Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đa dạng hệ thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.62 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 51-56

ĐA DẠNG HỆ THỰC VẬT VÙNG HẠ LƯU SÔNG ĐẠI NINH
HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG
Đặng Văn Sơn
Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
TÓM TẮT: Kết quả nghiên cứu đa dạng thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh đã ghi nhận được 98 loài,
74 chi và 42 họ thuộc 4 ngành thực vật bậc cao có mạch là Thông đá (Lycopodiophyta), Cỏ tháp bút
(Equisetophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta) và Ngọc lan (Magnoliophyta). Có 56 loài (chiếm 57,1% tổng
số loài) có giá trị sử dụng để làm thuốc, làm thực phẩm, cây cảnh và gia dụng. Dạng sống của thực vật
được chia làm 6 nhóm chính bao gồm nhóm cây thân thảo, nhóm cây bụi (bụi/tiểu mộc), nhóm cây gỗ lớn,
nhóm cây gỗ nhỏ, nhóm thủy sinh và nhóm dây leo. Có 6 kiểu thảm thực vật được ghi nhận bao gồm:
quần hợp thực vật ưu thế nghể (Polygonum spp.), quần hợp thực vật ưu thế lục bình (Eichhornia
crassipes), quần hợp thực vật ưu thế tre gai (Bambusa bambos), quần hợp thực vật ưu thế cỏ ống
(Panicum spp.), quần hợp thực vật ưu thế dâu tằm, mai dương và quần hợp thực vật trên đất canh tác.
Từ khóa: Đa dạng, tài nguyên thực vật, thảm thực vật, Lâm Đồng, Việt Nam.
MỞ ĐẦU

Vùng hạ lưu sông Đại Ninh thuộc xã Ninh
Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Đây là
vùng có nền khí hậu đặc trưng cho khu vực Tây
Nguyên, nhiệt độ trung bình năm từ 22-27oC,
địa hình dốc và vị trí địa lý tương đối phức tạp,
hướng Đông Bắc giáp với huyện Đơn Dương và
thành phố Đà Lạt, hướng Tây Nam giáp với
huyện Lâm Hà, Di Linh thuộc tỉnh Lâm Đồng
và huyện Bắc Bình, Tuy Phong thuộc tỉnh Bình
Thuận. Hệ thực vật trong vùng chủ yếu là cây
bụi ven bờ, cây thân thảo, cây thủy sinh, cây ăn
quả và các loại cây hoa màu khác.
Mục đích của nghiên cứu này là khảo sát


hiện trạng thảm thực vật của các hệ sinh thái
trên cạn, thủy vực và nông nghiệp, nhằm góp
phần đánh giá nguồn tài nguyên thực vật, giúp
địa phương thuận lợi hơn trong việc quản lý,
khai thác và sử dụng bền vững nguồn tài
nguyên này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Ngoài thực địa
Thu mẫu thực địa: Tiến hành điều tra và thu
mẫu thực vật tại khu vực nghiên cứu. Mẫu vật
thu thập được chụp ảnh và xử lý sơ bộ ngoài
thực địa bằng dung dịch alcohol 70-80%, kèm
theo lý lịch mẫu. Tất cả các thông tin thu thập
ngoài thực địa được ghi chép vào sổ công tác
thực địa hằng ngày.
Đo ô mẫu: Hiện nay, có rất nhiều phương

pháp để nghiên cứu mối tương quan giữa thực
vật và các yếu tố môi trường. Tuy nhiên,
phương pháp Braun - Blanquet được dùng phổ
biến và dễ sử dụng nhất. Phương pháp này giúp
tiết kiệm thời gian và không phức tạp khi thu
thập và xử lý số liệu. Phương pháp được sử
dụng nhằm xác định một cách có hệ thống các
thảm thực vật với đơn vị căn bản các quần hợp
thực vật (association) trong khu vực khảo sát.
Phương pháp Braun - Blanquet dựa trên
thành phần loài có mặt để xác định các quần
hợp thực vật. Việc lấy mẫu đòi hỏi phải đảm

bảo các điều kiện sau: 1. Ô mẫu thực hiện trên
nhiều diện tích khảo sát và phân bố một cách
ngẫu nhiên; 2. Số lượng ô mẫu có thể thay đổi
tùy theo điều kiện khảo sát; 3. Các ô mẫu khảo
sát phải tương đối đồng nhất về quần hợp thực
vật, các điều kiện môi trường và diện tích.
Tuy nhiên, để đơn giản trong việc khảo sát
thực địa, chúng tôi chọn ô mẫu với kích thước
tương đối cho các kiểu thảm thực vật khác nhau:
1. Đối với thảm cỏ: 1 m  1 m (1 m2); 2. Đối với
rừng hỗn giao: 50 m  50 m (2.500 m2); 3. Đối
với rừng thuần loại: 100 m  100 m (10.000 m2).
Ghi nhận thành phần loài thực vật trong ô khảo
sát, đồng thời đánh giá mức độ có mặt của chúng
thông qua độ che phủ (coverage) và xã hội tính
(sociability). Hai đại lượng này mới chỉ được ước
lượng, chưa được tính toán.
Độ che phủ: là diện tích che phủ của một
loài nào đó trên diện tích ô mẫu và để mô tả
51


Dang Van Son

Braun - Blanquet đã phân biệt các cấp độ như
bảng 1.
Xã hội tính: cho biết sự có mặt của các cá
thể trong cùng một ô mẫu và được đánh giá theo
5 cấp độ như bảng 2.
Trong phòng thí nghiệm

Tất cả các mẫu thu được xử lý, phân tích

xác định tên khoa học dựa theo các tài liệu
chuyên ngành như: Lecomte (1922) [7], Phạm
Hoàng Hộ (1999-2000) [6], Simpson et al.
(1995) [9], Chen et al. (2006) [5]... và so mẫu
tiêu bản tại Bảo tàng thực vật (VNM), Viện
Sinh học nhiệt đới; Phòng tiêu bản thực vật
(HN), Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật và
Bảo tàng lịch sử tự nhiên Pháp (MNHN).

Bảng 1. Cấp độ che phủ
Cấp độ
5
4
3
2
1
r
+

Độ che phủ
76-100 % diện tích che phủ
51-75 % diện tích che phủ
26-50 % diện tích che phủ
6-25 % diện tích che phủ
1-5% diện tích che phủ
< 1 % diện tích che phủ
Chiếm diện tích nhỏ, thường chỉ có một đại diện


Bảng 2. Cấp độ phân phối của thực vật
Cấp độ
1
2
3
4
5

Dạng phân phối
Mọc lẻ tẻ
Mọc thành bụi
Mọc thành nhóm nhỏ
Mọc thành nhóm lớn
Mọc thành đám rậm

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Đa dạng về thành phần loài
Qua kết quả phân tích đã ghi nhận được
vùng hạ lưu sông Đại Ninh có 98 loài, 74 chi,

42 họ thuộc 4 ngành thực vật bậc cao có mạch
là Thông đá (Lycopodiophyta), Cỏ tháp bút
(Equisetophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta) và
Ngọc lan (Magnoliophyta) (bảng 3).

Bảng 3. Sự phân bố các taxon trong ngành
Ngành thực vật
Lycopodiophyta
Equisetophyta

Polypodiophyta
Magnoliophyta
Tổng cộng

Họ
1
1
2
38
42

Tỷ lệ
2,4
2,4
4,8
90,5
100

Từ kết quả trên, có thể đưa ra một số nhận
xét về hệ thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh
như sau: hệ thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh
có số lượng loài, họ tương đối phong phú, đặc
biệt là có 4 ngành trong tổng số 8 ngành thực
vật bậc cao có mạch, chiếm 50% tổng số ngành

52

Chi
1
1

2
70
74

Tỷ lệ
1,4
1,4
2,7
94,5
100

Loài
1
1
2
94
98

Tỷ lệ
1,0
1,0
2,1
95,9
100

của hệ thực vật Việt Nam. Ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) có thành phần taxon đa dạng
nhất, với 94 loài (chiếm 95,9% tổng số loài), 70
chi (chiếm 94,5 tổng số chi) và 38 họ (chiếm
90,5% tổng số họ) được phân bổ trong 2 lớp.

Lớp Ngọc lan (Magnoliopsida) có 58 loài thuộc


TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 51-56

46 chi của 30 họ thực vật; lớp Hành (Liliopsida)
có 36 loài thuộc 24 chi của 8 họ thực vật.
Hệ thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh có 4
loài thực vật khuyết, chiếm 4,1% tổng số loài
của hệ thực vật này. Nếu so với một số hệ thực
vật khác ở Việt Nam thì thực vật khuyết ở đây
có tỷ lệ thấp.
Các họ có số lượng loài lớn phải kể đến là
họ Hoà thảo (Poaceae) có 15 loài (chiếm 15,3%
tổng số loài), họ Cúc (Asteraceae) có 11 loài
(chiếm 11,2%), họ Lác (Cyperaceae) có 10 loài
(chiếm 10,2%), họ Dâu tằm (Moraceae) có 5
loài (chiếm 5,1%) và Rau răm (Polygonaceae)
có 4 loài (chiếm 4,1%).
Đa dạng về dạng sống và giá trị sử dụng
Theo cách phân chia dạng sống thực vật của
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997, 2008) [10, 11], tài
nguyên thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh
được chia làm 6 nhóm dạng sống chính bao
gồm: nhóm cây thân thảo, nhóm cây bụi
(bụi/tiểu mộc), nhóm cây gỗ lớn, nhóm cây gỗ
nhỏ, nhóm thủy sinh và nhóm dây leo. Trong
đó, cây thân thảo có 55 loài (chiếm 56,1% tổng
số loài), cây bụi (bụi/tiểu mộc) có 17 loài
(chiếm 17,4%), gỗ lớn có 12 loài (chiếm

12,2%), gỗ nhỏ có 3 loài (chiếm 3,1%), thủy
sinh có 4 loài (chiếm 4,1%), dây leo có 7 loài
(chiếm 7,1%). Như vậy, thành phần thực vật
chiếm ưu thế nhất của hệ thực vật khu vực
nghiên cứu là các loài cây thân thảo, chúng tạo
thành thảm thực vật có giá trị về mặt khoa học
và thực tiễn, tạo nên sự đa dạng của khu vực
nghiên cứu.
Trong số 98 loài thực vật được ghi nhận, có
56 loài có công dụng như làm thuốc, thực phẩm,
cây cảnh... chiếm 57,1% tổng số loài trong khu
vực nghiên cứu. Trong đó, số loài có công dụng
làm thuốc là 37 loài (chiếm 66,1% trong tổng số
56 loài), kế đến là loài làm thực phẩm có 14 loài
(chiếm 25,0%), làm cảnh có 3 loài (chiếm
5,3%) và gia dụng có 2 loài (chiếm 3,6%).
Các kiểu thảm thực vật khu vực nghiên cứu
Quần hợp thực vật ưu thế nghể (Polygonum
spp.)
Đây là kiểu thảm thực vật đặc trưng cho
vùng ngập nước thường xuyên và vùng chuyển
tiếp từ lưu vực lên thèm cao, các loài trong chi

Nghễ (Polygonum) chiếm ưu thế trong quần hợp
này. Phần lớn là nghể bun (Polygonum
persicaria), nghể không lông (Polygonum
glabrum), nghể lông (Polygonum pubescens) và
nghể láng (Polygonum lanigerum); chúng mọc
thành đám, tạo thành từng quần hợp nghể dọc
theo dòng nước từ chân đập đến thác Pongour.

Bên cạnh còn có nhiều loài cây thân thảo khác
mọc xen như: rau mương đứng (Ludwidgia
hyssopifolia), rau dừa nước (Ludwidgia
adcendens), cỏ ống (Panicum repens), dền gai
(Amaranthus spinosus), môn nước (Colocasia
esculenta). Quần hợp này có mặt chủ yếu trên
những vùng đất ngập và ẩm quanh năm, với
tầng bùn khá dày và thành phần dinh dưỡng
cao. Đặc biệt phong phú về thành phần loài,
gồm những loài có khả năng thích ứng với điều
kiện sống ngập và bán ngập theo định kỳ. Mức
độ đa dạng loài trong quần hợp rất nhạy cảm
với chế độ ẩm của đất. Sự thay đổi độ ẩm sẽ
nhanh chóng ảnh hưởng đến các loài thực vật,
mà trước tiên là các loài cây thân thảo có kích
thước nhỏ sống ở tầng đất mặt.
Quần hợp thực vật ưu thế lục bình (Eichhornia
crassipes)
Kiểu thảm này có mặt ở vùng ngập nước
quanh năm, phần lớn là những nơi nước đứng,
mật độ cá thể dày đặc, có đến 36-40 cá thể trong
một ô mẫu (1 m x 1 m). Một số loài thường gặp
trong kiểu này là mai dương (Mimosa pigra), cỏ
ống (Panicum repens), rau muống nước
(Ipomoea hederifolia), môn nước (Colocasia
esculenta), nghể láng (Polygonum lanigerum),
nghể không lông (Polygonum glabrum), rau
mương đứng (Ludwidgia octovalvis). Do đời
sống trôi nổi nên lục bình luôn chịu tác động
bởi yếu tố môi trường. Mưa, gió cũng có thể

làm cho mật độ cá thể trong quần hợp thay đổi.
Đặc biệt là vào mùa nước lớn, dòng chảy mạnh
cuốn theo những đám lục bình từ nơi này sang
nơi khác. Vì vậy, mà quần hợp này hầu như
không ổn định về môi trường sống theo thời
gian khảo sát.
Quần hợp thực vật ưu thế tre gai (Bambusa
bambos)
Tre gai phân bố ở những nơi thảm thực vật
bị tác động mạnh, rừng thường xanh trước đây
bị vỡ tán do tác động của con người, tạo điều
53


Dang Van Son

kiện cho sự xâm lấn của tre gai. Đây là kiểu
thực vật thứ sinh mọc gần như thuần loại ven
bờ, đôi khi chúng có mặt ở những vùng đất cao.
Các loài thường gặp ở tầng tán trong kiểu này
là: tâm nhầy (Centratherum intermedium), núc
áo rau (Spilanthes oleracea), quì (Helianthus
tuberasus), bìm cạnh (Ipomoea hederifolia),
chuối (Musa nana), lục lạc (Crotalaria
anagyroides), lạc tiên (Passiflora foetida). Vào
mùa khô thảm thực vật này hầu như rụng lá, chỉ
còn lại thân cành trơ trụi, tạo điều kiện cho đại
diện các loài cây thân thảo phát triển như: họ
Hoà thảo (Poaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ
Bìm bìm (Convolvulaceae), họ Thầu dầu

(Euphorbiacae)... và chúng phát triển mạnh và
chiếm ưu thế trở lại khi bước sang mùa ẩm mưa
nhiều. Bên cạnh loài Bambusa bambos tự nhiên,
ở đây còn có một số loài trồng phổ biến khác
như: tre kiển (Bambusa sp.), tre nước (Bambusa
tulda), tre đuôi chồn (Bambusa agrestis). Các
loài này được trồng chủ yếu dọc theo hạ lưu
cách lưu vực từ 2-6 m về phía bờ, và phổ biến ở
những vùng có dân cư sinh sống. Một số loài
cây ưa bóng sinh sống ở tầng dưới là: muôi
(Melastoma
septemnervium),
tai
tượng
(Limnocharis flava), đầu riều (Commelina
bengalensis).

camera), cà pháo (Solanum incanum), củ rối
(Leea manillensis) và côm nước (Elaeocarpus
harmandii).

Quần hợp thực vật ưu thế cỏ ống (Panicum spp.)

Thảo luận

Đây là kiểu thảm gặp hầu hết ở những vùng
bán ngập nước và ngập nước, phân bố chủ yếu
dọc theo hai ven bờ. Thành phần loài tương đối
đơn giản với các loài mọc xen như lục bình
(Eichhornia crassipes), dâu tằm (Morus alba),

chuối (Musa nana), rau dừa nước (Ludwidgia
hyssopifolia), đế (Saccharum spontaneum), me
đất (Oxalis corniculata) và mai dương (Mimosa
pigra).

Hệ thực vật vùng hạ lưu sông Đại Ninh
đóng một vai trò quan trọng đối với môi trường,
góp phần chống sạt lỡ, duy trì mạch nước ngầm,
xử lý ô nhiễm và điều hòa khí hậu. Tuy nhiên,
việc ngăn dòng phục vụ dự án thủy điện Đại
Ninh ở thượng nguồn làm cho mực nước ở hạ
nguồn giảm, cộng thêm nạn khai thác cát dưới
lòng sông, đã dẫn đến nhiều sinh cảnh thực vật
tự nhiên mất đi, tạo điều kiện cho các loài cây
xâm lấn phát triển, đồng thời thiếu nước tưới
trong sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là làm
mất đi cảnh quan thiên nhiên phục vụ du lịch ở
thác Pongour.

Quần hợp thực vật ưu thế dâu tằm và mai
dương
Kiểu này thường gặp ven bờ, trên nền đất
thịt và đất bồi tụ hàng năm. Dâu tằm (Morus
alba) và mai dương (Mimosa pigra) chiếm ưu
thế trong kiểu thảm này, ngoài ra còn có nhiều
loài cây thân thảo, thân gỗ và dây leo khác sinh
sống như: phèn đen (Phyllanthus reticulata), lạc
tiên (Passiflora foetida), tre đuôi chồn
(Bambusa agrestis), tre gai (Bambusa sp.), trâm
sẻ (Syzygium cinereum), ngủ sắc (Lantana

54

Quần xã thực vật trên đất canh tác
Bên cạnh các thảm thực vật tự nhiên là các
rừng trồng và cây hoa màu, phần lớn là cây lâu
năm như: cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả và các loại
cây ngắn ngày như ngô, đậu đỗ và nhiều loại
hoa màu khác. Ngoài ra, còn có sự tham gia của
một số loài thực vật mọc xen như: kim đầu răng
nhọn (Blumea oxyodonta), mãnh hoà như chỉ
(Leptochloa filiformis), cam thảo nam (Scoparia
dulcis), lữ đầu (Hedyotis heynii), rau sam
(Portulaca oleracea), lạc tiên (Passiflora
foetida), me đất (Oxalis corniculata), lục lạc
(Crotalaria anagyroides), chuối (Musa nana),
mít (Artocarpus heterophyllus), sung (Ficus
racemosa), đầu riều (Commelina bengalensis),
bìm cạnh (Ipomoea hederifolia), gòn ta
(Bombax albidum), điều nhuộm (Bixa orellana),
cỏ cức lợn (Ageratum conyzoides), xoài
(Mangifera indica), rau đắng (Glinus
oppositifolia), dền gai (Amaranthus spinosus),
lục bình (Eichhornia crassipes), bạc đầu
(Kyllinga nemoralis) và quì (Helianthus
tuberosus).

Trong số các loài thực vật ghi nhận ở khu
vực nghiên cứu, thì mai dương (Mimosa pigra)
là một trong những loài đáng quan tâm nhất.
Đây là loài ngoại lai mà hiện nay được xem là

loài nguy hiểm cho các hệ sinh thái đất ngập
nước. Mai dương (Mimosa pigra) có nguồn gốc
từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, sinh trưởng và phát
triển nhanh ở cả hai mùa khô và ẩm của vùng


TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 51-56

khí hậu nhiệt đới, phát tán nhanh do hạt có kích
thước nhỏ, nhẹ và được bao phủ bởi một lớp vỏ
nhiều lông tơ, nên dễ dàng trôi nổi trên mặt
nước và phát tán nhờ gió. Loài này hiện nay
được xem là loài xâm lấn nguy hiểm nhất ở
vùng có nền khí hậu nhiệt đới. Sau khi xâm
nhập vào môi trường mới, loài mai dương
nhanh chóng mở rộng phạm vi phân bố và dần
dần thay thế môi trường sống của tất cả các loài
thực vật lân cận khác.
KẾT LUẬN

Đã ghi nhận được ở vùng hạ lưu sông Đại
Ninh có 98 loài, 74 chi, 42 họ của 4 ngành thực
vật bậc cao có mạch là Thông đá
(Lycopodiophyta), Cỏ tháp bút (Equisetophyta),
Dương xỉ (Polypodiophyta) và Ngọc lan
(Magnoliophyta). Trong đó, có 56 loài có giá trị
sử dụng như làm thuốc, thực phẩm, làm rau,
làm cảnh và gia dụng, chiếm 57,1% tổng số loài
trong toàn hệ.
Có 6 nhóm dạng sống chính bao gồm nhóm

cây thân thảo, nhóm cây bụi (bụi/tiểu mộc),
nhóm cây gỗ lớn, nhóm cây gỗ nhỏ, nhóm thủy
sinh và nhóm dây leo.
Thảm thực vật ở khu vực nghiên cứu gồm
có: quần hợp thực vật ưu thế nghể (Polygonum
spp), quần hợp thực vật ưu thế lục bình
(Eichhornia crassipes), quần hợp thực vật ưu
thế tre gai (Bambusa bambos), quần hợp thực
vật ưu thế cỏ ống (Panicum spp.), quần hợp
thực vật ưu thế dâu tằm và mai dương và quần
xã thực vật trên đất canh tác.
Sự xâm lấn của mai dương (Mimosa pigra)
đang có chiều hướng gia tăng, gây tác hại đến
môi trường sống của khu hệ động thực vật, làm
thay đổi các kiểu thảm và cản trở việc đi lại của

con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Allan J. David, 1995. Stream Ecology
structure and function of running waters.
2. Braun-Blanquet J., 1932. Plant sociology:
the study of plant communities. New York
McGraw-Hill.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, 2007. Sách Đỏ
Việt Nam. Phần II: Thực vật. Nxb. Khoa
học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
4. Nguyễn Tiến Bân, 1997. Cẩm nang tra cứu
và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở

Việt Nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Chen Shou-liang et al., 2006. Flora of
China. Vol.22.
6. Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000. Cây cỏ Việt
Nam, tập 1, 2, 3. Nxb. Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
7. Lecomte H., 1922. Flore Generale De
L’Indo Chine. Paris Masson et Cie’Editeus.
8. Richardson J. L., Vepraslas M. J., 2001.
Wetland soils. Genesis, Hydrology,
Landscapes and Classification.
9. Simpson David A., Koyama Tetsuo, 1995.
Flora of Thailand. Vol.6. Bangkok.
10. Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997. Cẩm nang
nghiên cứu đa dạng sinh vật. Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.
11. Nguyễn Nghĩa Thìn, 2008. Đa dạng sinh
học vườn quốc gia Hoàng Liên. Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.
12. Thái Văn Trừng, 1998. Những hệ sinh thái
rừng nhiệt đới ở Việt Nam. Nxb. Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.

55


Dang Van Son

FLORAL DIVERSITY OF LOWER SECTION OF THE DAI NINH RIVER
IN DUC TRONG DISTRICT, LAM DONG PROVINCE
Dang Van Son

Institute of Tropical Biology, VAST
SUMMARY
The survey conducted in the lower section of the Dai Ninh river (Duc Trong district, Lam Dong province)
recorded 98 species, 74 genera, and 42 families of vascular plants, for example, Lycopodiophyta,
Equisetophyta, Polypodiophyta and Magnoliophyta. Of those, there are 56 species (57.1% of the total)
considered as medicinal plants, food, ornamentals, etc. Life forms of the plants are divided into six groups
including herbs, shrubs, big trees, small trees, water plants and lianas. These are six habitats in the survey
area, each characterized by a dominant type of vegetation: Polygonum spp., Eichhornia crassipes, Bambusa
bambos, Panicum spp., Morus alba - Mimosa pigra and farm crops.
Key words: Diversity, plant resources, vegetation, Lam Dong, Vietnam.

Ngày nhận bài: 21-6-2012

56



×