TIỂU LUẬN Luận điểm của C.Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”. Ý nghĩa phương pháp luận trong xây dựng, phát triển c
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.72 KB, 20 trang )
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Con người là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các môn khoa học, đặc
biệt là các khoa học xã hội và nhân văn. Khác với những môn khoa học khác,
triết học nghiên cứu con người ở góc độ chung nhất, khái quát nhất. Con người
là chủ thể sáng tạo của mọi sáng tạo, của phát triển và tiến bộ. Vì vậy, hơn bao
giờ hết, việc nghiên cứu con người hoặc chăm lo lợi ích con người phát huy yếu
tố con người có ý nghĩa lớn lao trong sự đổi mới toàn diện nước ta.
Luận điểm của Mác về con người viết trong tác phẩm “Luận cương về
Phoiơbắc” (1845) “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hoà những mối quan hệ xã hội” là định nghĩa về con người chứa đựng
tính nhân đạo cao cả, cho đến nay nó còn nguyên giá trị về lí luận và tư tưởng,
soi sáng về phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu về con người - vấn đề
trọng tâm của mọi khoa học, để đi tới mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng
con người và giải phóng nhân loại. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới hướng
mục tiêu vào chiến lược con người ở nước ta, việc nghiên cứu bản chất con
người trong vấn đề giáo dục nhân cách có ý nghĩa thời sự, cấp bách nên tôi
chọn Luận điểm của C.Mác: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”. Ý nghĩa
phương pháp luận trong xây dựng, phát triển con người hiện nay làm chủ
đề tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của tiểu luận
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề tư tưởng về con người trong lịch sử triết
học trước Mác; tư tưởng của C.Mác về bản chất con người từ đó rút ra ý nghĩa,
phương pháp luận trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam hiện nay.
1
NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
TRƯỚC MÁC
1.1. Tư tưởng con người trong lịch sử triết học phương Đông
a) Vấn đề con người trong triết học Trung Hoa cổ đại
Các nhà tư tưởng của triết học Trung Hoa cổ đại hầu như đều tập trung
bàn đến con người. Họ không tách con người ra khỏi thế giới; xem con người
là một phần của tự nhiên, hoà đồng với tự nhiên, chú ý và nhấn mạnh đến mặt
xã hội nhân sinh của con người.
Khi bàn đến con người, Khổng Tử cho rằng: “người là cái đích của trời
đất, trước hết là sự giao hợp của âm dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là khí
tinh tú của ngũ hành”. Còn Lão Tử cho rằng: Con người và vật chất là do
“Đạo” sinh ra. Trong mối quan hệ con người và xã hội thì Lão Tử lại xây dựng
học thuyết con người vô vi, bất tranh, thụ động trước mọi thế lực thù địch.
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc còn có Mặc Tử với thuyết “Kiêm ái”.
Ông là người đầu tiên đã lấy lao động làm cái để phân biệt sự khác nhau giữa
con người và con vật, đồng thời ông cũng là người đầu tiên chủ trương xây
dựng một hình tượng con người với đầy đủ các mối quan hệ kinh tế lẫn quan
hệ tinh thần trong đời sống xã hội. Dù còn nhiều ảo tưởng và duy tâm, song
học thuyết về con người của Mặc Tử có nhiều tiến bộ.
Có thể nói, triết học Trung Hoa cổ đại chú ý đến con người xã hội hơn
con người tự nhiên, con người đạo đức hơn con người trí tuệ. Vấn đề con
người được bàn đến ở đây chủ yếu đều thiên về mặt đời sống tinh thần. Tuy
có nhiều mặt tiến bộ, song nó không thoát ly khỏi đường lối triết học duy tâm,
do đó không đem lại cách giải thích đúng cho con người.
b) Vấn đề con người trong triết học Ấn Độ cổ đại
2
Trong triết học Ấn Độ cổ đại, vấn đề con người được thể hiện rõ ở hệ
thống không chính thống, trong đó Phật giáo là một khuynh hướng nổi tiếng
của Ấn Độ. Phật giáo có cái nhìn duy vật về con người, cho con người là
nguyên nhân chính của họ. Phật giáo cũng thấy được sức mạnh của con
người, con người tự chịu trách nhiệm về mình, tự giải thoát cho mình chứ
không nhờ một lực lượng nào khác ở bên ngoài bản thân con người, đồng thời
luôn đề cao con người, hướng con người tới cuộc sống thiện đúng như bản
tính vốn có của nó. Tuy nhiên, khi giải thích nguồn gốc cá nhân của con
người, triết học Phật giáo chưa nhận thấy nguồn gốc của con người là thoát
thai từ động vật. Phật giáo không thừa nhận con người là một thực tại khách
quan vì nó là “vô thường”, “vô ngã” là “giả tượng”.
1.2. Tư tưởng về con người trong triết học phương Tây
a) Vấn đề con người trong triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại
Các đại biểu đầu tiên của chủ nghĩa duy vật cổ đại đã xem xét con
người ở tính tồn tại hiện thực của nó. Bản chất con người như một nhân tố cấu
thành tồn tại nói chung, là một phần của tự nhiên. Nói cách khác, con người là
một vũ trụ thu nhỏ lại, là bản sao vũ trụ lớn, là sự phản ánh của vũ trụ lớn.
Cũng như mọi vật khác, con người đều bắt nguồn từ một bản nguyên vật chất
xác định như: nước (theo Ta-lét) hoặc không khí (theo A-naximen) hoặc lửa
(theo Hêracơlít) hay một dạng Apeuron (như Anaximăngđrơ).
Tuy các quan niệm trên rất thơ ngây, nhưng đã nhấn mạnh nguồn gốc
con người là một dạng vật chất cụ thể chứ không phải do thần thánh sinh ra.
Những quan niệm này đã đặt nền móng cho sự phát triển của các tư tưởng duy
vật trong triết học sau này.
b) Vấn đề con người trong triết học thời kì Phục Hưng và cận đại
Vấn đề con người trong triết học thời Phục Hưng và cận đại trở thành
trung tâm của các triết học. Đối lập với thế giới quan tôn giáo hạ thấp con
người, coi con người là một sinh vật thụ động chỉ biết thờ phụng chúa và cầu
3
mong được chúa rửa tội, triết học thời kỳ này chứng minh sức mạnh của con
người, đấu tranh cho sự giải phóng con người và những tư tưởng nhân đạo
được phát triển. Đại biểu cho thời kỳ khai sáng là triết gia Nicôlai Ku-dan.
Mặc dù có những điểm tích cực, song yếu tố duy vật xen kẽ yếu tố duy tâm,
xu hướng vô thần biểu hiện dưới cái vỏ phiếm thần là một đặc điểm nổi bật
trong triết học thời kỳ này nói chung, tư tưởng về con người nói riêng. Thời
cận đại tư tưởng triết học hướng về đề cao quyền tự nhiên của con người, bản
chất sâu xa của con người (bản nguyên). Đại biểu tiêu biểu đó là Hốp-xơ,
Xpi-nô-da; Đề-các…
Tóm lại, triết học thời kỳ Phục Hưng và cận đại là một bước phát triển
mới về tư tưởng con người. Ở đây, con người được giải thích như là một hiện
tượng sinh học và chúng là tuyệt tác của tạo hoá. Con người được xem xét
trong mối quan hệ với đời sống hiện thực, đề cao con người với tư cách là
một cá nhân tích cực, trong đó con người được hoàn thiện cả về mặt thể xác
và thể lực, mặt trí tuệ và mặt nhân đạo của con người được đề cao. Tuy nhiên,
những quan niệm về con người ở đây chúng ta đều thấy nét đặc trưng khái
quát của nó là tính chất máy móc, siêu hình.
c) Vấn đề con người trong triết học cổ điển Đức
Có thể nói, triết học cổ điển Đức là một bước tiến mới về chất so với
các tư tưởng triết học trước đó. Triết học đã đề cao vai trò tích cực của hoạt
động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là chủ thể đồng thời
là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình. Ở đây diễn ra cuộc đấu
tranh trong chủ nghĩa duy vật (đại biểu là Phoiơbắc) và chủ nghĩa duy tâm
(đại biểu là Hêghen), trong phương pháp biện chứng (đại biểu là Hêghen) và
phương pháp siêu hình (đại biểu là Phoiơbắc). Theo Hêghen, con người là sản
phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm tuyệt đối”, con người là
sự tha hoá “ý niệm”. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người là
công cụ để “tinh thần tuyệt đối” nhận thức chính bản thân mình và trở về với
4
bản thân mình. Như vậy, ông đã thấy mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Ngược lại, Phoiơbắc cho rằng con người như một sinh vật có cảm giác, biết tư
duy, có ham muốn, có ước mơ, là một bộ phận của giới tự nhiên và xét theo
bản chất của nó là tình thương. Con người mà ông quan niệm là một cá nhân
trừu tượng, mang tính chất sinh - lí thụ động, bị tách khỏi những điều kiện
kinh tế - lịch sử, ngoài các quan hệ giai cấp, Phoiơbắc chưa thấy rõ mặt xã hội
của con người.
Nhìn chung, tư tưởng về con người trong lịch sử triết học trước Mác đã
nêu trên đây nổi lên tính phiến diện hoặc sai lầm nhưng đã biểu hiện được qui
luật khách quan. Triết học phân tâm học của Phơ rớt (1856 - 1939) nhìn nhận
con người như một cá thể sinh vật đối lập với xã hội và coi sức mạnh của con
người là sức mạnh của bản năng vô thức, trong đó cái đam mê tình dục giữ
vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, một số nhà Triết học tư sản hiện đại và chủ
nghĩa sinh học xã hội đã đưa ra quan niệm của mình về con người. Các-náp,
một đại diện của trường phái vật lý trong triết học đã cho rằng: “Con người về
nguyên tắc không phân biệt với tự nhiên, đó là một khách thể vật lý”. Uy-Sơn,
người theo thuyết học - xã hội đã nhấn mạnh: “Ngọn nguồn cái bản chất của
con người là cái sinh vật”. Theo ông thì 70% những đặc tính được xây dựng
nên ở con người là do khả năng bẩm sinh, còn 30% là do xã hội. G.Spen-ser
đã tuyệt đối hoá tầm quan trọng đặc biệt yếu tố sinh học trong bản chất con
người. Ông cho rằng: “Hành vi của con người về nguyên tắc không có gì khác
với hành vi con vật. Tiền đề của hành vi đạo đức có trong mỗi động vật”. Còn
Kiếc-cô-gơ, ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh, người Đan Mạch lại cho: “Bản
chất của con người là một thứ phù du”. Nhà triết học Đức Nitxơ định nghĩa:
“Bản chất của con người là bạo hành và sáng tạo”. Còn C.herrick lại quan
niệm: “Tất cả những gì của con người do bẩm sinh mà có thì không bị thay
đổi do các điều kiện xã hội”.
5
Tất cả những quan điểm đó đều nhấn mạnh yếu tố sinh học mà bỏ qua
hoặc chưa chú ý đến mặt xã hội, môi trường hoàn cảnh tác động đến việc hình
thành con người, đó là tính phiến diện phi Mácxít. Toàn bộ tư tưởng về con
người của các nhà triết học phi Mácxít vẫn nổi lên tính phiến diện khi nghiên
cứu con người. Kế thừa có chọn lọc và bổ sung, phát triển các tư tưởng triết
học của các nhà tiền bối, triết học C.Mác ra đời đã khắc phục được những hạn
chế trên, đồng thời đưa ra một tư tưởng mới về con người.
II. TƯ TƯỞNG CỦA MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
2.1. Tính hiện thực của bản chất con người.
Sở dĩ, khi bàn đến con người, C.Mác đã đặt trong tính hiện thực bởi vì:
trong triết học cổ điển Đức, con người được xem xét một cách sai lệch. Hê-ghen
đã quan niệm duy tâm về con người, cho con người là hiện thân của “ý niệm
tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”, còn Phoiơbắc lại tách con người ra khỏi đời
sống xã hội, qui tính sinh vật vào bản chất con người. Để chống lại các quan
điểm sai lầm đó, C.Mác đã xem xét con người trong tính hiện thực của nó.
Mặt khác, trong triết học C.Mác, vấn đề thực tiễn là điểm xuất phát có tính
chất nền tảng.
Trong hoạt động thực tiễn, bằng trí tuệ thiên tài của mình, C.Mác đã
từng bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen sang chủ nghĩa duy vật
của Phoiơbắc. Ông đã kế thừa có chọn lọc những giá trị tinh tuý của nền triết
học trước đó và giữ lấy “nhân hợp lí” của sự phát triển trong dòng chảy liên
tục của triết học. Đồng thời, Mác đã vượt qua những hạn chế của các nhà triết
học trước Mác hoặc cùng thời, phát hiện phương pháp nghiên cứu hiện thực
mới, làm cơ sở phương pháp luận, không chỉ riêng Mác xít mà còn cho cả các
ngành khoa học cơ bản. Phát hiện lớn của Mác đó là thấy được con người
trong hoạt động thực tiễn, thông qua thực tiễn con người làm biến đổi đời
sống xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình. Nói cách khác, con
người có khả năng cải tạo thế giới và cải tạo mình thông qua hoạt động thực
6
tiễn. Hoài bão lí tưởng của Mác là vì con người và sự nghiệp giải phóng giai
cấp, xã hội, giải phóng cho mỗi người lao động khỏi áp bức, bóc lột bất công.
Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” Mác viết: “Thay cho xã hội tư sản cũ,
với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”. Đó là tư tưởng nhất quán, là sợi chỉ đỏ, xuyên suốt
triết học Mác.
Trong “Luận cương về Phoiơbắc” C.Mác đã nhấn mạnh đến vai trò của
thực tiễn: “Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”. Và cũng trong tác phẩm này,
Mác đã khẳng định về bản chất con người: “Bản chất con người không phải
là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Với định nghĩa này,
Mác đã đưa ra phạm trù “con người thực tiễn”, không phải là cái nhìn trừu
tượng mà là cụ thể - cảm tính, được đặt vào trong hoạt động sản xuất thực
tiễn, xem xét trong mối quan hệ không tách rời với tự nhiên, xã hội. Con
người là một sinh vật, cũng có nghĩa con người là một bộ phận của tự nhiên,
gắn bó với quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên. Song đó là một
thực thể tự nhiên luôn hoạt động và chứa đựng trong mình những khả năng to
lớn về sự phát triển.
Theo Mác thì con người là kết quả của lịch sử phát triển vật chất - giới
tự nhiên. Trong “Bản thảo kinh tế - triết học” - 1844 C.Mác viết: “Con người
là một sinh vật có “tính loài” giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người...
Vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”. Con người muốn phát triển
và tham gia vào các hoạt động xã hội, trước hết phải tồn tại, phải được thoả
mãn các tiền đề về tự nhiên như một cá thể sinh vật - xã hội. Điều tất yếu đó
vốn có từ xa xưa trong lịch sử, vẫn tồn tại tự nhiên nhưng bị che khuất bởi tất
cả những giải thích tôn giáo thần bí của các thế lực thống trị mà thực chất là
7
sự trốn chạy khỏi hiện thực. Chỉ khi nào giải quyết được thoả đáng những tiền
đề tự nhiên con người mới có cuộc sống và yên tâm bước vào địa hạt của hoạt
động sáng tạo. Ở đây, tính biện chứng thể hiện: trong quá trình tồn tại, con
người đã không ngừng sáng tạo, hoạt động thực tiễn của con người càng đi
sâu bao nhiêu, càng sáng tạo bao nhiêu thì nó càng xuất hiện những tiền đề
bản năng ban đầu, đem vào cho con người bản chất người hơn bấy nhiêu.
Trong đó, đáng chú ý nhất là hoạt động sản xuất vật chất và những lợi ích của
vật chất mà nó thu được trong hoạt động sản xuất vật chất đó.
Khi nghiên cứu con người, Mác đã không hề phủ nhận tự nhiên, không
hề gạt bỏ cái sinh vật của con người. Theo Mác, nếu nghiên cứu con người và
giải quyết các vấn đề con người thì sẽ chỉ là ảo tưởng và duy tâm. Trong “Hệ
tư tưởng Đức” - 1848, Mác đã viết: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử
nhân loại thì tự nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống. Vì
vậy, điều đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy
trong mỗi quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra trong họ với phần còn lại của
tự nhiên”. Tự nhiên là một phần cơ thể con người, là môi trường, là điều kiện
để con người tồn tại và phát triển. Con người tìm trong tự nhiên những điều
kiện sống và những yếu tố vật chất cho sự sinh tồn của mình. Trong quá trình
phát triển, con người không ngừng tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó
theo những nhu cầu sáng tạo của mình và đã tạo ra một “tự nhiên thứ hai.”
Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen khẳng định “chỉ có con người
mới đạt được tới chỗ in cái dấu ấn của mình lên giới tự nhiên”.
Con người là một sinh vật đặc biệt phát triển tới đỉnh cao của sự tiến
hoá, sinh vật - xã hội. Hoàn toàn khác với giới sinh vật thuần tuý mà ở đó bản
năng thống trị, con người đã vượt qua giới hạn bản năng ban đầu, biết tư duy
sáng tạo, biết hoạt động lao động để đảm bảo cho sự tồn tại của chính bản thân
mình. Chính trong quá trình lao động, con người đã thể hiện hoạt động sáng tạo
của mình và đã để lại dấu ấn ngày càng nhiều trong thế giới hiện thực. Con
8
người là chủ thể đã tạo ra mọi giá trị vật chất của thế giới. Nhưng kết quả lao
động sáng tạo của con người “chỉ có thể biến mất đi cùng với sự diệt vong của
trái đất”. Qua quá trình sáng tạo và làm biến đổi tự nhiên, con người đã tìm
thấy được mình, tìm thấy sức mạnh để cải tạo xã hội và dung nạp vào nó ngày
càng nhiều hơn những giá trị chung của văn hoá nhân loại. Trong tác phẩm “Tư
bản - phê phán khoa kinh tế chính trị” 1859, Mác đã chỉ ra “lao động trước hết
là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng
hoạt động của chính mình con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự
trao đổi chất giữa họ và tự nhiên... Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên
ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng
đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó”. Chính thông qua hoạt động
thực tiễn, lao động sản xuất, con người đã hình thành nên tính xã hội trong bản
thân, con người thực sự trở thành người, đồng thời mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên đã chuyển sang mối quan hệ giữa con người với con người.
Ăngghen viết: “Trên một định nghĩa nhất định nào đó, chúng ta phải nói rằng
“lao động sáng tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động loài người đã trải
qua những biến đổi về mặt sinh học, đồng thời xét đến cùng, lao động đã hình
thành nên bản chất con người và qui định phẩm chất xã hội đặc biệt của con
người trong những điều kiện lịch sử cụ thể”.
Thiên tài của Mác là đã vượt qua được những hạn chế trong lịch sử,
khắc phục, loại bỏ được những thiếu sót, những yếu tố sai lầm của các quan
niệm Triết học trước kia về bản chất con người, nhận thức đúng đắn và khoa
học về bản chất con người. Mác không chỉ đưa ra những dấu hiệu bản chất để
phân biệt con người với thế giới loài vật mà còn vạch ra cái bản chất cụ thể
xác định của con người, đặt con người vào trọng tâm của quá trình nhận thức
và cải tạo thế giới. Con người cũng là một thực thể xã hội, vì con người có
ngôn ngữ, có tư duy, biết lao động và có những mối quan hệ giao tiếp trong
đời sống, điều đó con vật không thể có được. Đó là bản chất xã hội của con
9
người. Dĩ nhiên khi sinh ra, con người cần có những tiền đề để tồn tại, đó là
tiền đề vật chất. Chỉ có thông qua hoạt động xã hội, mà chủ yếu là lao động
sản xuất, tiền đề đó mới được đáp ứng. Vì vậy, qua lao động sản xuất, con
người mới tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình, cải tạo thế giới, đồng
thời làm biến đổi mặt sinh vật của con người, làm cho mặt sinh vật được
“người hoá”. Như vậy, lao động sản xuất như là một chuẩn mực để phân biệt
con người với con vật. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ăngghen viết: “Bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay từ
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
là con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Và
trong “Bản thảo kinh tế - Triết học” 1844, C. Mác khẳng định: “Con người có
một hoạt động sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái có tính quyết định
mà với nó con người trực tiếp hoà làm một. Như vậy, hoạt động xã hội của
con người chủ yếu là lao động sản xuất, hoạt động cải tạo thế giới đã làm
thành “người hoá”. Chính toàn bộ sự hoạt động ấy đã làm cho những nhu cầu
sinh vật ở con người trở thành nhu cầu xã hội”.
Trong quá trình tiến hoá của tự nhiên nói chung và của bản thân giới
động vật nói riêng, nhờ có lao động và ngôn ngữ, con người đã thể hiện được
bước nhảy vọt căn bản về chất. Đó là chuyển từ động vật với sự thống trị của
bản năng thành động vật xã hội có ý nghĩa. Là con người, tuy nhiên, khi mới
tách khỏi thế giới động vật thì con người “còn là nửa động vật, thô lỗ, còn bất
lực trước những lực lượng của chính mình; vì vậy họ cũng nghèo như động
vật và cũng không hơn động vật mấy về sức sản xuất”. Lao động là nguyên
nhân sâu xa dẫn tới sự chuyển hoá từ vượn thành con người. Lao động sản
xuất còn là tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, của lịch sử.
Quyết định luận mà Mác đã chỉ ra là: con người muốn sống được, trước hết
phải được thoả mãn những nhu cầu tất yếu như: ăn, ở , mặc, đi lại... theo đó
thì hành vi lịch sử đầu tiên của con người là lao động sản xuất ra những tư
10
liệu tiêu dùng để thoả mãn những nhu cầu ấy của mình. Đó không chỉ là điều
kiện cơ bản cho sự tồn tại và hoạt động sống của con người từ hàng nghìn
năm về trước mà còn là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của con
người và loài người hiện nay và mãi mãi sau này.
Rõ ràng, xem xét ở góc độ này thì con người không chỉ là một thực thể
tự nhiên mà còn là một thực thể xã hội. Ở con người, cái sinh vật và cái xã hội
thống nhất hữu cơ với nhau, là tiền đề và điều kiện của nhau trong sự hình
thành, phát triển và hoàn thiện bản chất người của con người xã hội. Như vậy,
Triết học Mác đã xem xét con người như là một thực thể song trùng trên cả
hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nhờ ưu thế của tính có ý thức, ý thức điều
khiển bản năng mà bản năng người của con người không còn là một bản năng
thuần tuý như động vật. Nó được cải biến theo hướng xã hội hoá, nhân tính
hoá để ngày càng có tính người nhiều hơn.
Theo C.Mác, hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa con người và tự
nhiên là vấn đề xã hội bởi vì “bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn tại với con
người xã hội vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái
khâu liên hệ con người với con người, mới là sự tồn tại của con người đối với
người khác và sự tồn tại của người khác đối với người đó, mới là nhân tố sinh
hoạt của hiện thực con người chỉ có trong xã hội, tự nhiên mới hiện ra như là cơ
sở của tồn tại có tính chất người của bản thân con người chỉ có trong xã hội, tồn
tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối
với con người và tự nhiên mới trở thành con người đối với con người”.
C.Mác đặt con người trong tính hiện thực không có nghĩa chỉ dừng lại
xem xét con người trong hoạt động thực tiễn, trong đó quan trọng nhất là hoạt
động sản xuất và hoạt động cải tạo xã hội. Ở “lời góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị” Mác viết: “Con người theo nghĩa đen của nó là một động
vật xã hội, không những là một động vật có tính hợp quần mà còn là một
động vật chỉ có thể tách riêng ra trong xã hội mà thôi”. Ông còn khẳng định:
11
“Trong mọi trường hợp con người đều là một động vật xã hội”. Trong “Biện
chứng của tự nhiên” Ăngghen cũng khẳng định: “Con người đó là một loài
động vật có xương sống mà trong đó giới tự nhiên đạt tới trình độ tự nhận
thức được mình”. Như vậy, con người trong triết học C.Mác là con người hiện
thực, cụ thể - cảm tính. Con người với tư cách là một tổng thể tồn tại bao gồm
cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Đó là một “sinh vật” có tính loài, có ý thức, là
“động vật xã hội”, “động vật chế tạo công cụ” và “tự nhận thức được mình”.
Vì vậy con người ở đây là con người làm chủ tự nhiên và xã hội. Con người
đã đặt mọi sự vật hiện tượng của thế giới hiện thực vào phạm vi nhận thức
của mình, do đó nó đã trở thành chủ thể của nhận thức, đồng thời cũng là
khách thể của nhận thức. Ăngghen viết: “Chúng ta phải xuất phát từ cái tôi,
từ con người thực tế, bằng da bằng thịt để không dấu giếm được gì trong đó,
mà là xuất phát từ chúng ta, xuất phất từ đây để đi đến với con người”. Còn
C.Mác lại viết: “Con người hiện thực, con người nhục thể đứng vững trên
mảnh đất vững chắc… thu hút vào mình và tự mình lại toả ra tất cả lực lượng
tự nhiên”. Như vậy, bản chất của con người không phải là một cái gì trừu
tượng mà nó có tính lịch sử - cụ thể, có nghĩa là nội dung của bản chất ấy tuy
về căn bản vẫn có tính xã hội, song nó lại biến đổi tuỳ theo nội dung cụ thể
của thời đại, của hoàn cảnh xã hội - văn hoá và văn hoá sinh hoạt.
2.2. Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
Các quan hệ xã hội là những quan hệ giữa những cộng đồng xã hội của
con người, xuất hiện trong quá trình sản sinh và tái sản sinh ra chính bản thân
con người với tư cách là những chủ thể xã hội hoàn chỉnh.
Ngay từ khi còn là học sinh trung học, Mác đã ý thức được rằng: “Một
người chỉ lao động vì mình thôi thì người đó có thể trở nên một nhà bác học
nổi tiếng... Nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con người
thật sự hoàn thiện và vĩ đại... Còn nếu người ấy làm nhiều nhất cho nhân loại
thì... hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng triệu người”. Điều đó có
12
nghĩa là một con người chân chính, theo Mác, không thể tồn tại đơn độc mà
chỉ có trong mối quan hệ với người khác, trong các mối quan hệ xã hội. Suốt
qúa trình nghiên cứu khoa học của mình, Mác đề cập đến con người không
phải như một sinh vật thuần tuý. Theo Mác, con người hiện thực đời sống
sinh vật theo cách của mình, tạo thành văn hoá của một cộng đồng người và
của toàn nhân loại. Mác nêu bản chất con người không phải là một cái nhìn
trừu tượng, cố hữu, riêng biệt mà “trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Con người chỉ biểu hiện mình
trong hoạt động thực tiễn và quan trọng nhất là trong lao động sản xuất. Muốn
thực hiện hoạt động lao động sản xuất để sinh tồn và phát triển thì buộc con
người phải quan hệ với nhau. Trên cơ sở quan hệ lao động, và chính từ lao
động, mới hình thành bản chất xã hội của con người. Bản thân quá trình lao
động, do không chỉ đạt tới những nhu cầu tồn tại, mà còn là phương thức phát
triển nhu cầu sáng tạo của con người. Những quá trình lao động sáng tạo, con
người đã tạo nên những giá trị văn hoá, mặt khác chính những giá trị này tác
động trở lại, hình thành bản chất con người xã hội. Ở đây, Mác đưa khái niệm
“tổng hoà”, không phải giản đơn là số cộng thông thường. Đó chính là sự thu
hút, đúc kết những tinh tuý từ những quan hệ xã hội của con người. Trong quá
trình lao động sản xuất, con người không chỉ tác động vào tự nhiên mà còn tác
động lẫn nhau giữa người với người, nhờ vậy mà hình thành nên các mối quan
hệ xã hội. Theo Mác “Muốn sản xuất được, người ta phải có mối liên hệ và
quan hệ nhất định với nhau, và sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là
việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội
đó”. Bằng hoạt động thực tiễn là lao động sản xuất ra “thế giới vật thể”; cải tạo
giới tự nhiên, con người đã tỏ ra là một sinh vật có tính loài, có ý thức. Với tư
cách là một cá thể, một chỉnh thể có ý thức con người không tách khỏi môi
trường xã hội - lịch sử. Khác với những sinh vật thuần tuý bản năng, con người
thực sự là một sinh vật xã hội. Nó đứng trên đỉnh cao của sự tiến hoá giống
13
loài. Là một sinh vật, con người củng cố bản năng như mọi sinh vật khác. Song
là một sinh vật - xã hội, con người có ý thức, có năng lực hoạt động tự giác và
sáng tạo sức mạnh ấy chỉ riêng con người mới có. Đó là một hành vi lịch sử xã hội, là kết quả được tạo ra trong hoạt động thực tiễn và nhờ thực tiễn - xã
hội. Và chính qua những hoạt động đó nền văn hoá cộng đồng người - nhân
loại được hình thành. Con người tồn tại, phát triển trước hết nhờ tác động giữa
con người với tự nhiên, giữa người với người trong muôn vàn mối quan hệ. Xã
hội - bất cứ dưới hình thức nào đều là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa
người với người. Từ luận điểm về bản chất xã hội của con người, Mác cho
chúng ta thấy rằng bản chất đó chỉ hình thành và phát triển trong các quan hệ
xã hội và tất cả các quan hệ xã hội được tổng hoà lại thành bản chất con người.
Như vậy, Mác đã vạch rõ yếu tố cấu thành bản chất con người là các
quan hệ xã hội, hơn nữa lại là bản chất xã hội trong tính hiện thực trực tiếp
của nó. Trong các tác phẩm trước đó, Mác đã bàn đến tính xã hội của bản chất
con người trong các hoạt động sống của họ như là những tiền đề đầu tiên của
sự tồn tại và sự sáng tạo. C.Mác nhấn mạnh mặt xã hội, yếu tố đặc trưng trong
nhân cách con người - yếu tố đặc thù để phân biệt con người và con vật vì con
người chỉ trở thành người khi cá nhân đó mang nhân cách. Nhân cách của mỗi
cá nhân là sản phẩm của xã hội, nó mang ý nghĩa và được đánh giá thông qua
xã hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách thông qua các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể, phụ thuộc từng giai đoạn lịch sử nhất định của hình thái kinh tế
- xã hội, nhân cách của mỗi con người đều được qui định bởi nhân tố xã hội,
nhân tố sinh vật và nhân tố tâm lý, trong đó nhân tố xã hội đóng vai trò quyết
định. Mác đã chỉ ra rằng: con người hiện thực, cá nhân hiện thực là con người
xã hội. Bản chất của nó là tổng hoà các quan hệ xã hội, gia đình là cấp độ xã
hội đầu tiên trong hệ thống: quan hệ tập thể, quan hệ giai cấp (mang tính lịch
sử), quan hệ dân tộc, tôn giáo và rộng hơn là những quan hệ mang tính nhân
loại. Các quan hệ xã hội của con người hình thành trong con người tham gia
14
vào đời sống xã hội, chủ yếu là tham gia hoạt động lao động sản xuất. Quan
hệ sản xuất là cơ sở của các quan hệ xã hội khác. Bản chất xã hội của con
người là kết quả tạo thành từ các lĩnh vực hoạt động của con người, con người
phản ánh tổng hoà các quan hệ xã hội vào bản thân mình đồng thời con người
thể hiện sự sáng tạo của mình thông qua các quan hệ xã hội đó.
Trong khi khẳng định bản chất của con người là tổng hoà các mối quan
hệ xã hội, Mác đã chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Cá nhân là cá
thể mỗi con người, cá nhân là một phần tử đơn nhất của cộng đồng, cá nhân là
chủ thể mang nhân cách. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện
chứng, con người là sản phẩm của xã hội nên sự phát triển của mỗi cá nhân phụ
thuộc vào sự phát triển của xã hội. Sự phát triển xã hội là điều kiện để phát
triển cá nhân, sự phát triển cá nhân với phát triển xã hội là thống nhất biện
chứng với nhau.
Trước Mác, Triết học đã không nhận thức được mọi hoạt động và khả
năng quy định bản chất con người chỉ được hình thành, phát triển và thể hiện
trong các quan hệ xã hội, trong lao động sản xuất. Theo Mác, tất cả những
quan hệ xã hội được tổng hoà để trở thành bản chất người và chỉ có ở con
người được xem như là một sinh thể biết tư duy, biết hoạt động sáng tạo và có
khả năng nhận thức, cải tạo thế giới hiện thực và cải tạo chính bản thân mình.
Tính chất quan hệ và những khả năng đó không thể có ở bất kì sinh vật nào
khác. Trong tác phẩm Triết học đầu tay - “Gia đình thần thánh” - C. Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng, con người chỉ tồn tại thực sự khi đặt trong mối quan
hệ với cộng đồng, xã hội; nếu bị tách rời ra khỏi quan hệ hữu cơ ấy thì con
người sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con
người thể hiện những bản tính, phương pháp và tư duy sáng tạo của mình.
“Nếu như con người là do hoàn cảnh tạo nên thì phải tạo ra những hoàn cảnh
hợp tính người. Nếu như con người, bẩm sinh ra, đã có tính xã hội thì do đó
chỉ có trong xã hội, con người mới có thể phát triển bản tính thực sự của mình
15
và lực lượng của bản tính của con người phải được đánh giá trong căn cứ vào
lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội”.
Khi đặt con người trong mối quan hệ với xã hội, con người hành động,
Triết học Mác đã thể hiện rõ là Triết học con người mang tính hiện thực trong
cải biến cách mạng, trong sáng tạo, giải phóng, tự do của nó. Bản chất và sự
thể hiện bản chất của con người hoàn thành không đồng nhất. Bản chất của
con người không phải là bất biến. Nó không ngừng thay đổi bởi vì các quan
hệ xã hội đã tạo ra nó luôn biến đổi không ngừng tuỳ theo các thời kì lịch sử.
Nghiên cứu những vấn đề trên đây trong quan niệm về con người của
C.Mác cho phép ta tìm thấy cơ sở, phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn
đề nhân tố con người và phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.
Trong hệ thống các phương pháp tiếp cận của đề tài con người, tiếp cận phức
hợp từ các mối quan hệ, hoạt động và nhân cách là cách tiếp cận căn bản và
có hiệu quả nhất.
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định
nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội
sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì
con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát
triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con
người. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định
một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành
công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà quá trình
đó đặt ra hay không phụ thuộc đáng kể vào con người.
Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm
chủ của nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng
tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng
16
xã hội mới”. Vấn đề con người được đề cập đầu tiên tại Đại hội lần thứ IV của
Đảng và được đề cập cụ thể, trực tiếp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm
1991). Đại hội toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta xác định đẩy mạnh hơn nữa sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát
huy nhân tố con người - động lực trực tiếp của sự phát triển. Tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là
vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của
chế độ ta… Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa
quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc
của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất phát
từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng
một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa
con người với con người trong sản xuất và trong đời sống.
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt
Nam những năm qua được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết
quả quan trọng. Quá trình cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong những
thời điểm lịch sử hiểm nghèo, những tình thế hết sức khó khăn, con người
Việt Nam đều rất sáng tạo, năng động và luôn tìm ra những lối thoát, những
đường hướng đi lên làm kinh ngạc cả bạn bè quốc tế. Lịch sử cũng chứng
minh: thời kỳ nào cách mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, tạo
mọi điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt Nam
luôn biết "chuyển bại thành thắng", chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế
trong đó con người là động lực trung tâm. Hiện nay, việc xây dựng con người
Việt Nam theo quan điểm của Đảng, là sự chuẩn bị tích cực, chủ động nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cho
tương lai và triển vọng của đất nước trên con đường phát triển theo mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội.
17
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh nhân tố con
người gắn với xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và
con người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn
hoá và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hoá. Yếu tố con người được đề
cập là những con người rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực, kỹ năng, trách nhiệm xã hội,… việc xây dựng con người phải
thông qua hoạt động thực tiễn, cụ thể của từng người, chứ không nói chung
chung. Đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể là: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh”
Với những quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong
suốt chặng đường phát triển đất nước đã phát huy hiệu quả và đạt được nhiều
thành tựu to lớn: Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế cũng ngày càng khởi
sắc và trên đà phát triển ổn định, đời sống của người dân được cải biến rõ nét,
con người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần nữa khẳng định đường lối
đúng đắn của Đảng và thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất;
chăm lo cho hạnh phúc của con người là tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng, là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
18
KẾT LUẬN
Vấn đề con người là một trong những vấn đề mà tất cả các khuynh
hướng, các trào lưu triết học ở mọi thời đại đều đưa lên vị trí trung tâm.
Nhưng chỉ đến Triết học Mác, lần đầu tiên trong lịch sử, Triết học Mác đã
đem lại cho việc nhận thức con người một thế giới quan và phương pháp luận
đúng đắn, thực sự khoa học trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mác đã giải quyết căn bản và triệt để vấn đề phức
tạp và nan giải nhất là vấn đề con người mà bao nhiêu thời đại chưa làm được.
Ông đã không chỉ đặt vấn đề giải phóng con người trong ý thức, không coi
nhận thức là cứu cánh mà con hiện thực hoá việc giải phóng đó, đưa ra một
tuyên ngôn mới về nền Triết học hành động: giải quyết và cải tạo thế giới.
Con người của Mác vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử. Con đường đi lên của con người là con đường lao động và cải
tạo để giành quyền làm chủ ngày một cao để giải phóng mình và vươn tới
đỉnh cao làm chủ bản thân mình. Như vậy, Triết học Mác chẳng những đã chỉ
ra nguyên nhân sâu xa của sự tha hoá con người mà còn vạch ra con đường
đúng đắn để giải phóng con người. Giá trị nhân đạo, tính khoa học và cách
mạng về bản chất con người trong Triết học Mác là ở chỗ đó. Vì thế mà Triết
học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung đã chứng tỏ rằng: con người là
điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của Triết học
Mác vì theo như Ăngghen viết: “Con người làm ra lịch sử của mình, vô luận
là lịch sử nào diễn ra như thế nào”. Theo lôgic tự nhiên, thời đại sau văn
minh hơn, tiến bộ hơn thời đại trước, bằng cách kế thừa và phát triển những
thành tựu văn hoá của chính thời đại “lạc hậu”, “lỗi thời” tạo ra, là cơ sở cho
văn minh nhân loại tiếp theo./.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác: Bản thảo Kinh tế - Triết học (1844), NXB Sự thật, Hà Nội.
2. C. Mác: Tư bản, quyển 1, tập 2, NXB Sự thật, Hà Nội.
3. C. Mác - Ăng ghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh: Vấn đề xây dựng Đảng, NXB Sự thật, Hà Nội.
5. Đặng Xuân Kỳ: Sự nghiên cứu phức hợp về con người
6. Đỗ Thiên Kính: Vấn đề bản chất con người.
7. Nguyễn Linh Khiếu: Về luận điểm của C. Mác “Bản chất con người
là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
8. Lịch sử triết học, triết học cổ điển Đức, Viện Hàn Lâm khoa học,
NXB Sự thật, Hà Nội.
9. Một số vấn đề Triết học Mác - Lênin với công cuộc đổi mới.
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Sự thật, Hà Nội.
11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
12. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
13. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội.
14. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
15. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng.
20