữ  bảo hiểm có hiệu quả  kinh tế  cao nhất, có khả  năng thanh toán 
nhanh, bù đắp lớn. Đối với mỗi cá nhân hàng năm chỉ  phải chi ra một lượng tiền nhỏ để 
đóng phí bảo hiểm, không ảnh hưởng đến đời sống của mình. Đối với các cơ  sở sản xuất 
kinh doanh thì phí bảo hiểm là một chi phí xã hội cần thiết nó được hạch toán vào giá thành  
sản phẩm. Nếu đem số phí đó phân ra theo từng đơn vị sản phẩm và phân bổ cho cả năm tài  
chính thì số phí baỏ hiểm phải gánh chịu trên một đơn vị sản phẩm là không đáng kể. Trong  
trường hợp có xảy ra rủi ro thì người tham gia bảo hiểm được đền bù toàn bộ  hay một  
phần thiệt hại, vốn kinh doanh được bảo toàn, đời sống  ổn định. Hình thức dự  trữ  bảo  
hiểm này sẽ  đáp  ứng một cách đầy đủ, linh hoạt nhất đối với mọi nhu cầu đa dạng của 
mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.  
 Dưới góc độ kinh tế tài chính thì bảo hiểm là phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền 
do những tổ  chức, cá nhân có cùng khả  năng gặp những sự  cố  nào đó đóng góp và để  từ 
quỹ  đó sử dụng để  đề  phòng, ngăn ngừa và bù đắp những tổn thất cho những tổ  chức, cá 

2


nhân tham gia lập quỹ khi họ gặp những rủi ro bảo hiểm hoặc để  thực hiện những chính  
sách xã hôi. 
Như  vậy, việc tạo lập quỹ  bảo hiểm là một yếu tố, một yêu cầu không thể  thiếu 
được để đảm bảo cho nền kinh tế ­xã hội phát triển bình thường khi gặp phải tổn thất do 
những yếu tố khách quan bất ngờ gây ra. Người ta ví “không có bảo hiểm như  cầu thang  
không có tay vịn”

Cùng với sự  phát triển của xã hội loài người do nhu cầu  ổn định sản xuất và đời  
sống các loại bảo hiểm khác nhau đã ra đời. Đặc biệt khi nền kinh tế hàng hoá phát triển  
nhu cầu bảo hiểm ngày càng đòi hỏi đa dạng, con người đã đã xây dựng các quỹ dự trữ bảo  
hiểm khác nhau. Nhưng để  đạt hiệu quả  kinh tế  –xã hội cao trong hoạt động bảo hiểm,  
kinh doanh dịch vụ bảo hiểm ra đời và nó không ngừng phát triển trong nền kinh tế  hàng 
hoá ­tiền tệ. Bảo hiểm không chỉ  đơn thuần làm lá chắn cho sự  phát triển kinh tế  và  ổn 
định đời sống, mà còn thực sự trở thành một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt để thu lợi nhuận  
cao cho các doanh nghiệp. Hai mục đích đó vừa là tiền đề, vừa là điều kiện để  hoạt động  
bảo hiểm tồn tại và phát triển. 
Do tính chất đa dạng của các loại rủi ro xâm hại đến lợi ích của nhiều chủ thể đòi  
hỏi phải có nhiều loại hình bảo hiểm:
­  Căn cứ  vào đối tượng bảo hiểm có bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người, bảo  
hiểm TNDS; 
­Căn cứ  vào tính chất pháp lý trong baỏ  hiểm có bảo hiểm bắt buộc bảo hiểm tự 
nguyện; 
* căn cứ vào tính chất, phương thức và mục đích sử dụng các loại quỹ bảo hiểm tập  
trung mang tính cộng đồng, người ta chia bảo hiểm thành hai loại bảo hiểm mang tính kinh  
doanh và bảo hiểm phi kinh doanh: 
 Bảo hiểm không mang tính kinh doanh là loại hình bảo hiểm do nhà nước thực hiện  
nhằm thực hiện chính sách kinh tế xã hội. Nó đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước, Mục đích  
của hoạt động bảo hiểm này không đặt ra mục tiêu kinh doanh lấy lợi nhuận. Loại hình  
bảo hiểm phi kinh doanh  ở nước ta hiện nay là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm  
tiền gửi … 
 Bảo hiểm có tính kinh doanh là hoạt động bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm thực 
hiện thông qua việc lập quỹ bảo hiểm từ nguồn thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân 
tham gia, sau đó quỹ  này được sử  dụng để  bồi thường, chi trả  cho các trường hợp thuộc  
diện được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. 
Nếu so sánh giữa bảo hiểm không mang tính kinh doanh mà điển hình là bảo hiểm xã 
hội với loại hình kinh doanh bảo hiểm thì giữa chúng có những diểm giống nhau đó là:  
chúng đều có mục đích giúp  ổn định kinh tế, đảm bảo đời sống, khắc phục khó khăn do 

nguyên nhân khách quan gây ra. Người tham gia đều có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm. Bên 
cạnh đó, chúng có điểm khác nhau cơ bản sau: 

3


Nội dung  Bảo hiểm xã hội (một loại hình bảo 
hiểm không mang tính kinh doanh)
ph
ân 
bi
ệt
Bản chất

Kinh doanh bảo hiểm

Là một chính sách thuộc lĩnh vực đảm   Là một dịch vụ tài chính xuất phát 
bảo xã hội của một nhà nước 
từ nhu cầu được bảo vệ, ngoài sự 
đảm bảo chung của xã hội 

Đối   tượng  Là người lao  động, người làm công,  Con   người,   tài   sản,   trách   nhiệm 
bảo hiểm
ăn lương
dân sự 
Phạm vi

Trong giới hạn một quốc gia

bảo hiểm


Vượt   ra   ngoài   phạm   vi   quốc 
gia(Tái bảo hiểm ). 

Nguồn 
Chủ  yếu huy động sự  đóng góp của  Được tạo lập từ  sự  đóng góp phí 
hình   thành  người   lao   động,người   sử   dụng   lao  của tổ  chức, cá nhân có nhu cầu 
quỹ
động và có thể  một phần trợ  cấp từ  được bảo hiểm. 
ngân sách. 
bảo hiểm
Mục đích

Để trợ cấp cho người lao động khi họ  Chi   bồi   thường   cho   những   tổ 
sử   dụng  tạm  thời  hay  vĩnh viễn  mất sức   lao  chức, cá nhân tham gia gặp rủi ro 
động. 
thuộc   phạm   vi   trách   nhiệm   bảo 
quỹ
hiểm. 
Mục tiêu
hoạt động

Không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi  Nhằm mục tiêu kinh doanh lấy lợi  
của người Lao động và của cả  cộng  nhuận 
đồng. 

chủ   thể    Do cơ  quan nhà nước  quản lý  theo   Doanh nghiệp bảo hiểm  
QL     quỹ  quy chế chung thống nhất. 
BH
Luật   điều  Bộ   luật   lao   động   và   VBPL   về   bảo  Luật kinh doanh bảo hiểm

chỉnh
hiểm xã hội khác
2/ Khái niệm chung về kinh doanh bảo hiểm 
Theo nghĩa rộng kinh doanh bảo hiểm là hoạt động có mục đích sinh lời của các chủ 
thể kinh doanh trên thị trường bảo hiểm để nhằm tới việc ký kết và thực hiện tốt được các 
hợp đồng bảo hiểm. 
Tại Điều 3, Luật kinh doanh BH năm 2000: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của  
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp  
nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để  

4


doanh nghiệp bảo hiểm trả  tiền bảo hiểm cho người thụ  hưởng hoặc bồi thường cho  
ngươì được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. 
Một số khái niệm được sử dụng trong định nghĩa trên được pháp luật giải thích như 
sau: 
­ Bên mua bảo hiểm là tổ  chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh 
nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được  
bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. 
­ Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng  
được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người 
thụ hưởng. 
­ Người thụ hưởng bảo hiểm là tổ chức cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để 
nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
­Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy  
định mà khi có sự  kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả  tiền bảo hiểm cho  
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. 
­ Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên bảo hiểm phải  đóng bảo hiểm cho doanh 
nghiệp bảo hiểm theo thời hạn bảo hiểm và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp 

đồng bảo hiểm. 
 *Đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm:
­  Chủ  thể  thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm . 
Doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra lập quỹ bảo hiểm từ  nguồn thu phí bảo hiểm của người  
tham gia bảo hiểm, quản lý sử  dụng quỹ  bảo hiểm để  chi trả  hoặc bồi thường bảo hiểm  
cho người được bảo hiểm hoặc người thụ  hưởng khi có sự  kiện bảo hiểm. Mặc dù kinh  
doanh bảo hiểm là một quan hệ kinh doanh trên thiết lập trên cơ  sở hợp đồng giữa doanh 
nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên để thiết lập được quan hệ hợp đồng  
bảo hiểm ngoài việc các bên trực tiếp thiết lập quan hệ còn có các chủ thể khác 
tham gia để  giúp cho các bên thiết lập được quan hệ  bảo hiểm gốc là đại lý bảo 
hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Trong kinh doanh bảo hiểm ngoài mối quan hệ 
giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm còn có các quan hệ  bảo hiểm phái 
sinh là quan hệ kinh doanh tái bảo hiểm. 
­ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận.   Thu nhập 
được tạo ra từ  phần chênh lệch giữa số  phí thu được với các nghĩa vụ  trả  tiền bảo hiểm  
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm và số  lãi thu được từ  hoạt động đầu tư  tài 
chính từ nguồn phí thu được còn nhàn rỗi.
­ Đối tượng kinh doanh bảo hiểm là sản phẩm đặc biệt một lời cam kết gắn liền  
với yếu tố rủi ro. Xét về tính chất kinh doanh thì kinh doanh bảo hiểm thuộc loại hình kinh 
doanh dịch vụ  “Dịch vụ  tài chính”.   Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình­ là sự  bảo 
đảm về  mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm và kèm theo các dịch vụ  có  

5


liên quan. Người tham gia bảo hiểm nộp phí cho nhà bảo hiểm để đổi lấy lời hứa hay cam  
kết là sẽ trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. 
­ Chu trình kinh doanh bảo hiểm là một chu trình đảo ngược­ sản phẩm bảo hiểm  
được bán ra trước ­doanh thu phát sinh,  sau đó mới phát sinh chi phí ­  Đặc điểm này tạo ra 
tính nhàn rỗi của nguồn vốn bảo hiểm trong những thời gian nhất định, Chủ thể nhận bảo 

hiểm có thể sử dụng chúng để đầu tư sinh lời nhằm tăng khả năng tài chính cho chi trả bồi  
thường và tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Bởi vậy, đầu tư  tài chính là một hoạt động  
không thể tách rời với hoat động bảo hiểm. Điều này nó làm cho bảo hiểm có tính phức tạp 
và  ảnh hưởng đến khả  năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm đòi hỏi phải được  
quản lý chặt chẽ nhằm bảo đảm lợi ích cho người tham gia.
­ Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn: Trong thơì gian 
bảo hiểm, không có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì  DN bảo hiểm không phải trả tiền hay bồi 
thường bảo hiểm. Nếu có sự  kiện bảo hiểm xảy ra thì DNBH phải trả  tiền hoặc bồi  
thường bảo hiểm. 
Do tính bất ngờ của rủi ro bảo hiểm cả không gian thời gian và quy mô nên DNBH  
phải xây dựng các quỹ  dự  phòng để  thực hiện cam kết của mình trước bên tham gia bảo 
hiểm; Quỹ này được sử dụng để tham gia đầu tư tuy nhiên bảo đảm tinh thanh khoản cao; 
Số  tiền bồi thường bảo hiểm trong một hợp đồng nếu có thường rất lớn, lớn hơn  
nhiều lần số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng. (Do lợi ích các bên có xung đột trực  
diện thường xảy ra tranh chấp trong thực hiện hợp  đồng). Vì thế  có thể  dẫn đến các 
trường hợp trục lợi bảo hiểm. DN bảo hiểm muốn bảo đảm và ổn định nguồn tài chính cho  
việc bù đắp tổn thất trong hoạt động bảo hiểm thì phải thực hiện tốt nguyên tắc lấy số 
đông bù cho số ít; Trong trường hợp có hợp đồng có giá trị lớn hoặc đối tượng bảo hiểm có  
nguy cơ dẫn đến rủi ro cao thì DN bảo hiểm phải thực các biện pháp phân tán rủi ro như 
đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm; mặt khác để  giảm bớt chi phí bồi thường các DNBH phải  
tăng cường các biện pháp đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế tổn thất bảo hiểm. 
­ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bằng luật kinh doanh bảo hiểm  
và các văn bản pháp luật khác có liên quan; 
­ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động kinh doanh có điều kiện đặt dưới sự 
quản lý nhà nước của Bộ Tài chính 
2. Khái niệm pháp luật kinh doanh bảo hiểm. 
2.1. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo 
hiểm. 
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò  quan trọng đối với nền kinh tế và đời  
sống xã hội. Do đó, mặc dù mục đích, phương thức tác động có khác nhau nhưng các Nhà 

nước đều sử  dụng pháp luật để  điều chỉnh các quan hệ  xã hội phát sinh trong hoạt động 
kinh doanh bảo hiểm. Điều này xuất phát do những lý do chủ yếu sau:
Thứ  nhất, hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vai trò  quan trọng trong nền kinh tế  
quốc dân 

6


Ở các quốc gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò là công cụ góp phần ổn  
định các hoạt động kinh tế xã hội đời sống của dân cư, thúc đẩy quá trình tích tụ vốn trong  
xã hội. 
Bảo hiểm đóng vai trò tích cực trong việc  ổn định các hoạt động kinh tế  – xã hội,  
đời sống dân cư. Điều này thể  hiện  ở  chỗ  bảo hiểm đóng vai trò tích cực trong việc bảo  
tồn tài sản của các pháp nhân và thể  nhân trong xã hội. Bởi vì, để  tránh thất thoát cho tài  
sản của mình, các pháp nhân, thể nhân có thể  tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình và  
nếu gặp rủi ro thì thiệt hạn sẽ  được bù đắp bằng tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo 
hiểm chi trả. Đồng thời, cũng chính nhờ tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho  
các pháp nhân, thể  nhân có thể  duy trì được hoạt động bình thường,  ổn định đời sống khi  
gặp rủi ro. Mặt khác an toàn về tính mạng, sức khoẻ là vấn đề được cá nhân, cộng đồng và  
Nhà nước quan tâm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò tích cực trong việc bù  
đắp vật chất trong các tổ  chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, nó trở  thành một trong những  
phương tiện bảo vệ con người. 
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bảo hiểm càng chứng minh có vai trò là công  
cụ động viên, tập trung vốn cho nền kinh tế. Bởi vì, nhiều tổ chức, cá nhân đơn lẻ đóng phí  
bảo hiểm tạo nên quỹ  bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm và trong thời gian chưa sử 
dụng, quỹ bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để  tham gia các hình thức đầu 
tư. 
Ngoài ra, việc tham gia bảo hiểm có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy người 
tham gia bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng tránh rủi ro và giảm bớt các hậu quả của  
rủi ro. Bởi vì, phòng tránh rủi ro và giảm bớt hậu quả  của rủi ro là nghĩa vụ  của người  

tham gia bảo hiểm được pháp luật ghi nhận và thường được các bên tham gia hợp đồng  
bảo hiểm ghi thành các điều khoản hợp đồng. Do mối quan hệ  ràng buộc như  vậy giữa 
người tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm nên hoạt động kinh doanh bảo hiểm  
có vai trò tích cực trong việc bảo đảm an toàn cho đời sống cộng đồng và cho nền kinh tế. 
Thứ  hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động phức tạp ­ kinh doanh trên  
những rủi ro, dễ dẫn đến xung đột lợi ích, dễ bị lợi dụng, khó quản lý giám sát, lợi ích của  
các chủ tthể tham gia cần được bảo vệ trong những điều kiện khả thi.  
Hoạt động bảo hiểm không chỉ  liên quan đến lợi ích của các bên tham gia mà còn  
liên quan đến lợi ích của nhiều loại chủ  thể  trong xã hội. Ví dụ: Theo chế  độ  bảo hiểm 
trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện tham gia giao thông cơ giới đối với người thứ  ba  
thì người mua phí bảo hiểm là chủ  phương tiện tham gia giao thông cơ  giới còn người  
được hưởng tiền bảo hiểm là người thứ  ba bị  thiệt hại. Do đó việc ký kết hợp đồng bảo  
hiểm giữa chủ  phương tiện và doanh nghiệp bảo hiểm là nhằm bảo vệ  lợi ích cho người  
thứ ba. 
Thứ ba, pháp luật là công cụ bảo đảm cho các hoạt động của các chủ  thể tham gia  
bảo hiểm thương mại phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội 
Do bản chất và chức năng của nó mà pháp luật đóng vai trò rất quan trọng đối với  
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nếu thiếu sự điều chỉnh của pháp luật thì hoạt động kinh  
doanh bảo hiểm không thể tiến hành thuật lợi và nghĩa vụ của các bên tham ra quan hệ bảo  

7


hiểm sẽ không được bảo đảm thực hiện trong những trật tự  phù hợp với lợi ích của Nhà 
nước và cộng đồng. 
2.2. Khái niệm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Do vai trò quan trọng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với đời sống xã hội  
mà các Nhà nước đều sử dụng pháp luật để  điều chỉnh các quan hệ  xã hội phát sinh trong  
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Tuy vậy, tuỳ thuộc vào góc độ tiếp cận mà khái niệm pháp 
luật về kinh doanh bảo hiểm được diễn đạt khác nhau. 

Dưới góc độ  luật thực định  pháp luật về  kinh doanh bảo hiểm là tập hợp các qui  
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ  xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo 
hiểm. Các qui phạm pháp luật này có thể phân chia làm hai nhóm sau:
Nhóm thứ  nhất: Các qui phạm pháp luật qui định về  tổ  chức và hoạt động của các  
chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh trong thị trường bảo hiểm như: doanh nghiệp bảo  
hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm… Loại qui phạm pháp luật này 
chứa  ở  các loại nguồn như: Luật kinh doanh bảo hiểm, các Luật về  doanh nghiệp, Luật 
thương mại, Luật đầu tư
Nhóm thứ hai: Các qui phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thu, nộp phí bảo hiểm và 
trả tiền bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Các qui phạm 
pháp luật loại này chứa chủ yếu ở Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi  
hành. 
Nếu phân chia theo các quy định trong luật thực định thì pháp luật kinh doanh bảo 
hiểm được chia thành các bộ phận sau: 
* Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các chủ thể kinh doanh bảo hiểm 
­

Doanh nghiệp bảo hiểm 

­

Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 

­

Đại lý bảo hiểm 

* Pháp luật về  hợp đồng bảo hiểm; Bao gồm tất cả  quy định chung về  hợp đồng  
bảo hiểm 
* Pháp luật về chế độ bảo hiểm cụ thể 

­

PL về bảo hiểm con người 

­

Pl về bảo hiểm tài sản 

­

PL về bảo hiểm trách nhiệm dân sự 

2.3. Các nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm.
Tại điều 6 Luật kinh doanh bảo hiểm có quy định các nguyên tắc cơ bản trong kinh  
doanh bảo hiểm gồm: 
Thứ nhất, tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm phải tham gia bảo hiểm tại doanh  
nghiệp bảo hiểm được thành lập và hoạt động tại Việt Nam 

8


Việc đặt ra nguyên tắc này nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, tạo điều kiện cho sự phát 
triển lành mạnh và lâu dài của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự quản  
lý chặt chẽ của Nhà nước và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và tập quán  
quốc tế. Tuy nhiên do thực trạng phát triển của thị trường bảo hiểm ở Việt Nam chưa đáp  
ứng được hết nhu cầu bảo hiểm của xã hội, Tại Điều 3 Nghị định quy định chi tiết thi hành 
một số điều của luật kinh doanh bảo hiểm có quy định về  điều kiện, nguyên tắc tham gia  
bảo hiểm: 
1. Tổ chức, cá nhân muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, 
hoạt động môi giới bảo hiểm tại việt nam phải được bộ tài chính cấp giấy phép thành lập 

và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm.
2. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm  
và chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại việt 
nam. không một tổ  chức, cá nhân nào được phép can thiệp trái pháp luật đến quyền lựa  
chọn doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm của bên mua bảo hiểm.
 Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp 
bảo hiểm không có trụ  sở   ở  Việt Nam trong những trường hợp: Các doanh nghiệp bảo  
hiểm hoạt động ở Việt Nam chưa cung cấp được loại sản phẩm bảo hiểm mà tổ  chức, cá  
nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm hoặc theo quy định của các điều ước quốc tế mà Chính 
phủ  Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hợp đồng bảo hiểm được giao kết giữa các tổ 
chức, cá nhân Việt Nam với doanh nghiệp bảo hiểm không có trụ  sở  ở  Việt Nam trái với 
các quy định trên đều bị coi là vô hiệu.
Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì khả năng tài chính phù hợp với quy mô  
kinh doanh của mình để bảo vệ quyền lợi của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. 
Với tính chất là hoạt động kinh doanh rủi ro và mang tính xã hội hoá cao, với vai trò  
quan trọng của kinh doanh bảo hiểm đối với nền kinh tế và sự ổn định của đời sống xã hội  
việc bảo đảm khả  năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm để  bảo đảm quyền lợi cho  
các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm là rất quan trọng, bởi nó không chỉ tạo uy tín tạo ra  
khả năng kinh doanh có hiệu quả cho doanh nghiệp bảo hiểm mà nó còn có ý nghĩakinh tế 
xã hội lớn. Với việc quy định nguyên tắc chung cơ  bản này trong Luật kinh doanh bảo  
hiểm, để  trên cơ sở đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ban hành các quy định cụ 
thể, chi tiết về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm. 
Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ  các quy 
định như: 
­Phải ký quỹ tại một ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam. Số tiền ký quỹ 
là một phần của vốn điều lệ  và nó là một trong các điều kiện để  khai trương hoạt động.  
Các doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng lãi tiền gửi kỳ hạn 1 năm trên số tiền ký quỹ, tiền 
ký quỹ chỉ được sử dụng khi có ý kiến của Bộ Tài chính bằng văn bản nhằm đáp ứng khả 
năng thanh toán bị thiếu hụt tạm thời. Doanh nghiệp bảo hiểm được rút toàn bộ tiền ký quỹ 
khi chấm dứt hoạt động. 


9


­ Phải thường xuyên trích lập và duy trì đủ khoản dự phòng nghiệp vụ để thực hiện 
các trách nhiệm phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm. Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên  
quan đến từng nghiệp vụ  bảo hiểm được trích lập và hoạch toán vào chi phí kinh doanh  
nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng 
đã được ký kết. Dự  phòng nghiệp vụ  phải được lập riêng cho từng nghiệp vụ  gồm: Dự 
phòng chi cho các trách nhiệm chưa hoàn thành; Dự  phòng bồi thường cho các kiếu nại 
chưa giải quyết; Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất. 
­ Phải duy trì khả  năng thanh toán tối thiểu tương  ứng với qui mô hoạt động kinh 
doanh và không thấp hơn giới hạn khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động. Một 
doanh nghiệp bảo hiểm được coi là đủ  khả  năng thanh toán khi tổng các nguồn vốn sau  
hoặc = mức khả  năng thanh toán: Vốn điều lệ  đã đóng; quỹ  dự  trữ  bắt buộc; lãi các năm 
trước chưa sử dụng. 
Trong trường hợp tái bảo hiểm  ở  nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo  
hiểm một phần rủi ro của hợp đồng bảo hiểm đã ký cho doanh nghiệp tái bảo hiểm do  
chính phủ chỉ định. Xuất phát từ sự cần thiết hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ thông  
qua việc tái bảo hiểm cho các công ty nước ngoài, tạo điều kiện duy trì mối quan hệ chặt 
chẽ giữa doanh nghiệp bảo hiểm gốc và doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm. Thông qua công  
cụ tái bảo hiểm bắt buộc, Nhà nước có thể kiểm soát tình hình hoạt động và tình trạng tài  
chính cũng như  khả  năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo hiểm việt nam, bảo vệ 
quyền của người tham gia bảo hiểm. 

10


Phần II : PHÁP LUẬTVỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHỦ THỂ KINH 
DOANH BẢO HIỂM.

Các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: Doanh nghiệp bảo  
hiểm; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Đại lý bảo hiểm. 
1. Doanh nghiệp bảo hiểm 
1.1.. Khái niệm. 
 Theo pháp luật hiện hành thì khái niệm “Doanh nghiệp bảo hiểm” được hiểu như 
sau:
 Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo 
quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan để 
kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm1. 
Với tư  cách là doanh nghiệp, nó có đầy đủ  các đặc điểm của doanh nghiệp nói  
chung. Tuy nhiên doanh nghiệp bảo hiểm còn có đặc điểm đặc thù giúp chúng ta nhận biết  
nó với các loại doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. 
Thứ  nhất, doanh nghiệp bảo hiểm có hoạt động kinh doanh chính, chủ  yếu thường  
xuyên và mang tính nghề  nghiệp là kinh doanh bảo hiểm, một lĩnh vực, ngành nghề  đặc 
biệt. Tính chất đặc biệt của kinh doanh bảo hiểm thể  hiện  ở  chỗ: Nó là loại dịch vụ  tài 
chính đặc biệt,  là hoạt động kinh doanh trên những rủi ro. Sản phẩm của bảo hiểm là sản  
phẩm vô hình, nó là sự  bảo đảm về  mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm 
kèm theo là các dịch vụ có liên quan. Rủi ro là cơ sở của hoạt động bảo hiểm, là nguồn gốc 
phát sinh các hoạt động bảo hiểm. Để bảo vệ mình, người tham gia bảo hiểm nộp phí cho 
doanh nghiệp bảo hiểm, để đổi lấy lời hứa của doanh nghiệp bảo hiểm là sẽ  trả  tiền bảo  
hiểm khi có rủi ro xảy ra. Như vậy ở đây chỉ có cam kết từ hai phía doanh nghiệp bảo hiểm  
và người tham gia bảo hiểm, trong đó người tham gia bảo hiểm phải cam kết nộp phí, còn  
doanh nghiệp bảo hiểm lúc đó trở  thành con nợ của những người tham gia bảo hiểm, cam  
kết sẽ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. 
Chu trình kinh doanh bảo hiểm là chu trình đảo ngược, tức là sản phẩm được bán ra  
trước, doanh thu được thực hiện, sau đó mới phát sinh chi phí. Các doanh nghiệp bảo hiểm  
nhận phí bảo hiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau 
với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thực tế. Đặc tính này tạo ra tính nhàn  
rỗi của nguồn vốn bảo hiểm trong những thời gian nhất định, nó cho phép các doanh nghiệp 
bảo hiểm có thể  sử  dụng chúng để  đầu tư  sinh lời nhằm tăng khả  năng tài chính cho bồi  

thường và trả tiền bảo hiểm và tăng thu nhập cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong thời gian 
bảo hiểm nếu không có rủi ro xảy ra, thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường  
hay trả  tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Ngược lại, xảy ra rủi ro, đối tượng bảo 
hiểm bị thiệt hại thì bên mua bảo hiểm sẽ được bồi thường hay được trả  tiền bảo hiểm.  
Như vậy quan hệ giữa người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo  
hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Đặc điểm này đã tạo ra tiền  
đề khách quan cho tính thương mại của hoạt động bảo hiểm. Nghĩa là, khi không xảy ra rủi  
1

kho¶n 5 ®iÒu 3 luËt kinh doanh b¶o hiÓm n¨m 2000.

11


ro bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi hoàn và phí bảo hiểm sẽ tạo ra thu  
nhập cho doanh nghiệp bảo hiểm. Khác với khả năng bồi hoàn của các khâu tài chính khác, 
bồi hoàn trong kinh doanh bảo hiểm có tính bất ngờ cả  về thời gian, không gian cũng như 
quy mô. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp bảo hiểm phải xây dựng các 
quỹ dự phòng để bảo đảm các cam kết của mình trước những người tham gia bảo hiểm khi 
có các sự cố bảo hiểm xảy ra. Các quỹ này là nguồn quan trọng để  tham gia đầu tư  nhằm 
tăng khả  năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng phải đảm bảo nguyên tắc tính 
an toàn, tính sinh lời, và tính thanh khoản của các khoản vốn đầu tư. Thông thường thì tính 
bồi thường tổn thất thực tế  cho người  được bảo hiểm trong một hợp  đồng bảo hiểm  
thường rất lớn, lớn gấp nhiều lần so với số phí bảo hiểm đã đóng. Vì thế, để đảm bảo và 
ổn định nguồn tài chính cho việc bù đắp tổn thất, trong hoạt động bảo hiểm phải áp dụng 
nguyên tắc lấy số đông bù số ít, tức là phải cung cấp nhiều sản phẩm bảo hiểm cho nhiều  
loại khách hàng, trên nhiều vùng thị  trường khác nhau… để  lấy phí bảo hiểm đóng góp từ 
nhiều người nhằm bù đắp cho một số ít người gặp rủi ro. Trên thực tế, đối với những hợp  
đồng có giá trị lớn hoặc trường hợp có khả  năng doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường  
cho nhiều người được bảo hiểm trong cùng một sự  cố, để  giảm bớt trách nhiệm tài chính 

đối với rủi ro bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm thường phải thực hiện nghiệp vụ tái bảo  
hiểm hoặc đồng bảo hiểm. Mặt khác, để  giảm bớt chi phí bồi thường, doanh nghiệp bảo 
hiểm phải tăng cường giám sát các biện pháp phòng ngừa hạn chế tổn thất bảo hiểm.   
Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm được tổ  chức thành lập và hoạt động theo các qui 
định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các qui định khác của pháp luật. Xuất phát từ  tính  
chất đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được coi là một  
tổ  chức kinh doanh ngành nghề  đặc biệt, nên pháp luật phải có những qui định riêng áp  
dụng cho doanh nghiệp bảo hiểm, đó là Luật kinh doanh bảo hiểm. Trong việc tổ  chức  
thành lập và hoạt động của mình doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo Luật kinh doanh 
bảo hiểm. 
Tuy nhiên, bên cạnh việc áp dụng các qui định trong Luật kinh doanh bảo hiểm,  
doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tuân thủ  theo các qui định khác của pháp luật trong hệ 
thống pháp luật Việt Nam ­ nếu như vấn đề  nào đó Luật kinh doanh bảo hiểm không quy  
định, không điều chỉnh trực tiếp …Chẳng hạn doanh nghiệp bảo hiểm là công ty cổ  phần 
thì việc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp phải tuân theo các qui định trong Luật kinh  
doanh bảo hiểm đồng thời còn phải tuân thủ  các qui định dành cho công ty cổ  phần quy  
định Luật doanh nghiệp …
Thứ  ba,  Doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự  quản lý trực tiếp của Bộ  Tài Chính. Để 
quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế  giới đều giao cho  
một cơ quan quản lý nhà nước nhất định. Một số nước ở Châu á như Singapor, Philipin, cơ 
quan quản lý nhà nước về  hoạt động kinh doanh bảo hiểm có tên gọi là Uỷ  ban giám sát 
bảo hiểm. Các nước khác như  Anh, Nhật Bản, cơ  quan này là một phòng trực thuộc vụ 
quản lý các ngân hàng. 
ở  Việt Nam, công tác quản lý nhà nước về  hoạt động bảo hiểm được Chính phủ 
giao cho Bộ Tài chính thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác bảo hiểm. Trước đây do tính 
độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm, lúc đó Bộ tài chính đã giao cho Bảo Việt thực hiện 

12



hai chức năng quản lý và trực tiếp kinh doanh bảo hiểm. Sau khi đất nước ta chuyển đổi 
sang kinh tế  thị  trường thì để  đáp  ứng yêu cầu quản lý trong cơ  chế  kinh tế  này, ngày 15 
tháng 5 năm 1992 Bộ  trưởng Bộ tài chính đã ra quyết định số  223TC/ QĐ­ BTC thành lập 
phòng quản lý bảo hiểm trực thuộc vụ  tài chính ngân hàng và tổ  chức tài chính, Như  vậy,  
bằng qui định trên Bộ  Tài Chính đã tách chức năng quản lý và chức năng kinh doanh bảo  
hiểm của Bảo Việt. Từ thời điểm đó cho đến nay Bộ  Tài chính là cơ quan của Chính phủ 
trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Điều 
này đã được Luật kinh doanh bảo hiểm qui định cụ  thể: “Bộ  Tài chính chịu trách nhiệm  
trước Chính Phủ  thực hiện quản lý nhà nước về  kinh doanh bảo hiểm “(Khoản 2, Điều  
121)
Đây là đặc điểm giúp ta phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp khác  
trong nền kinh tế. Bởi vì, trong khi các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực ngành  
nghề khác chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước khác như các tổ chức tín dụng 
chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh  
chứng khoán chịu sự quản lý nhà nước của Uỷ ban chứng khoán nhà nước …
1.2. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung lĩnh vực bảo hiểm rủi ro là lĩnh vực  
độc quyền của nhà nước (gọi tên là bảo hiểm nhà nước). ở  nước ta chỉ duy nhất có Tổng  
công ty bảo hiểm Việt Nam (bảo Việt). Cơ quan “Bảo Vi ệt” th ực hi ện  đồng thời cả  hai 
chức năng quản lý nhà nước và kinh doanh bảo hiểm rủi ro. Chuyển sang cơ chế kinh tế 
mới – cơ  chế  kinh tế  thị  trường, Nhà nước không còn giữ  độc quyền trong lĩnh vực bảo  
hiểm rủi ro mà cho phép các thành phần kinh kế được tham gia kinh doanh bảo hiểm­. Nhà  
nước có phân định rạch ròi giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh trong bảo hiểm  
rủi ro ­ Thị trường bảo hiểm đã hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế 
xã hội. Nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm ra đời, sản phẩm bảo hiểm phát triển rất 
đa dạng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Vì vậy, việc phân loại các loại hình doanh nghiệp 
bảo hiểm là rất cần thiết. Có nhiều tiêu chí để phân loại doanh nghiệp bảo hiểm, mỗi cách  
phân loại có ý nghĩa và mục đích riêng. 
* Nếu căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ trong doanh nghiệp bảo hiểm ( cách 
phân loại này theo Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 chưa sửa đổi bổ  sung) thì có các  

loại hình doanh nghiệp bảo hiểm sau: 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước  là một tổ  chức kinh doanh bảo hiểm do nhà 
nước đầu tư  vốn, thành lập và tổ  chức quản lý, thực hiện kinh doanh bảo hiểm và thực 
hiện những nhiệm vụ  nhà nước giao. Bên cạnh việc áp dụng các qui định của Luật kinh  
doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước còn phải tuân thủ các qui định trong các 
văn bản pháp luật dành riêng cho doanh nghiệp nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta những doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh 
nghiệp bảo hiểm nhà nước nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, luôn 
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện khuyến khích phát triển để nó trở thành 
thành phần kinh tế chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. 

13


­ Công ty cổ phần bảo hiểm: là loại doanh nghiệp bảo hiểm trong đó các thành viên 
cùng góp vốn để  kinh doanh bảo hiểm, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ  tương  ứng  
với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần  
vốn góp của mình góp vào công ty.Thực chất thì công ty cổ phần bảo hiểm là những công 
ty cổ phần kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. Việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ 
phần bảo hiểm luôn chịu sự  điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật doanh  
nghiệp. 
­ Tổ  chức bảo hiểm tương h ỗ; Tổ  chức bảo hiểm tương hỗ  là tổ  chức có tư  cách  
pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ  lẫn nhau giữa 
các thành viên. Thành viên tổ  chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ  sở  hữu vừa là bên mua 
bảo hiểm”. Theo quy định của pháp luật hiện hành,Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ 
là Tổ  chức, công dân Việt Nam từ đủ  18 tuổi trở  lên, có năng lực hành vi dân sự  đầy đủ,  
hoạt động trong cùng một lĩnh vực, ngành nghề, có nhu cầu bảo hiểm đều có quyền tham 
gia thành lập tổ  chức bảo hiểm tương hỗ  với tư  cách là thành viên sáng lập. Chỉ  các tổ 
chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với tổ chức bảo hiểm tương hỗ mới có thể trở 
thành thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của  

tổ chức bảo hiểm tương hỗ do Chính phủ quy định.
Trên thế  giới, phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm được tổ  chức dưới hình thức 
công ty bảo hiểm tương hỗ. Đây là loại hình doanh nghiệp được thành lập nhằm tương trợ,  
giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, mục đích kinh doanh chỉ là thứ  yếu. ở Việt Nam, thị 
trường bảo hiểm mới  ở giai đoạn đầu của sự  phát triển thì đây là một mô hình mới, chưa  
hề  có một tổ  chức bảo hiểm tương hỗ  nào tồn tại trên thực tế. Việc qui định loại hình 
doanh nghiệp bảo hiểm này ở Việt Nam hiện nay là cần thiết, phù hợp với tính chất và đặc 
thù của nền kinh tế  Việt Nam. Bởi vì đối với một số  lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,  
nuôi trồng, đánh bắt thuỷ  sản tại Việt Nam là những lĩnh vực mà ta có thế  mạnh mà các 
doanh nghiệp bảo hiểm hiện chưa phục vụ được hoặc hoạt động không có hiệu quả. nếu 
chúng ta có doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ trong những lĩnh vực như  vậy có nhiều lợi 
thế. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ  thống các văn bản qui phạm về  tổ  chức bảo hiểm  
tương hỗ là hết sức cần thiết, tạo điều kiện để loại hình doanh nghiệp này phát triển. 
 Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư  nước ngoài (gồm doanh nghiệp bảo hiểm  
liên doanh; Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư  nước ngoài). Là doanh nghiệp bảo  
hiểm được thành lập có một phần vốn hoặc 100% vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm 
nước ngoài để kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư 
nước ngoài tại Việt Nam là pháp nhân Việt Nam hoạt động theo pháp luật Việt Nam. 
­Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh: Là doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập trên 
cơ  sở  góp vốn của bên Việt Nam và bên nước ngoài. (Tỷ  lệ  góp vốn của bên Việt Nam  
trong doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh không được thấp  
hơn 30% vốn điều lệ.)
 Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư  nước ngoài: Là doanh nghiệp bảo hiểm 
do tổ chức bảo hiểm nước ngoài đầu tư 100% vốn, thành lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp  

14


này hoàn toàn do chủ đầu tư là bên nước ngoài sở hữu và kiểm soát, không có sự  tham gia  
của bên Việt Nam.

 Theo pháp luật hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không 
bị  hạn chế  về  nội dung, phạm vi hoạt động khi bán sản phẩm bảo hiểm cho các doanh  
nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài, tổ  chức và cá nhân nước ngoài; các doanh nghiệp ngoài  
quốc doanh; các sản phẩm phục vụ  cho những chương trình phát triển nông nghiệp, lâm 
nghiệp, ngư nghiệp và bảo hiểm rủi ro tài chính, bảo hiểm trách nhiệm nghề  nghiệp. Tuy 
nhiên, việc mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động sẽ được thực hiện theo hướng dẫn của  
Bộ  Tài chính, phù hợp với nhu cầu phát triển thị  trường và các điều ước quốc tế  mà Việt 
Nam ký kết hoặc tham gia. Cụ thể: Trong năm hoạt động đầu tiên, doanh nghiệp bảo hiểm  
có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép mở một chi nhánh ngoài trụ sở chính để tiến hành 
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sau 3 năm kể từ khi hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm,  
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở thêm 2 chi nhánh  
để tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. Sau 5 năm kể từ khi hoạt  
động, việc mở  thêm chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo  
hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo nhu cầu phát triển thị trường và điều 
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 
Theo điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm được sửa đổi bổ sung năm 2010 quy định:  
Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
­ Công ty cổ phần bảo hiểm.
­ Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm.
­ Hợp tác xã bảo hiểm.
­ Tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
* Căn cứ  vào nghiệp vụ  bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện thì  
các doanh nghiệp bảo hiểm được chia thành hai loại là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ  
và doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm  
nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ  là chế  độ  bảo hiểm cho tuổi thọ  con người. Mặc dù đối  
tượng bảo hiểm nhân thọ  là con người, nhưng so với các loại hình bảo hiểm con người  
khác nó có một số  dâú hiệu đặc trưng sau: bảo hiểm nhân thọ  thời hạn hợp đồng dài và 
luôn có tính đền bù. Bảo hiểm nhân thọ là sự kết hợp giữa hình thức bảo hiểm và hình thức 
tiết kiệm vừa là hình thức đầu tư. 

Do thời hạn bảo hiểm dài, mức phí bảo hiểm thường lớn, pháp luật có quy định cho  
phù hợp với tính chất và đặc điểm của loại hình nghiệp vụ  bảo hiểm này, nhằm bảo vệ 
quyền lợi cho các bên tham gia quan hệ bảo hiểm. Chẳng hạn các quy định về đóng phí bảo  
hiểm của bên mua bảo hiểm, hoặc pháp luật quy định về vấn đề đầu tư vốn của loại hình 
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ  có sự  khác biệt với hoạt động đầu tư  vốn của doanh  
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ  để  bảo vệ  sự  an toàn trong thanh toán, tính hiệu quả  trong 
hoạt động đầu tư  cho doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích cho người tham gia  
bảo hiểm và cho cả doanh nghiệp bảo hiểm... 

15


­ Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo  
hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm  
dân sự và các nghiềp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. 
Do sự  khác nhau về tính chất, đặc điểm của mỗi loại nghiệp vụ  bảo hiểm trên mà  
Điều 60 khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy  định “ Doanh nghiệp bảo hiểm không  
được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ  và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ  trường 
hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ  kinh doanh nghiệp vụ  bảo hiểm sức khoẻ  và bảo  
hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ”. Vì thế trong các doanh nghiệp bảo 
hiểm ở nước ta hiện nay có hai loại hình doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm  
nhân thọ  và doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Chúng khác nhau không chỉ  về  tên gọi,  
nghiệp vụ  kinh doanh mà trong những chế  độ  cụ  thể, pháp luật có những quy định cho 
chúng khác nhau, đặc biệt là trong chế độ tài chính đối với hai loại hình doanh nghiệp bảo  
hiểm này .
1.3 Quy chế  cấp giấy phép thành lập hoạt động, kiểm soát đặc biệt, giải thể, 
phá sản doanh nghiệp bảo hiểm, 
Pháp luật hiện hành có quy định về  điều kiện và thủ  tục để  được cấp giấy phép  
thành lập và hoạt động đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đó có một số điều kiện  
quan trọng như điều kiện về vốn điều kiện về nhân sự như: 

­ Không thuộc các đối tượng bị  cấm theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật  
Doanh nghiệp;
­ Phải có số  vốn điều lệ  đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định 
của Chính phủ (kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300 tỷ đồng Việt Nam; Kinh doanh bảo 
hiểm nhân thọ: 600 tỷ đồng Việt Nam); 
­ Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ  về 
bảo hiểm…cụ thể: Chủ tịch Hội đồng quản trị  của doanh nghiệp bảo hiểm phải là người  
có uy tín, đạo đức nghề nghiệp và kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tổng  
giám đốc (Giám đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm phải là người có uy tín, đạo đức nghề 
nghiệp, có thực tiễn quản lý kinh doanh hay quản lý nhà nước về  bảo hiểm ít nhất 3 năm 
và phải thường trú tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm…
­ Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều 64 của 
Luật này;
­  Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ  phù hợp với quy định của Luật này và các  
quy định khác của pháp luật;
*   Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đầu tư  thành lập doanh nghiệp bảo hiểm  
100% vốn đầu tư  nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh giữa doanh nghiệp bảo  
hiểm nước ngoài với doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện sau:
­  Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài  
cho phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại Việt Nam; 

16


­ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp ít nhất 10 năm theo 
quy định của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính tính tới thời điểm nộp hồ sơ xin cấp 
Giấy phép; 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có tổng tài sản tối thiểu tương đương 2 tỷ  đô  
la Mỹ vào năm trước năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép;
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng các quy định về 

hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các quy định pháp luật khác của nước nơi doanh nghiệp  
đóng trụ sở chính trong vòng 3 năm liền kề năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép.
* Về Hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động  thực hiện theo quy định tại 
Luật Doanh nghiệp, Điều 64 của Luật Kinh doanh bảo hiểm cụ thể hoá trong 7 NĐ  bao 
gồm:
định;

a) Đơn xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động theo mẫu do Bộ  Tài chính quy 

b) Dự thảo điều lệ doanh nghiệp phù hợp với quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật  
Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Dự  thảo Điều lệ  doanh nghiệp 
phải có đầy đủ  chữ  ký của người đại diện theo pháp luật, của các cổ  đông sáng lập hoặc 
người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông sáng lập;
c) Danh sách cổ đông sáng lập và các giấy tờ kèm theo 
d) Xác nhận của ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam về mức vốn điều lệ 
gửi tại tài khoản phong toả mở tại ngân hàng đó;
đ) Phương án hoạt động 5 năm đầu phù hợp với lĩnh vực kinh doanh xin  cấp Giấy  
phép, trong đó nêu rõ phương thức trích lập dự  phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo  
hiểm, đầu tư vốn, hiệu quả kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và 
lợi ích kinh tế của việc thành lập doanh nghiệp kèm theo các quy trình nghiệp vụ, quy trình 
kiểm soát nội bộ, quy trình quản lý rủi ro;
Các quy định về  phương thức trích lập dự  phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo 
hiểm, khả năng thanh toán của doanh nghiệp không áp dụng đối với doanh nghiệp môi giới 
bảo hiểm;
e) Danh sách, lý lịch, các văn bằng có xác nhận của công chứng chứng minh năng lực,  
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người quản trị, người điều hành doanh nghiệp;
g) Mức vốn góp và phương thức góp vốn, danh sách những tổ  chức, cá nhân chiếm  
10% số vốn điều lệ trở lên; tình hình tài chính và những thông tin khác có liên quan đến các 
tổ chức, cá nhân đó;
h) Quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm của loại sản phẩm bảo hiểm  

dự kiến tiến hành. Quy định này không áp dụng đối với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
Hồ  sơ  xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm liên 
doanh, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh theo quy định tại khoản 1 Điều 109 của  
Luật Kinh doanh bảo hiểm bao gồm:

17


­  Các tài liệu theo quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và h khoản 1 Điều này;
­  Điều lệ, Giấy phép thành lập và hoạt động của các bên tham gia liên doanh;
­  Hợp đồng liên doanh;
­  Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ  chức kiểm  
toán độc lập về tình hình hoạt động của các bên tham gia liên doanh trong 3 năm gần nhất;
­ Văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính:
+ Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thành lập  
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh tại Việt Nam. Trường  
hợp quy định của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính không yêu cầu phải có văn bản 
chấp thuận thì phải có bằng chứng xác nhận việc này;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang hoạt  
động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành hoạt động  
ở Việt Nam;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang trong  
tình trạng tài chính lành mạnh và đáp ứng đầy đủ  các yêu cầu quản lý tại nước nơi doanh  
nghiệp đóng trụ sở chính;
Hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh  
nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư  nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 
109 của Luật Kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
­ Các tài liệu theo quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và h khoản 1 Điều này;
­ Điều lệ, Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh  
nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính;

­ Giấy uỷ quyền cho Tổng giám đốc (Giám đốc) tại Việt Nam;
­  Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ  chức kiểm  
toán độc lập về  tình hình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới 
bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính trong 3 năm gần nhất;
­ Văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính:
+   Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thành lập  
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Việt Nam. Trường hợp quy  
định của nước nơi doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đóng trụ  sở 
chính không yêu cầu phải có văn bản chấp thuận thì phải có bằng chứng xác nhận việc 
này;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang hoạt  
động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành hoạt động  
ở Việt Nam;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang trong  
tình trạng tài chính lành mạnh và đáp ứng đầy đủ  các yêu cầu quản lý tại nước nơi doanh  

18


nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đóng trụ sở chính.
Hồ  sơ  xin cấp Giấy phép của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo  
hiểm được lập thành 3 (ba) bộ  trong đó có 1 (một) bộ  là bản chính, 2 (hai) bộ  là bản sao. 
Hồ  sơ  đề  nghị  cấp Giấy phép của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo 
hiểm có vốn đầu tư  nước ngoài được lập thành 3 (ba) bộ, mỗi bộ gồm 1 (một) bản bằng  
tiếng Việt và 1 (một) bản bằng tiếng nước ngoài thông dụng. Các bản sao tiếng Việt và  
các bản dịch từ  tiếng nước ngoài ra tiếng Việt phải được cơ  quan công chứng Việt Nam 
xác nhận theo quy định của pháp luật về công chứng. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về 
tính chính xác của hồ sơ xin cấp Giấy phép.
Pháp luật quy định rõ cơ  quan nhà nước có thẩm quyền cấp và thu hồi giấy phép 
thành lập và hoạt động cho các doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể: Bộ Tài chính cấp giấy phép  

thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định. Trong thời hạn 60 ngày, 
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, Bộ Tài chính phải cấp  
hoặc từ chối cấp giấy phép. Trong trường hợp từ chối cấp giấy phép, Bộ Tài chính phải có 
văn bản giải thích lý do. Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận 
đăng ký kinh doanh. 
Pháp luật còn quy định: Trong thời hạn 30 ngày, kể  từ  ngày được cấp Giấy phép  
thành lập và hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải 
đăng báo hàng ngày của báo trung  ương và báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ  sở 
chính trong 5 số  báo liên tiếp về  những nội dung chủ  yếu như  sau:   Tên, địa chỉ  trụ  sở 
chính, Chi nhánh, Văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm;  Nội dung, phạm vi và 
thời hạn hoạt động;  Mức vốn điều lệ  và số  vốn điều lệ  đã góp;  Họ, tên của người đại 
diện theo pháp luật của doanh nghiệp;  Số Giấy phép và ngày cấp Giấy phép thành lập và 
hoạt động;  Các nghiệp vụ bảo hiểm, nghiệp vụ môi giới bảo hiểm được phép kinh doanh.
Trong thời hạn 12 tháng, kể  từ  ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động,  
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải hoàn tất các thủ  tục cần  
thiết theo quy định của pháp luật để  chính thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm, môi giới 
bảo hiểm. Nếu quá thời hạn này mà doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo  
hiểm không bắt đầu hoạt động thì bị thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản khi thay  
đổi một trong những nội dung sau đây: Tên doanh nghiệp; Vốn điều lệ; Mở hoặc chấm dứt 
hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện; Địa điểm đặt trụ  sở  chính, chi nhánh, văn 
phòng đại diện; Nội dung, phạm vi và thời hạn hoạt động; Chuyển nhượng cổ phần, phần  
vốn góp chiếm 10% số  vốn điều lệ  trở  lên; Chủ  tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc  
(Giám đốc); Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp…
 Doanh nghiệp bảo hiểm có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi xảy  
ra một trong những trường hợp như: Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động có  
thông tin cố  ý làm sai sự  thật; Sau 12 tháng kể  từ  ngày được cấp giấy phép thành lập và  
hoạt động mà không bắt đầu hoạt động; Giải thể, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, phá sản, 
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp; Hoạt động sai mục đích hoặc không đúng với nội dung 
quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động; Không bảo đảm các yêu cầu về tài chính  


19


để  thực hiện các cam kết với bên mua bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư 
nước ngoài có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi doanh nghiệp bảo hiểm  
nước ngoài nơi đóng trụ sở chính bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động.
Trong trường hợp Bộ Tài chính cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động, chấp 
thuận cho doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi một trong những nội dung quy định, Bộ  Tài 
chính thông báo ngay bằng văn bản kèm theo bản sao giấy phép thành lập và hoạt động, 
quyết định thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động hoặc quyết định chấp thuận việc sửa 
đổi, bổ sung giấy phép thành lập và hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi  
doanh nghiệp đặt trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện.
 Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả  năng thanh toán trong suốt quá trình 
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được coi là có đủ khả năng thanh 
toán khi đã trích lập đầy đủ  dự  phòng nghiệp vụ  theo quy định và có biên khả  năng thanh  
toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định của Chính phủ. Trong  
trường hợp có nguy cơ  mất khả  năng thanh toán (khi biên khả  năng thanh toán của doanh 
nghiệp đó thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định) thì doanh nghiệp bảo  
hiểm phải chủ  động thực hiện ngay các biện pháp tự  khôi phục khả  năng thanh toán đồng 
thời phải báo cáo nguy cơ mất khả năng thanh toán cho Bộ Tài chính trong đó nói rõ về thực  
trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ  mất khả  năng thanh toán và các biện pháp  
khắc phục.…Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục được khả  năng 
thanh toán theo phương án đã được chấp thuận, thì  Bộ  Tài chính có quyền yêu cầu doanh 
nghiệp bảo hiểm thực hiện khôi phục khả năng thanh toán, gồm những biện pháp như: Bổ 
sung nguồn vốn chủ  sở  hữu; Tái bảo hiểm; thu hẹp nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt 
động; đình chỉ  một phần hoặc toàn bộ  hoạt động;  Củng cố  tổ  chức bộ  máy và thay đổi  
người quản trị, điều hành của doanh nghiệp;  Yêu cầu chuyển giao hợp đồng bảo hiểm;  
Các biện pháp khác.
Trong  trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục được khả  năng thanh 

toán theo yêu cầu của Bộ Tài chính  thì Bộ Tài chính ra quyết định thành lập Ban kiểm soát 
khả  năng thanh toán để  áp dụng các biện pháp khôi phục khả  năng thanh toán của doanh  
nghiệp bảo hiểm. 
 Ban kiểm soát khả năng thanh toán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
­  Chỉ  đạo và giám sát việc triển khai thực hiện các biện phục khả  năng thanh toán  
theo phương án đã được chấp thuận; 
­ Thông báo cho các cơ  quan nhà nước có liên quan về  việc áp dụng các biện pháp 
khôi phục khả năng thanh toán để phối hợp thực hiện;
­ Hạn chế phạm vi và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm;
­  Đình chỉ những hoạt động có thể  dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm mất khả 
năng thanh toán;
­ Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một 
hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác;

20


­ Tạm đình chỉ  quyền quản trị, điều hành và yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thay 
thế  thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó  
giám đốc) nếu xét thấy cần thiết;
­ Yêu cầu Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) miễn nhiệm, đình chỉ công 
tác đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật, không chấp hành phương án khôi  
phục khả năng thanh toán đã được chấp thuận; 
­ Kiến nghị  với Bộ Tài chính tiếp tục hoặc chấm dứt các biện pháp khôi phục khả 
năng thanh toán;
­ Báo cáo Bộ Tài chính về việc áp dụng và kết quả của việc áp dụng các biện pháp  
khôi phục khả năng thanh toán.
Ban kiểm soát khả  năng thanh toán phải chịu trách nhiệm về  quyết định của mình 
theo quy định của pháp luật trong quá trình áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh  
toán của doanh nghiệp bảo hiểm.  Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm thực hiện các 

yêu cầu, quyết định của Ban kiểm soát khả năng thanh toán.
Việc áp dụng các biện pháp khôi phục khả  năng thanh toán chấm dứt trong các  
trường hợp:  Hết hạn áp dụng biện pháp khôi phục khả  năng thanh toán; Hoạt động của  
doanh nghiệp bảo hiểm trở  lại bình thường; Doanh nghiệp bảo hiểm đã được hợp nhất, 
sáp nhập trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp khôi phục khả năng thanh toán;  Doanh 
nghiệp bảo hiểm lâm vào tình trạng phá sản.
Việc chấm dứt áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán được thực hiện 
theo quyết định của Bộ  trưởng Bộ  Tài chính. Quyết định này được thông báo cho các cơ 
quan có liên quan.
 Doanh nghiệp bảo hiểm giải thể trong các trường hợp sau đây: Tự  nguyện xin giải 
thể  nếu có khả  năng thanh toán các khoản nợ;  Khi hết thời hạn hoạt động quy định trong 
giấy phép thành lập và hoạt động mà không có quyết định gia hạn;  Bị  thu hồi giấy phép  
thành lập và hoạt động theo quy định;  Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.  
Việc giải thể doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.
 Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không có khả  năng thanh toán các khoản  
nợ đến hạn, sau khi áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà vẫn mất khả 
năng thanh toán thì việc phá sản doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo quy định của  
pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
1.4 Tổ  chức và điều hành của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới  
bảo hiểm
Tổ  chức hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm  
bao gồm: 
­  Trụ sở chính; 
­ Chi nhánh, sở giao dịch, hội sở, công ty thành viên hạch toán phụ thuộc (được gọi là 
Chi nhánh) trực thuộc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm,  có nhiệm 

21


vụ  thực hiện toàn bộ  hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể  cả  chức năng đại 

diện theo uỷ quyền;
­ Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp  
môi giới bảo hiểm, có nhiệm vụ  đại diện theo uỷ  quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và 
bảo vệ các lợi ích đó;
­ Địa điểm kinh doanh, phòng giao dịch (được gọi là địa điểm kinh doanh) là nơi hoạt  
động kinh doanh cụ thể, trực thuộc Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp  
môi giới bảo hiểm. 
 Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm muốn mở Chi nhánh, Văn  
phòng đại diện phải đáp ứng các điều kiện sau:
­ Vốn điều lệ thực có phải đảm bảo theo quy định của Bộ Tài chính;
­ Bộ  máy quản trị, điều hành và hệ  thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ  hoạt động có 
hiệu quả; 
­ Không vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật trong 3 năm liên tục ngay 
trước năm nộp hồ sơ. Doanh nghiệp bảo hiểm không vi phạm quy định về khả  năng thanh  
toán;
­ Có Quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện;
­ Người điều hành Chi nhánh, Văn phòng đại diện có kinh nghiệm và kiến thức  
chuyên môn về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và không thuộc các đối tượng bị cấm theo 
quy định của pháp luật;
­ Có hồ sơ xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện theo quy định 
 Hồ sơ xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện bao gồm:
­  Đơn xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện có chữ ký của người đại diện có thẩm  
quyền của doanh nghiệp, trong đó trình bày tóm tắt sự cần thiết, tên gọi, địa điểm, nội dung,  
phạm vi hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện;
­ Phương án hoạt động 3 năm đầu của Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong đó nêu  
rõ nhu cầu khách hàng; dự báo thị trường; nội dung, phạm vi hoạt động, các sản phẩm bảo  
hiểm dự kiến kinh doanh; dự kiến kết quả kinh doanh; tổ chức bộ máy, nhân sự; địa điểm 
đặt Chi nhánh, Văn phòng đại diện và cơ sở vật chất kỹ thuật;
­ Giấy tờ  hợp lệ  chứng minh doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo  
hiểm đáp ứng các điều kiện quy định. 

Trong thời hạn 30 ngày, kể  từ  ngày nhận được đầy đủ  hồ  sơ  hợp lệ, Bộ  Tài chính  
phải trả lời bằng văn bản về việc chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận. Trong trường hợp  
từ chối chấp thuận, Bộ Tài chính phải có văn bản giải thích lý do.
  Người quản trị, điều hành doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo  
hiểm: 

22


Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm,  
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải là người có trình độ chuyên môn, năng lực quản trị, điều  
hành doanh nghiệp theo hướng dẫn của Bộ  Tài chính. Tổng giám đốc (Giám đốc) doanh  
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải cư trú tại Việt Nam trong thời gian  
đương nhiệm.  Việc bổ nhiệm, thay đổi Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám 
đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải có sự chấp thuận 
của Bộ Tài chính.
Chuyên gia tính toán (Appointed Actuary): Chuyên gia tính toán có nhiệm vụ tổ chức 
thực hiện công tác đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Chuyên  
gia tính toán có quyền độc lập về  chuyên môn nghiệp vụ  và không được đồng thời kiêm 
nhiệm các chức vụ sau:  Tổng giám đốc;  Kế toán trưởng; Thành viên Hội đồng quản trị.
Bộ  Tài chính quy định tiêu chuẩn và việc sử  dụng chuyên gia tính toán của doanh  
nghiệp bảo hiểm nhân thọ. 
Kiểm tra, kiểm soát nội bộ :  Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo  
hiểm: 
­  Phải xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện các quy chế  phân công trách 
nhiệm trong nội bộ  doanh nghiệp; quy trình nghiên cứu phát triển sản phẩm, khai thác,  
thẩm định, bồi thường, tái bảo hiểm và các quy trình nghiệp vụ  khác theo quy định pháp 
luật.
­ Phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ bảo đảm doanh nghiệp hoạt động an  
toàn và đúng pháp luật.

­ Phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các quy trình nghiệp vụ  và 
quy định nội bộ; trực tiếp kiểm tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ  trên tất cả  các lĩnh  
vực tại trụ sở chính, Chi nhánh, Văn phòng đại diện và các địa điểm kinh doanh nhằm đánh  
giá chính xác kết quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
  Kết quả  kiểm tra, kiểm soát nội bộ  phải được lập thành văn bản và lưu giữ  tại  
doanh nghiệp.
1.4. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
 Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm:
Thứ nhất, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm.
Trong kinh doanh bảo hiểm, Doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo 
hiểm dưới các hình thức sau:  Trực tiếp;  Thông qua đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm;  
Thông qua đấu thầu;  Các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật. 
Doanh nghiệp bảo hiểm được mời chào khách hàng tham gia bảo hiểm theo nội 
dung, phạm vi hoạt động quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động của mình. Không  
được ép buộc các tổ chức, cá nhân mua bảo hiểm dưới mọi hình thức. Không được phép 
đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ  và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ  trường hợp doanh  

23


nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn 
con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ.
­ Tuân thủ các quy định về quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm trong các chế độ 
bảo hiểm theo quy định. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo 
hiểm không theo quy tắc, điều khoản, biểu phí đã được Bộ  Tài chính ban hành ( đối với  
loại hình bảo hiểm bắt buộc) hoặc phê chuẩn (đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ,  
bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người) hoặc đã đăng ký với Bộ Tài chính (đối  
với các sản phẩm bảo hiểm khác) thì doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại  
phát sinh cho bên mua bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không có trách nhiệm nộp phí bảo 
hiểm. 

Quy tắc, điều khoản, biểu phí do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng phải đảm bảo:
­ Tuân thủ  pháp luật; phù hợp với thông lệ, chuẩn mực đạo đức, văn hoá và phong 
tục, tập quán của Việt Nam;
­  Ngôn ngữ sử dụng trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm phải chính xác, cách diễn 
đạt đơn giản, dễ  hiểu. Đối với thuật ngữ  chuyên môn cần xác định rõ nội dung, thì phải 
định nghĩa rõ trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm;
­ Thể  hiện rõ ràng, minh bạch quyền lợi có thể  được bảo hiểm, đối tượng bảo  
hiểm, phạm vi và các rủi ro được bảo hiểm, quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm 
và người được bảo hiểm, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, điều khoản loại trừ 
trách nhiệm bảo hiểm, phương thức trả tiền bảo hiểm, các quy định giải quyết tranh chấp; 
­ Phí bảo hiểm phải được xây dựng dựa trên số  liệu thống kê, đảm bảo khả  năng  
thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và phải tương  ứng với điều kiện và trách nhiệm  
bảo hiểm.   
­ Các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được chi trả  hoa hồng bảo hiểm từ  phần phí bảo 
hiểm thực tế  thu được theo tỷ  lệ  hoa hồng bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định cho từng 
nghiệp vụ bảo hiểm. Đối tượng được hưởng hoa hồng bảo hiểm bao gồm: Doanh nghiệp  
môi giới bảo hiểm; Đại lý bảo hiểm. Không được chi trả hoa hồng bảo hiểm cho các đối 
tượng sau: Tổ chức, cá nhân không được phép hoạt động đại lý bảo hiểm, hoạt động môi  
giới bảo hiểm tại Việt Nam;Tổ chức, cá nhân trực tiếp mua bảo hiểm, trừ trường hợp đại 
lý bảo hiểm mua bảo hiểm nhân thọ  cho chính mình; Cán bộ, nhân viên của chính doanh 
nghiệp bảo hiểm.
Trong kinh doanh tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền  chuyển nhượng 
một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác 
nhưng không được nhượng toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một hợp đồng bảo  
hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm.
­ Doanh nghiệp bảo hiểm có thể  nhận tái bảo hiểm trách nhiệm mà doanh nghiệp  
bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm. Khi nhận tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải  
đánh giá rủi ro để bảo đảm phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp
Thứ hai, Quản lý quỹ và đầu tư vốn. 


24


 Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì mức vốn điều  
lệ  đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định được quy định. Trường hợp doanh nghiệp  
bảo   hiểm   thay   đổi  vốn   điều   lệ   đã   ghi  trong   điều   lệ   doanh   nghiệp   hoặc   việc   chuyển  
nhượng cổ  phần của các cổ  đông, phần vốn góp của các bên liên doanh chiếm 10% vốn 
điều lệ trở lên thì doanh nghiệp bảo hiểm phải có đơn đề nghị và văn bản giải trình gửi Bộ 
Tài chính và phải được Bộ Tài chính chấp thuận trước khi thực hiện
­ Trong thời hạn 60 ngày, kể  từ  ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động,  
doanh nghiệp bảo hiểm phải sử dụng một phần vốn điều lệ đã góp để ký quỹ tại một ngân  
hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam. Tiền ký quỹ được hưởng lãi theo thoả thuận với  
ngân hàng nơi ký quỹ. Mức tiền ký quỹ  của doanh nghiệp bảo hiểm bằng  2% vốn pháp  
định được quy định. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được sử dụng tiền ký quỹ để đáp ứng các 
cam kết đối với bên mua bảo hiểm khi khả năng thanh toán bị  thiếu hụt và phải được Bộ 
Tài chính chấp thuận bằng văn bản. Trong thời hạn 90 ngày, kể  từ  ngày sử  dụng tiền ký  
quỹ, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm bổ sung tiền ký quỹ đã sử dụng. Doanh nghiệp 
bảo hiểm được rút toàn bộ tiền ký quỹ khi chấm dứt hoạt động.
 Doanh nghiệp bảo hiểm trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: 
 Dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm 
mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh  
từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
Dự phòng nghiệp vụ phải được trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải  
tương ứng với phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng dẫn của Bộ Tài 
chính 
 Doanh nghiệp bảo hiểm phải lập quỹ dự trữ bắt buộc để  bổ  sung vốn điều lệ  và  
bảo đảm khả năng thanh toán. Quỹ dự trữ bắt buộc được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% lợi 
nhuận sau thuế. Mức tối đa của quỹ  này bằng 10% mức vốn điều lệ  của doanh nghiệp.  
Ngoài quỹ dự  trữ  bắt buộc, doanh nghiệp bảo hiểm có thể lập các quỹ  dự  trữ  khác từ  lợi  
nhuận sau thuế của năm tài chính theo quy định trong điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm. 

 Đầu tư vốn: Việc đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm an toàn, 
hiệu quả  và đáp  ứng được yêu cầu chi trả  thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng  
bảo hiểm.
Nguồn vốn đầu tư  của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: Vốn điều lệ; Quỹ  dự  trữ 
bắt buộc; Quỹ dự trữ tự nguyện; Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các  
quỹ  được sử  dụng để  đầu tư  hình thành từ  lợi tức để  lại doanh nghiệp; Nguồn vốn nhàn 
rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
­ Việc đầu tư  từ  nguồn vốn chủ  sở  hữu phải bảo đảm an toàn, hiệu quả  và tính  
thanh khoản theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.  Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi 
giới bảo hiểm được phép đầu tư  ra nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với phần  
vốn chủ sở hữu vượt quá mức vốn pháp định hoặc biên khả  năng thanh toán tối thiểu, tùy  
theo số nào lớn hơn. 

25


×