ĐỀ ÁN
MÔN: NGUỒN NHÂN LỰC
Đề tài:
Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam thời kỳ 20012005 và những giải
pháp thực hiện.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................................3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
.............................................................................................................................................4
I. Một số khái niệm, quan niệm.........................................................................................4
II. Nội dung yêu cầu phát triển NNL và KHH phát triển NNL......................................5
III. Vai trò của NNL đối với việc phát triển KTXH nước ta..........................................9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
NNL Ở VIỆT NAM...........................................................................................................11
I. Thực trạng của việc phát triển NNL thời kỳ 19962000.............................................11
II. Một số mặt đã đạt được và còn yếu kém trong quá trình phát triển NNL giai đoạn 1996
2000.....................................................................................................................................26
CHƯƠNG III: KẾ HOẠCH HÓA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC THỜI KỲ
20012005 VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.............................................................32
I. Căn cứ cho việc xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển NNL............................32
II. Mục tiêu và phương hướng phát triển NNL thời kỳ 20012005.................................34
III. Các giải pháp và chính sách phát triển NNL cho thời kỳ 20012005..........................40
KẾT LUẬN........................................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................47
2
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy chúng ta phải
phát huy tổng hợp mọi nguồn lực về vốn, đất đai, tài nguyên con người và
công nghệ kỹ thuật. Phải tranh thủ sự ủng hộ của thế giới nhưng dùa trên
sức mình là chính. Trong đó, chú trọng đến yếu tố nguồn nhân lực bởi con
người là điều kiện tiên quyết, là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng xác định “lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” của
đất nước. Vì vậy việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người có ý nghĩa
quan trọng đối với việc phát triển nguồn nhân lực và đối với công cuộc phát
triển đất nước.
Thực tiễn trên thế giới đã chứng minh nước nào có chiến lược đúng
đắn về nguồn lực con người thì dân téc đó phát triển đi lên. Kinh nghiệm
mấy thập kỷ qua ở Nhật Bản và một số nước ASEAN đã cho thấy giá trị to
lớn của chiến lược khai thác nguồn lực con người. Với họ, chiến lược này đã
tập trung vào những trọng điểm tài năng, kỹ nghệ, sáng tạo và ý chí. Do đầu
tư đúng hướng, trong những năm qua các nước này đang trở thành những
trung tâm phát triển kinh tế xã hội năng động nhất.
3
Phát huy những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và kiến thiết xây dựng nước nhà, chúng ta
phải dựa vào khai thác nguồn nhân lực trong và ngoài nước một cách cởi mở
hợp lý nhất. Với những phẩm chất thông minh, sáng tạo, dũng cảm và nhân
đạo, chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng đó là nguồn của cải vô giá được
kết tinh trong con người Việt Nam. Sự thành công của công cuộc đổi mới nói
chung và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng ở nước ta cũng
dựa trên nền tảng nguồn của cải vô giá đó.
Nhận thức được xu thế phát triển ấy, em xin thực hiện đề tài: “Kế
hoạch phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam thời kỳ 20012005 và những
giải pháp thực hiện”.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
I. Một số khái niệm, quan niệm
1. Nguồn nhân lực (NNL)
NNL theo nghĩa rộng được hiểu như nguồn lực con người, là một bộ
phận của các nguồn lực giống như các nguồn lực vật chất, nguồn lực tài
chính… cần được huy động, quản lý để thực hiện những mục tiêu phát triển
đã định.Theo định nghĩa của LHQ: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề là
kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc
tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong mét cộng đồng”. Khác với các
nguồn lực vật chất, tài chính, con người có cảm giác, rất nhạy cảm với
những tác động qua lại của mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra tại
môi trường nơi họ sống, làm việc, họ có thể tự quyết định và hành động theo
ý mình… do đó việc quản lý và sử dụng con người khó khăn hơn rất nhiều so
với việc quản lý và sử dụng các nguồn lực vật chất và tài chính khác.
4
Nguồn lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hoá được trong công tác
kế hoạch hoá (KHH) ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số,
bao gồm những người trong độ tuổi lao động theo quy định của bộ luật lao
động nước CHXHCN Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60, nữ đủ 15 đến hết 55
tuổi), có khả năng lao động. Đây là lực lượng lao động tiềm tàng có thể huy
động vào các hoạt động của nền KTXH
2. Lực lượng lao động (LLLĐ)
LLLĐ là một bộ phận của NNL, bao gồm những người trong độ tuổi
lao động đang làm việc và những người chua làm việc có nhu cầu việc làm.
Đây là những người mà nền kinh tế có thể huy động và phải giải quyết việc
làm. LLLĐ không bao gồm những người đang đi học, làm nội trợ, mất khả
năng lao động và không có nhu cầu làm việc. Tỷ lệ tham gia LLLĐ trong tổng
dân số trong tuổi lao động khác nhau giữa nam nữ, thanh thị nông thôn,
trình độ phát triển KHXH… các quốc gia (vùng) càng nghèo thì tỷ lệ tham gia
LLLĐ càng cao và ngược lại.
3. Phát triển nguôn nhân lực (PTNNL)
Phát triển NNL của một quốc gia(một vùng lãnh thổ) là tạo ra sự biến
đổi số lượng và chất lượng về mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức, tinh
thần của từng con người lao động, tạo lập một cơ cấu đội ngũ nhân lực hợp
lý và sử dụng năng lực của con người cùng với đội ngũ của họ vì sự tiến bộ
kinh tế, xã hội…
Theo F.M.Harbison, tốc độ tăng nhu cầu lao động có kỹ thuật phụ
thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) vì trong một chu kỳ dài, tốc độ
tăng việc làm cần lao động đã qua đào tạo (nhu cầu lao động có kỹ thuật)
thường tăng gấp 23 lần tốc độ tăng của GDP.
II. Nội dung yêu cầu phát triển NNL và KHH phát triển NNL
1. Phát triển NNL
Theo UNDP có 5 điểm “phát sinh năng lượng” của phát triển NNL là:
+ Giáo dục
5
+ Sức khoẻ và dinh dưõng
+ Môi trường (tự nhiên – kinh tế – xã hội)
+ Việc làm
+ Tự do chính trị kinh tế
Những điểm phát sinh năng lượng đó thâm nhập vào nhau và phụ thuộc
lẫn nhau, nhưng giáo dục đào tạo là cơ sở cho tất cả nhưng điểm khác…
* Vấn đề phát triển NNL trong chiến lược phát triển KT XH của đất
nước phải bao gồm đồng bộ cả 3 mặt chủ yếu:
+ Nuôi dưỡng và giáo dục đào tạo con người;
+ Sử dụng con người;
+ Tạo môi trường làm việc và đãi ngộ thoả đáng cho con người.
Cả ba mặt này phải làm đồng bộ mới thúc đẩy sự phát trển NNL nói
tiêng và phát triển KT XH nói chung.
* Phát triển nguồn nhân lực có thể coi là một lĩnh vực của quản lý
NNL bao gồm các hoạt động theo sơ đồ sau:
Quản lý nhân lực
Phát triển NNL
Dân số và KHHGĐ
Sử dụng NNL
Tuyển dụng
Dinh dưỡng và sức khoẻ
Sàng lọc
Giáo dục và đào tạo
Bố trí sử dụng
Văn hoá và truyền thống dân Đánh giá
Tạo môi trường của NNL
Mở rộng chủng loại việc
làm
Mở rộng quy mô việc làm
Phát triển tổ chức
tộc
Việc làm, phân phối thu nhập và đãi ngộ
* Về cơ cấu nguồn nhân lực (NNL) bao gồm:
1.1. Cơ cấu trạng thái hoạt động của NNL: phân chia NNL thành hoạt
động kinh tế (LLLĐ) và không hoạt động kinh tế (đi học, MSLĐ, nội trợ và
không có nhu cầu làm việc.
6
1.2. Việc tạo lập cơ cấu NNL mới để đáp ứng nhu cầu phát triển KT
XH theo hướng CNH, HĐH (của mỗi quốc gia, vùng) phải nhằm phục vụ cho
được sự chuyển dịch lớn về cơ cấu lao động theo ba mặt chủ yếu là:
Cơ cấu trình độ lành nghề của đội ngò lao động chuyển dịch theo
hướng yêu cầu trí tuệ ngày cang cao, gắn với cơ cááu công nghiệp mới, đó là
cơ cấu nhiều trình độ công nghệ, nhiều loại quy mô trong đó ưu tiên các loại
trình độ tiên tiến thích hợp.
Theo kinh nghiệp của thế giới, tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển
của tiến bộ kỹ thuật cần có cơ cấu chất lượng lao động theo các trình độ
thích hợp tương ứng.
Cơ cấu phân công lao động theo ngành:
Theo tổng kết kinh nghiệm của các nhà kinh tế học trên thế giới, có
mối quan hệ tương quan chặt chẽ giữa bình quân GDP/người và cơ cấu lao
động làm việc trong các ngành KTQD: GDP/người càng cao thì tỷ trọng lao
động làm việc trong lao động nông nghiệp càng giảm, trong công nghiệp và
dịch vụ càng tăng và ngược lại…
Cơ cấu tổ chức lao động chuyển dịch theo hướng hình thành bộ máy
và cơ chế vận hành mới của ba loại hình tổ chức phổ biển trong xã hội. Đó
là:
+ Bộ máy Nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp), Đảng, Đoàn thể;
đội ngò cán bộ công chức hành chính của bộ máy công quyền, sự phát triển
số lượng tương quan với qui mô dân số và đòi hỏi chất lượng cao…
+ Các doanh nghiệp (kể cả hộ gia đình) sản xuất kinh doanh và dịch vụ
phát triển theo yêu cầu của thị trường sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch
vụ.
+ Các cơ sở sự nghiệp (khoa học và giáo dục đào tạo.v.v…) gồm đội
ngò cán bộ viên chức, lao động khu vực sự nghiệp thuộc hệ thống kết cấu
hạ tầng xã hội, phục vụ trực tiếp cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn
nhu cầu ngày càng tăng của con người. Số lượng và chất lượng này tương
7
quan với quy mô dân số, phân bố dân cư và trình độ phát triển KTXH, có ý
nghĩa quyết định đến chất lượng dịch vụ và chất lượng của kết quả phát
triển con người.
Cơ cấu này, theo Liên Hợp quốc, là “tam giác phát triển” với sự chọn
lọc những thành phần thích hợp nhất ở mỗi đỉnh tam giác và có quan hệ
tương tác theo chức năng để thúc đẩy phát triển:
Ở mỗi loại tổ chức đều có 3 chức năng cần có nhân lực thành thạo
nghề nghiệp để đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả nhất:
Chức năng lãnh đạo, quản lý (cán bộ quản lý).
Chức năng tham mưu, nghiên cứu, thiết kế, KHH (chuyên gia).
Chức năng thực hiện (những người thực hiện).
Tuỳ theo mỗi loại tổ chức, mỗi chức năng cần có những nhân lực
tương ứng vế ngành nghề, trình độ, tư chất con người cụ thể và với một cơ
cấu thích hợp. Nếu bảo đảm được cho mỗi loại tổ chức đó có bộ máy với cơ
cấu đồng bộ và cơ chế vận hành tốt sẽ bảo đảm hiệu quả hoạt động của
toàn xã hội. Vì vậy, phải xuất phát từ những yêu cầu phẩm chất của các loại
chức năng lao động đó để đào tạo nhân lực cho phù hợp, tránh tình trạng thừa
thiếu trong mỗi giai đoạn phát triển KTXH.
1.3. Đối với mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi ngành còn phải chú
ý đến cơ cấu lãnh thổ, vùng, miền để đảm bảo sự tương quan NNL với yêu
cầu phát triển bền vững.
2. Kế hoạch hoá phát triển NNL
Trong điều kiện công nghệ thế giới đang thay đổi nhanh chóng đòi hỏi
chất lượng NNL cũng phải thay đổi nhanh chóng để theo kịp tiến bộ công
nghệ… Tuy nhiên, bao giê cũng cần phải có một thời gian để đào tạo và điều
chỉnh chất lượng NNL đảm bảo cân bằng cung và cầu về NNL đáp ứng yêu
cầu CNH và HĐH. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý, xây dựng chiến
lược phát triển NNL là phải đưa ra những dự báo ngay từ bây giờ để nền
8
kinh tế có thời gian đièu chỉnh. Tuy nhiên, còng nh các kế hoạch khác trong
nền kinh tế thị trường, kế hoạch phát triển NNL chỉ là một kế hoạch chỉ dẫn,
nó cung cấp những định hướng, còn việc thực hiện là thông qua đào tạo và
những chính sách khuyến khích hay hạn chế thích hợp. Nội dung KHH phát
triển NNL bao gồm 3 bộ phận có liên quan với nhau về ý nghĩa và khác nhau
về quy mô, đó là:
2.1. Kế hoạch phát triển nhân lực có mục tiêu là làm thế nào để cung
và cầu về lao động kỹ năng của các ngành nghề khác nhau khớp được với
nhau và tránh được dư thừa hoặc thiếu hụt lao động kỹ năng so với nhu cầu
cần đến nhằm đạt mục tiêu phát triển chung. Vì vậy chính sách ở đây là phải
dùa trên nhu cầu mỗi loại lao động mà tiến hành các giải pháp chuyển hoá
đào tạo sao cho đủ nguồn lao động thích ứng với nhu cầu đó của thị trường
sức lao động.
2.2. Kế hoạch phát triển việc làm: xử lý và giải quyết mối quan hệ
giữa tăng trưởng và biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư với giải quyết
việc làm sao cho sử dụng có hiệu quả tổng nguồn lao động trong mối quân
hệ tác động qua lại giữa cung và cầu lao động trong phát triển KTXH.
2.3. Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực: có quy mô lớn nhất, nó bao
quát cả hai kế hoạch trên. KHH NNL bao gồm việc hoạch định phương
hướng và các chính sách trực tiếp và gián tiếp tác động đến số lượng và chất
lượng NNL. Tuy nhiên cấp bách nhất là nâng cao chất lượng NNL và sử dụng
có hiệu quả NNL ấy phục vụ cho sự phát triển của con người, phát triển KT
XH và môi trường bền vững.
Do đó nghiên cứu xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phải
toàn diện bao gồm đầy đủ các mặt chủ yếu trên đây mới có thể thực hiện
được mục tiêu đề ra.
3. Hệ thống chính sách phát triển NNL bao gồm
9
3.1. Các chính sách điều tiết qúa trình tái sản xuất dân số và kế hoạch
hoá gia đình nhằm giảm nhịp tăng quy mô dân số và làm tăng chất lượng dân
số và NNL.
3.2. Các chính sách tác động đến quá trình trưởng thành, phát triển và
hoà nhập các thế hệ thanh thiếu niên để đáp ứng các yêu cầu phát triển KT
XH.
III. Vai trò của NNL đối với việc phát triển KTXH nước ta
Ngày nay, trước sự phát triển nh vò bão của cuộc Cách mạng KHCN và
Thông tin, sù giao lưu trí tuệ và tư tưởng sự liên minh kinh tế giữa các khu
vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ
tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá
nền kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang
tính toàn cầu và đang đi tới thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh
đó khu vực châu ÁThái Bình Dương đang nổi lên là khu phát triển kinh tế
năng động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế nhanh chóng là vai trò của NNL.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động
đông và rẻ thì không thể tiến hành CNH, mà đòi hỏi phải có một đội ngò lao
động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn cao mà Nhật Bản nà các nước Nics (các nước công nghiệp mới)
vận hành có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều mặt
hàng có thể cạnh tranh với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Để đảm bảo thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phải bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và động lực
phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế mà
còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chất
lượng con người, không chỉ với tư cách là nguời lao động sản xuất, mà với tư
cách là mội công dân trong xã hội mội cá nhân trong tập thể, mội thành viên
trong cộng đồng nhân loại… không thể thực hiện CNH, HĐH nếu không có
10
đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật
tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những
nhà lãnh đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông rộng.
Vào những năm 80, quan điểm phát triển NNL đã trở thành vấn đề quan
tâm đặc biệt ở châu Á Thái Bình Dương. Con người được coi là yếu tố quan
trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới muốn giải quyết hài hoà các
yếu tố cung và cầu có liên quan đến chiến lược phát triển NNL thì cần xem
xét khía cạnh NNL theo quan hệ mọi phía. Phải thấy được vai trò sản xuất
của nguồn là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con người. Và vai trò sản
xuất của NNL có quan hệ chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể hiện bằng
chất lượng cuộc sống. Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu đảm
bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia
và sự bền vững của môi truờng. Nền kinh tế nước ta chỉ có thể đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh hiệu quả KTXH cao khi nền kinh tế ấy thực sự dùa
trên cơ sở CNH, HĐH trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bền vững…
CNH, HĐH đang đặt con người trước những vấn đề phức tạp nan giải
cả trong quan hệ giữa người với người cũng như giữa người với tự nhiên.
Để giải quyết chúng, cần có sự thay đổi sâu sắc cách nghĩ, cách nhìn, cách
hành động của con người. Đây chính là lý do vì sao mà nhiều nhà khoa học
kêu gọi phải tiến hành cuộc “cách mạng con người” bởi vì “cách mạng con
người là chìa khoá mở đường cho hoạt động tích cực, đưa đến mội cách sống
mới và đổi mới số phận con người”. CNH, HĐH với cách mạng con người là
hai mặt của một quá trình phát triển thống nhất. Công cuộc phát triển này to
lớn phức tạp và khó khăn đến mức phải có sự nỗ lực to lớn mới mong “đẩy
tới mội bước” trong thời gian tới.
11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN NNL Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng của việc phát triển NNL thời kỳ 19962000
1. Về chỉ số phát triển con người (HDI)
Theo báo cáo phát triển con người năm 2000 của UNDP đánh giá trình
độ phát triển con người của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đạt thứ
hạng 108/174 nước trên thế giới tham gia xếp hạng, với giá trị chỉ số HDI là
0,671, với các chỉ tiêu tuổi thọ bình quân đạt 67,8/năm(chỉ số tuổi thọ đạt
0,71); tỷ lệ biết chữ của người lớn là 92,9% và tỷ lệ huy động đi học các cấp
của trẻ em 6 – 23 tuổi là 63%(chỉ số kiến thức đạt 0,83); GDP thực bình quân
đầu người đạt 1.689 ppp$US (chỉ số thu nhập 0,47), tăng 13 bậc so với năm
1992 và vượt 24 bậc so với thứ hạng xếp về GDP bình quân đầu người.
2. Về số lượng NNL
Số lượng NNL tăng lên đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội; dân số trong tuổi lao động đã tăng tuyệt đối 12,5 triệu người sau
10 năm (từ 33,8 triệu năm 1990 lên 44,8 triệu người năm 1999, chiếm 58,4%
dân số và trên 46 triệu người, chiếm 59,1% dân số năm 2000), trung bình mỗi
năm tăng trên 1,2 triệu người.
3. Về thực trạng chất lượng của NNL
Thực trạng chất lượng của NNL đã tăng lên và đóng góp đáng kể cho
tăng trưởng kinh tế và phát trtiển xã hội nhưng vẫn là rất thấp và tồn chứa
nhiều bất hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền
và sử dụng lãng phí.
3.1. Trình độ học vấn của dân số trong tuổi lao động khá cao và đã tăng
lên: số người mù chữ đã giảm từ 8,4% (thành thị 3,7%, nông thôn 10,2%) năm
1989 xuống 3,8% (nữ 4,78%, thành thị 1,7%, nông thôn 5,9%) năm 1998; số
năm học cao nhất bìng quân đạt 7,3 năm (nữ 7 năm); thành thị 8,8 năm (nữ 8,6
12
năm); nông thôn 6,9 năm (nữ 6,6 năm); vùng đạt cao nhất là ĐBS Hồng: 8,6
năm và vùng đạt thấp nhất là ĐBS Cửu Long: 5,9 năm). Đặc biệt là số người
thuộc nhóm tuổi 1 8 – 34 có số năm đi học bình quân là 9,5 năm là tiền đề
thuật lợi để đào tạo và nâng cao trình độ nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát
triển KTXH trong thời kỳ đến năm 2010; đã có tới trên 18 triệu người đã tốt
nghiệp PTCS trở lên, tỷ trọng trong tổng số LLLĐ tăng tương ứng từ 45,4%
lên 48,3%… nhưng còn khác biệt lớn theo vùng (cao nhất là ĐBS Hồng đạt
75,4% và thấp nhất là ĐBS Cửu Long:21,8%) và có trên 5 triệu người đã tốt
nghiệp PTTH trở lên. Ngoài ra còn số học sinh đang học ở các trường sẽ là
lực lượng đáng kể bổ sung vào chất lượng LLLĐ: Cuối năm học 1998 1999
đã có 1.150 ngàn em dù thi tốt nghiệp PTCS và trên 425 ngàn thanh niên dự thi
tốt nghiệp PTTH. Đó là nguồn vốn quý, nếu tổ chức quản lý, đào tạo và sử
dụng tốt thì đây là mội lợi thế so sánh rất đáng kể cho đất nước bước vào
thế kỷ XXI.
3.2. Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của nguồn nhân lực
Theo tổng điều tra dân số 1.4 1999 cả nước có 2,5 ngàn Tiến sĩ khoa
học, 8,8 ngàn tiến sĩ chuyên nghành, 17,2 ngàn thạc sĩ, 936 ngàn người có
trình độ đại học, 379,2 ngàn người có trình độ cao đẳng, 1526.2 ngàn người
có trình độ THCN, 1.239,8 ngàn người có trình độ CNKT, NVKT có bằng,
chiếm 7,6% tổng người từ 13 tuổi trở” lên (tỷ lệ này của các nước trong khu
vực là 49 50%). Như vậy vẫn còn lại 92,4% là lao động chưa lành nghề
không có chuyên môn kỹ thuật, nếu so sánh với giai đoạn 3 của trình độ tiến
bộ kỹ thuật, từ thủ công lên cơ khí hoá (như nước ta hiện nay) thì đội ngũ lao
động có chuyên môn kỹ thuật ở nước ta là quá thấp nhưng chúng ta lại có đội
ngũ cán bộ đại học và trên đại học cao hơn rất nhiều.
Quan hệ cơ cấu chất lượng LĐ & trình độ tiên bộ kỹ thuật (%)
Loại lao động
Lao động giản đơn
3
15
Các giai đoạn tiến bộ kỹ thuật
4
5
6
7
8
9
10
7
13
11
CNKT chưa lành nghề
60
65
37
11
3
CNKT lành nghề
20
20
53
45
60
55
40
21
Kỹ thuật viên
4
6,5
8
12,5
21
30
40
50
60
Kỹ sư
1
1,5
2
4,5
7
10
17
25
34
Trên đại học
0,5
2
2
3
4
6
(Nguồn: Lao động kỹ thuật, Đề tài cấp nhà nước 88.76.054, Bộ LĐTBXH)
Theo F.M.harbison: “Trong một chu kỳ dài, tốc độ tăng việc làm cần
lao động đã qua đào tạo thường tăng 23 lần tốc độ tăng của GĐP”. Ở nước
ta, lực lượng lao động đã qua đào tạo đã tăng lên với tốc độ luôn luôn thấp
hơn tốc độ tăng của GĐP (4,05%/năm thời kỳ 19801989 và 7,3%/năm thời
kỳ 1990 2000) nên không đáp ứng nhu cầu lao động có kỹ thuật cho phát
triển kinh tế xã hội.
Cơ cấu đội ngũ lao động đã qua đào tạo theo cấp trình độ còn bất hợp
lý, rất thiếu công nhân và nhân viên kỹ thuật. Trong hầu hết các ngành đều ở
tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” ví dụ: trong ngành y tế định mức hợp lý là 1
bác sĩ/4 kỹ thuật viên và người phục vụ nhưng hiện nay tỷ lệ này ở nước ta
là 1/1,3…
Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của LLLĐ trên các vùng đều thấp
và chênh lệch đáng kể. Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 1996,
trong tổng số lao động đang làm việc trong nhành công nghiệp và xây dựng,
tỷ trọng lao động đã qua đào tạo là 27,7%, cao nhất là ở ĐBS Hồng, Đông
Nam Bộ, TDMN Bắc Bộ (30 37%), thấp nhất là ở Duyên hải miền Trung,
ĐBSCL, Tây Nguyên (18 20%); Trong khối ngành dịch vụ là 21,8%, còn
trong nông lâm nghiệp chỉ có 3,85%, cao nhất là ở ĐBS Hồng, Đông Nam Bộ
(trên 5%) thấp nhất là ở ĐBSCL (0,88%).
Bảng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đang làm việc trong các ngành trên
các vùng năm 1996 (%)
Tổng số
Cả nước
10,5
14
Trong đó
CN&XD NLN Dịch vụ
27,7
3,86
21,83
Vùng núi và trung du
9,77
37,02
4,61
40,9
Đồng Bằng Sông Hồng
13,7
33,5
5,5
38,77
Bắc Trung Bộ
9,18
25,32
4,98
26,36
Duyên hải miền Trung
7,89
18,73
2,62
19,59
Tây Nguyên
8,03
20,35
3,0
31,44
Đông Nam Bộ
17,39
30,59
5,32
18,43
Đồng bằng Sông Cửu Long
6,33
20,7
0,88
15,13
3.3. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (tri thức)
a) Số lượng đã tăng khá: Do kết quả của mở rộng quy mô đào tạo ồ ạt
thời gian qua, số người có trình độ CĐ ĐH trở lên khá cao, đến năm 1999 có
trên 1,3 triệu người và có 28,5 ngàn người có trình độ trên ĐH. Hiện có hơn
45.000 cán bộ làm việc trong khu vực NCKH(R&D), khoảng 200.000 người
làm việc trong các trường ĐH CĐ. Tỷ lệ cán bộ có trình độ CĐ ĐH/1vạn
dân đã tăng từ 11 (năm 1995) lên 17,7 (năm 2000) (một số nước trong vùng đã
đạt trên dưới 50 người/1vạn dân).
Tính riêng số cán bộ nghiên cứu và kỹ sư trên một vạn dân, ta có (4)
cao hơn Ấn Độ (1,1), Thái Lan (2,5), Trung Quốc (2,5) và tương đương
Malaixia (4), nhưng thấp xa so với Singapore (400), Hàn Quốc (47), Nhật
Bản (81)…
b) Hậu quả của cơ cấu và chất lượng đào tạo,cơ cấu đội ngò cán bộ
KHCH trong tình trạng “dư thừa” cán bộ nghiên cứu lý thuyết. Thiếu đội
ngò cán bộ thực hành những công trình sư, nhà công nghệ, kỹ sư thực hành
giỏi hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
c) Về sử dụng còn nhiều bất hợp lý: hầu hết tập trung ở cấp TW, ở
các cơ quan gián tiếp, ở các thành phố lớn và rất nhiều ở những vùng nông
thôn, vùng sâu vùng xa.
Số cán bộ có trình độ PTS trở lên hầu hết tập trung ở các trường đại
học, các cơ quan Trung ương và hai thành phố lớn Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.
15
Có tới 19,2% cán bộ KHCN làm việc ở Hà Nội, 14% ở TP.Hồ Chí
Minh, còn ở Cao Bằng chỉ có 0,6%, Sơn La 0,47, Lai Châu 0,27, Kiên Giang
0,4%…
Các cơ quan hành chính, sự nghiệp chiếm 633,7% cán bộ KH KT,
trong đó riêng ngành giáo dục chiếm 43%, còn các ngành sản xuất kinh doanh
chỉ có 32,7% (chỉ tiêu này của Thái Lan là 58,2%, Hàn Quốc 48%, Nhật
64.4%, Singapore 44%). Nói chung các doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp ở phía nam, tỉ lệ cán bộ có trình độ có trình độ cao còn rất thấp.
Là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, 69%lao
động lám nông lâm ngư nghiệp, song 89,3% số cán bộ KHKT có chuyên
môn thuộc lĩnh vực này lại làm việc ở các cơ quan TW; 8,9% làm việc ở cấp
thành phố và tỉnh; 1,8% ở cấp huyện, còn ở cấp xã gần như không có ai.
d) Đội ngũ cán bộ KHCN tuy có tiềm năng trí tuệ cao, tiếp thu nhanh
tri thức mới nhưng còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tácvà rất thiếu
cán bộ đầu đàn, thiếu cán bộ giỏi về kinh tế, quản lý, tài chính, ngân hàng…
Một điều tra mới đây cho thấy chỉ có 30,9% số người được hỏi ý kiến là có
thái độ sẵn sàng hợp tác với đồng nghiệp.
e) Có sự chuyển dịch và hẫng hụt lớn đội ngũ chuyên gia đầu ngành
trong các ngành khoa học công nghệ khi bước vào thế kỷ XXI. Tình trạng
thất nghiệp của đội ngũ tri thức có xu hướng tăng lên.
Theo tài liệu điều tra của Bộ KHCNMT về tỷ lệ dịch chuyển lao
động (có mặt đến 11.7.1995) thì tỷ lệ người ra đi là 12% và người đến là
8,5%, trong đó tỷ lệ tương ứng của giáo sư là 11,4% và 1,5%; phó giáo sư là
11% và 4,1%; tiến sĩ là 9,6% và 5,3%… Trong vòng 510 năm tới hẫnh hụt về
cán bộ KHKT đầu ngành là khó tránh khỏi.
f) Trong khi chất lượng của NNL còn thấp, số lượng và tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo còn ít, thì tỷ lệ thất nghiệp của lao động đã qua đào tạo khá
cao và tăng nhanh đặc biệt là ở cấp cao đẳng, đại học và trên đại học. Trong
giai đoạn 19961999, ở khu vực thành thị: số thất nghiệp có trình độ CĐ, ĐH
16
tăng bình quân 12,8%/năm; số thất nghiệp có trình độ đào tạo sau đại học
tăng đột biến từ 0,51% trong tổng số lượng lao động có cùng trìng độ (năm
1996) lên 7,3% (năm 1999) trong khi rất nhiều vùng, ngành rất cần lại không
được đáp ứng. Đây là tồn tại rất lớn trong chính sách sử dụng lao động kỹ
thuật đặc biệt là đối với số người đưọc đào tạo bằng nguồn ngân sách nhà
nước nếu khong được tháo gỡ thì sẽ gây lãng phí lớn, kìm hãm phát triển và
gây ra sự bất công bằng xã hội.
3.4. Đội ngũ cán bộ quản lý nói chung còn bất cập so với yêu cầu thực
tiễn hiện nay, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác quản lý cả tầm vĩ mô và
vi mô.
a) Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế (QLKT) trong các cơ quan nhà nước.
Kết quả điều tra mới đây tại 9 bộ, tổng cục, cho thấy:
Đội ngũ cán bộ làm việc trong các cơ quan quản lý có 198.236 người,
chiếm 13,5% số lượng công chức nhà nước, trong đó nam 65%, nữ 35%.
Tuổi trung bình là 46 là 70% tập trung ở nhóm 40 50 tuổi và chỉ có
1/5 là dưới 35 tuổi (ở một số bộ tỷ lệ này chỉ 4 5%)
Về trình độ chuyên môn: 84% tốt nghiệp CĐ, ĐH và trên ĐH.
Về trình độ lý luận chính trị: 60% là sơ cấp, chỉ có 5% là cao cấp.
Phần lớn trưởng thành từ chuyên môn và chưa được trang bị kiến thức về
QLKT.
Khả năng sử dụng máy vi tính đạt 64%, tuy nhiên mới chỉ sử dụng
vào công việc giản đơn và soạn thảo văn bản. Đáng chú ý là trên 89% cán bộ
trên 45 tuổi không biết sử dụng máy vi tính. Nhìn chung kỹ thuật tin học chưa
trở thành công cụ quan trọng phục vụ quản lý.
Trình độ ngoại ngữ: có 5,5% không biết ngoại ngữ nào, tuy nhiên số
có bằng D trở lên rất ít, số người có thể sử dụng phục vụ công tác chuyên
môn không nhiều.
b) Cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh. Kết quả điều tra cho thấy:
17
Trên 80% chủ doanh nghiệp là nam, tỷ lệ nữ giữ chức vụ giám đốc
chỉ thuộc loại hình công ty TNHH (23,9%), DNNN 18,8%; DNở nông thôn
14,1%…
Độ tuổi giám đốc: Tuổi trung bình là 40, trong đó độ tuổi 40 49 là
42%; độ tuổi 50 – 59 là 32%; độ tuổi 30 – 39 là 20%
Về trình độ: 77% có trình độ đại học. Đa số chưa được đào tạo về
trình độ quản lý kinh doanh. Kết quả điều tra tự đánh giá năng lực có 19,5%
giám đốc cho rằng công tác hiện nay là “rất phù hợp ”, 79% cho là phù hợp,
chỉ có 2% cho là không phù hợp (thuộc nhóm doanh nghiệp tư nhân và công ty
TNHH).
69% là giám đốc được bổ nhiệm, có 11% là theo chế độ bầu cử và
6% là được thuê.
Xuất thân của giám đốc doanh nghiệp tư nhân là công ty TNHH có
49% trước đây đã là giám đốc và phó giám đốc DNNN, 25% đã là cán bộ các
cơ quan quản lý Nhà nước, cộng hai loại này là 74%…
Số cán bộ QLKT có trình độ ĐH trở lên hầu hết tập trung ở thành phố,
còn ở nông thôn hầu hết mới tốt nghiệp PTCS, chỉ có 19,2% tốt nghiệp ĐH.
Đội ngò quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn hầu
hết đều thiếu kiến thức quản lý cần thiết, chỉ có 30% số chủ doanh nghiệp là
có qua líp quản lý trên dưới 3 tháng. Đa số họ thành lập doanh nghiệp và bắt
đầu kinh doanh là do thấy người khác làm ăn được thì bắt chước. Chỉ có 25%
số chủ doanh nghiệp biết rõ về luật công ty và luật DNTN,44% biết các luật
thuế, 25% biết luật lao động, 22% biết về luật phá sản và đặc biệt chỉ có 8%
biết về luật đầu tư và có đến 60% chủ doanh nghiệp không biết rõ về luật
này.
Những vấn đề trên đây cho thấy thực trạng số lượng và chất lượng
của đội ngò lao động QLKT ở nưóc ta. Một nhà văn hoá lớn rất có lý khi cho
rằng “có một thứ quý hơn tài năng và hiếm hơn tài năng Đó là biết sử dụng
tốt tài năng của người khác”. Còn ông cha ta đã dạy “một người biết lo bằng
18
mét kho người làm” đã nói lên vai trò và ý nghĩa quan trọng của lao động quản
lý và cán bộ làm quản lý. Vì vậy đào tạo lại và xây dựng mới đội ngò cán bộ
quản lý kinh tế phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới là cấp bách và là biện
pháp quan trọng để phát huy vai trò nhân tố con người.
3.5. Đội ngũ công nhân kỹ thuật (CNKT): quy mô còn nhỏ, số có trình
độ lành nghề còn quá thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất
nước cả về số và chất lượng.
Theo số liệu thống kê, trên cả nước số công nhân lành nghề được đào
tạo chính quy theo hệ thống chuẩn quốc gia chỉ chiếm 18,4% tổng số CNKT,
trong đó chỉ có 8% là thợ bậc cao, còn lại là chủ yếu đào tạo theo các loại
hình khác.
Hiện nay, nhu cầu CNKT còn rất lớn: các DNNN thiếu 34%; DNTN và
có vốn đầu tư nước ngoài thiếu hơn 35%; lao động phổ thông thừa 17%
(DNNN thừa 30%). Trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu LĐKT cho các KCK,
KCN còn nhiều hạn chế (chẳng hạn KCN Đồng Nai hàng năm cần tuyên 25
30 ngàn lao động kỹ thuật nhưng chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu…) thì tình
trạng thất nghiệp của đội ngò lao động nói trên vẫn tiếp diễn.
Theo điều tra lao động việc làm ở các doanh nghiệp TP HCM 1998
2000 thì tình trạng thất nghiệp của đội ngò lao động đã qua đào tạo ở khu vực
thành thị cả nước là 4,88% (năm 1999), giảm 1,66% so với năm 1996. Bình
quân cả nước hàng năm thời kỳ 19961999, con số trên vẫn tăng cả tuỵêt đối
(6909 người) và tương đối (5,47%). Tuy nhiên đáng lưu ý là số thất nghiệp ở
trình độ CNKT và sơ cấp lại giảm cả tuyệt đối và tương đối(4,18%), trong
khi số thất nghiệp ở trình độ THCN và CĐ, ĐH lại tăng lên.
Tóm lại: Tình hình hiện tại phản ánh tình trạng không cân đối cung
cầu của thị trường lao động kỹ thuật, đang rất thiếu đội ngò lao động có chất
lượng cao (nhiều doanh nghiệp, các khu CN, khu chế xuất…) đang rất thiếu
lao động lành nghề và phải thuê lao động nước ngoài) đồng thời lại rất thừa
19
do chất lượng kém; Thừa chuyên ngành này, thiếu chuyên ngành kia; Thừa ở
thành phố song lại thiếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa.
4. Về sử dụng lao động đã qua đào tạo còn bất hợp lý
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong LLLĐ đang làm việc của cả nước
đã tăng lên từ 10,44% (thành thị 23,04%, nông thôn 5,74%) năm 1989lên 13,3%
(thành thị 33,4%, nông thôn 8,1%) năm 1998.
Tỷ lệ huy động thấp (khoảng 70%), có sự khác biệt rất lớn giữa các
ngành KTQD, giữa các vùng nên không phát huy được hết năng lực của đội
ngũ này.
a) Sự phân bố khác nhau giữa các ngành. Ngành nông lâm nghiệp với
hơn 70% lao động nhưng chỉ có khoảng 14%, tổng số LĐKT. LĐKT tập trung
trong khu vực dịch vụ (hơn 52%), chủ yếu là trong ngành giáo dục và y tế;
khu vực CN&XD là 34%. Điều này dẫn tới về sự khác nhau về tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo trong tổng số lực lượng lao động đang làm việc trong các
ngành(CN&XD là27,7%, Dịch vụ là 21,8%; Nông Lâm nghiệp chỉ có 3,85%).
Trong tổng số cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp có tới 89,3% làm việc ở
các cơ quan trung ương; 8,9% làm việc ở cấp thành phố và tỉnh; 1,8% ở cấp
huyện, còn ở cấp xã gần như không có ai nên đã hạn chế đưa KHCN vào
sản xuất nông nghiệp và nông thôn.
b) Cơ cấu trình độ lao động (ĐH/THCN/CNKT) sử dụng trong mỗi
ngành còn bất hợp lý và cải thiện rất chậm.
CN&XD; 1/1, 79/8, 17 (năm 1989) so với 1/0, 88/7,4 (năm 1996).
NôngLâmThuỷ sản; 1/4, 65/5, 86 (năm 1989) so với 1/5, 5/4,83 (năm
1996).
Hành chính sự nghiệp; 1/1, 4/0, 17 (năm 1989) so với 11/1, 15/0, 11
(năm 1996).
Toàn bộ nền kinh tế xã hội; 1/1, 68/2, 2,3 (năm 1989) so với 1/1, 6/4 3
(năm 1996).
20
c) Mặc dù LĐKT chủ chiếm tỷ lệ nhỏ trong lực lượng lao động, song
lại phân bố không đều giữa các vùng, tỉnh/thành phố. Năm 1998, lao động kỹ
thuật phân bố tập trung chủ yếu ở hai thành phố Hà Nội, TP HCM, ở hai
vùng ĐBSHồng (26,7%) và Đông Nam Bộ (23,5%), nhất là vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ và Nam Bộ. Các vùng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lực
lượng LĐKT cả nước là Tây Nguyên (2,9%), Tây Bắc (2,85%), Duyên hải
Nam Trung Bộ (7,62%). Do đó tỷ lệ lao động kỹ thuật trong tổng số lao động
đang làm việc trong các ngành KTQD của các vùng chênh lệch khá lớn: cao
nhất là vùng ĐBSH 27%, ĐBTĐNB 21,6%, ĐNB 18,2% và thấp nhất là
ĐBSCL 6% và Tây Nguyên 7,2%.
Sự cách biệt lớn về LĐKT giữa các thành phần kinh tế đã thu hẹp dần.
Nếu như trước đây khu vực nhà nước chỉ chiếm khoảng 14% lao động XH,
nhưng lại tập trung tới 77,4% tổng số LĐKT của cả nước (năm 1989) thì nay
do chủ trương giảm biên chế ở khu vực hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước nên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang có lực hót mạnh
mẽ đối với hệ thống đào tạo đã được phát triển: với lực lượng LĐKT, đặc
biệt là lao động có trình độ cao.
5. Đã hình thành hệ thống cơ sở đào tạo nghề nghiệp rộng khắp
bao gồm: 139 trường CĐĐH; Hệ thống 247 trường THCN; Hệ thống 151
trường dạy nghề chính quy trong đó có hai trường dạy nghề quốc tế; Trên
1000 cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thục và khoảng 500 trung tâm dạy
nghề Quận/huyện; 189 trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dạy
nghề nhưng năng lực và chất lượng đào tạo chưa cao, cơ cấu đào tạo bất hợp
lý về trình độ, ngành nghề và phân bố không hợp lý theo vùng, miền…
5.1. Số lượng đào tạo tăng nhanh nhưng không cân đối giữa các bậc
học, đặc biệt là cao đẳng đại học tăng quá nhanh. Tỷ lệ học sinh tham gia
đào tạo nghề nghiệp các loại so với tổng số thanh niên 1823 tuổi vẫn còn rất
thấp, mới chỉ có 5% (năm 1989), 7,56% (năm 1995) và 11,54% nếu kể cả dạy
21
nghề ngắn hạn là 17,46% (năm 1998), trong khi tỷ lệ này của nước phát triển
là 8090%.
5.2. Về chất lượng đào tạo thấp chưa đáp ứng nhu cầu:
Cơ cấu các cấp đào tạo CĐ, ĐH/THCN/CNKT mất cân đối lớn nhưng
chậm được cải thiện tất yếu dẫn tới sự mất cân đối về cơ cấu giữa các
LĐKT.
Cơ cấu ngành nghề đào tạo rất bất hợp lý. Khối đào tạo nghề những
năm gần đây phát triển nhanh, thường gấp 45 lần học sinh nghề chính quy
dài hạn góp nhần tăng nhanh sè lao động đã qua đào tạo. Riêng năm 1999 có
900.000 học sinh học nghề các loại, trong đó dai hạn chỉ có 150.000 người.
Hệ thông sơ sở vật chất kỹ thuật tuy có được đầu tư đáng kể nhưng
nhìn chung là lạc hậu, chậm được cải thiện chưa tương xứng với mức tăng
sinh viên, đặc biệt là ký túc xá, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo và các
điều kiện học tập cho sinh viên thiếu nghiêm trọng.
Đội ngũ giáo viên giảng dạy không tăng theo kịp mức tăng quy mô
sinh viên:
+ Đội ngũ giáo viên giảng dạy CĐ, ĐH tăng không đáng kể từ 21.889
người (năm 1990) lên 22.750 người (năm 1995) và 26.120 người (năm 1998)
dẫn đến tình trạng quá tải: số lưọng sinh viên CĐ,ĐH/giáo viên tăng từ 4,48
người (năm 1990) lên 13,1 người (năm 1995) và 30,1 người (năm 1998).
+ Số giáo viên THCN giảm liên tục từ 10395 người (năm 1990) xuống
9.425 người (năm 1995) và 9960 người (năm 1998).
+ Số giáo viên dạy nghề hầu như không đổi từ 6.103 người (năm
1990), 6.055 người (năm 1995) và 6.193 người (năm 1998)…
Nội dung chương trình, phương pháp… còn nhiều bất cập nên chất
lượng sinh viên tốt nghiệp thấp, không đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động và có xu hướng tỷ lệ nghịch với tăng quy mô.
22
Tình trạng trên cùng với chính sách sử dụng chưa hợp lý đã dẫn đến
hậu quả thất nghiệp cho đội ngũ sinh viên CĐ, ĐH tốt nghiệp hiện nay, nếu
ta không điều chỉnh kịp thời sẽ càng nghiêm trọng hơn.
5.3. Phân bố các cơ sở đào tạo nghề nghiệp không đồng đều theo lãnh
thổ, chưa tương ứng với dân số và nhu cầu phát triển KTXH.
Điều đặc biệt lưu ý là các trường do trung ương quản lý hầu hết tập
trung chủ yếu ở các vùng có các khu công nghiệp và kinh tế phát triển mạnh
như đồng bằng bắc bộ (42,3%), Đông Nam Bộ (30,6%) Miền Núi và Trung
Du phía Bắc (27%).
Hàng loạt trường trung học sư phạm của tỉnh được nâng cấp thành
trường cao đẳng sư phạm. Tính đến năm 1998, không kể các trường trực
thuộc bộ GDĐT, đã có 44/61 tỉnh có trường cao đẳng sư phạm.
Những cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật và phần lớn các trường
THCN do địa lý do là nơi có nhu cầu cao về lao động kĩ thuật này… Vì vậy,
thanh niên nông thôn ít có cơ hội được đào tạo nghề.
Các vùng có mật độ trường cao nhất là các vùng phía bắc:
Đồng bằng Bắc Bộ chiếm tới 38,7% miền núi và trung du phía bắc
đứng thứ hai với 19,3% Đông Nam Bộ 17,3% trong khi đó, cả vùng Duyên hải
Trung Bộ và Tây Nguyên chỉ chiếm 10% và đến năm 1997 vẫn còn khá nhiều
tỉnh không có một trường đào tạo CNKT nào (Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Sóc Trăng, Trà Vinh).
Sự phân bố các cơ sở đào tạo nghề nghiệp rất chênh lệch theo vùng là
một trong những nguyên nhân không đẩy nhanh được phát triển đào tạo nghề
nghiệp làm cho tỷ lệ đi học của thanh niên nhiều vùng còn thấp và có sự
chênh lệch rất lớn giữa các vùng về tỷ lệ này. Theo điều tra mức sống 1997
1998, tỷ lệ đi học ở nhóm 1823 cao nhất ở các vùng Đồng bằng Bắc Bộ
16,73%, Đông Nam Bộ 15,09%, thấp nhất ở Tây Nguyên 1,97% và miền núi
trung du phía bắc 5,42%. Sự chênh lệch giữa các nhóm dân cư cũng rất đáng
kể: Số học sinh được đi học ở cấp trên trung học phổ thông thuộc nhóm
23
nghèo nhất hầu như không có ai ở nông thôn chỉ có 5,71%, trong khi ở thành
thị là 22,3%.
6. Quan hệ giữa tăng trưởng và biến đổi cơ cấu kinh tế với giải
quyết việc làm, sử dụng lao động xã hội con nhiều bất hợp lý tác động
đến phát triển NNL.
6.1. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần giải quyết việc làm và nâng
cao chất lượng NNL, song chưa đáp ứng nhu cầu.
Trong thời kỳ 19921997, GDP tăng trưởng trung bình 9,1%, trong đó
lao động tăng 3,1% và năng suất lao động xã hội tăng 5,8%. Trung bình tăng
trưởng 3% GDP đã làm tăng 1% việc làm và nâng cao hiệu quả sư dụng
nguồn lao động. Số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân đã tăng từ
30,3 triệu người (năm 1990) lên 34,6 triệu (năm 1995) và gần 37 triệu (năm
1997), bình quân mỗi năm tăng 95,8 vạn người (2,9%/người) nhưng thấp hơn
mức và tốc độ tăng của LLLĐ, nên số lượng và tỷ lệ người thất nghiệp và
thiếu việc làm vẫn tăng lên. Năm 1998 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực nên tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu
việc làm cao…
Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ngày càng nghiêm trọng: Theo
tổng điều tra dân số 1.4.1999 có 1,45 triệu người thất nghiệp chiếm 4,05%
LLLĐ. Theo ĐTLĐVL 1.7.1998 có tới trên 9,4 triệu người thiếu việc làm
thường xuyên (tăng 0,9 triệu so với năm 1997), trong đó gần 1,2 triệu ở thành
thị và trên 8,2 triệu ở nông thôn (tăng 0,9 so với năm 1997), trong đó 84% ở độ
tuổi 1544. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của lao động hoạt động kinh tế
thường xuyên ở nông thôn mới đạt 72,9%. Điều đó có nghĩa là khoảng 10
triệu người, chiếm 28,5% LLLĐ của cả nước đang thất nghiệp và thiếu việc
làm…
Quan hệ giữa bình quân GDP/người và cơ cấu lao động đang làm việc
ở các nước đang phát triển điển hình
24
Mức GDP/người
GDP/người và cơ cấu lao động đang làm việc (%)
(USD)
Tổng số
320
960
1600
2560
3200
100
100
100
100
100
Nông nghiệp
66
49
39
30
25
Công nghiệp
9
21
26
30
33
Dịch vô
25
30
35
40
42
(Nguồn: Kinh tế học của sự phát triển, Viện QLKTTƯ dịch 1990)
Ở nước ta, tăng trưởng kinh tế các ngành khác nhau đã làm biến đổi cơ
cấu kinh tế (GDP) kéo theo sự biến đổi về cơ cấu phân công LĐXH: trong
thời kỳ 19911997, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đã giảm từ 72,6% xuống
69%; tương ứng GDP ngành dịch vụ tăng từ 35,7%42,5% và lao động tăng từ
13,8%18,5%; GDP công nghiệp và xây dựng tăng từ 23,8%31,7% nhưng lao
động lại giảm từ 13,6%12,5%.
Khu vực nônglâmngư nghiệp: chiếm 8% tổng số vốn đầu tư, GDP
nông nghiệp đã tăng 4,7%/năm và lao động tăng 2,1% và NSLĐ nông nghiệp
tăng 2,5% và rất thấp. Tỷ trong nông nghiệp đã giảm nhưng vẫn rất cao, cao
hơn mức trung bình của nước có GDP/ng 320 USD; tình trạng thiếu việc làm
của lao động nông nghiệp ở nông thôn là rất nghiêm trọng.
Khu vực công nghiệp: GDP công nghiệp tăng bình quân 13,8%/n trong
đó lao động tăng 1,6%/năm và NSLĐ công nghiệp tăng 12,2%/n. Sự tăng
trưởng nhanh của công nghiệp dùa vào các ngành có dung lượng vốn lớn
nhưng sử dụng Ýt lao động. Các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp
nông thôn và công nghiệp tiêu dùng, đặc biệt là công nghiệp gia dụng, công
nghiệp chế biến có thị trường rất lớn phục vụ cuộc sống của gần 77 triệu
dân, trên 17 triệu hộ gia đình, đặc biệt là ở nông thôn và tạo gia nhiều việc
làm chưa được quan tâm phát triển và còn để hàng ngoại chiếm lĩnh…
Khu vực dịch vụ với 17 phân ngành đã tăng nhanh và có chuyển biến
tích cực trong cơ cấu GDP và thu hót thêm nhiều lao động góp phần chuyển
dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang dịch vụ. Tuy nhiên số lao động làm
dịch vụ trên 10 ngàn dân ở nước ta năm 1997 mới đạt 889 người và chất
25