Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu nuôi cấy rễ cây bán tự mốc (Hemigraphis Glaucescens C. B. Clarke) làm nguồn nguyên liệu thu nhận Betuline

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 7 trang )

TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 145-151

NGHIÊN CỨU NUÔI CẤY RỄ CÂY BÁN TỰ MỐC (Hemigraphis glaucescens C. B.
Clarke) LÀM NGUỒN NGUYÊN LIỆU THU NHẬN BETULINE
Quách Ngô Diễm Phương*, Vũ Thị Bạch Phượng,
Giống Hối Khoánh, Trần Ngọc Trung, Bùi Văn Lệ
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, tp. Hồ Chí Minh, *
TÓM TẮT: Bán tự mốc (Hemigraphis glaucescens), một loài cây có hình thái tương tự như hoàn ngọc đỏ
(Pseuderanthemum bacteatum), có dược tính do mang chất betuline và đang được sử dụng như một bài
thuốc dân gian khá phổ biến và hữu hiệu trong điều trị cao huyết áp nhưng chưa có công bố khoa học nào
về thành phần hóa học cũng như dược tính. Nghiên cứu này đã chứng minh so với hoàn ngọc đỏ, bán tự
mốc cũng có hoạt tính kháng oxi hóa và mang cùng dược chất betuline. Nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu
tập trung sàng lọc và tìm ra nguồn nguyên liệu có hoạt tính kháng oxi hóa từ cây bán tự mốc, từ đó ứng
dụng các kỹ thuật nuôi cấy in vitro nhằm thu nhận nguồn nguyên liệu này một cách chủ động. Bằng cách
sử dụng phương pháp thử năng lực khử Yen & Duh và phương pháp đánh bắt gốc tự do DPPH, phân đoạn
ethanol rễ được xác định có hoạt tính kháng oxi hóa mạnh nhất trong các phân đoạn cao có độ phân cực
khác nhau từ các bộ phân khác nhau của bán tự mốc. Để tạo nguồn rễ in vitro, chúng tôi đã sử dụng
phương pháp tạo rễ bất định bằng auxin và tạo rễ tơ bằng phương pháp chuyển gen tự nhiên nhờ
Agrobacterium rhizogenesATCC 15834. Với 2 phương pháp này, rễ cây bán tự mốc có thể được tạo thành
một cách chủ động chỉ sau 10 ngày nuôi cấy.
Từ khóa: Hemigraphis glaucescens, Pseuderanthemum bacteatum, chống oxi hóa, rễ bất định, rễ tơ.

MỞ ĐẦU
Theo kinh nghiệm dân gian, phần trên mặt
đất của cây bán tự mốc thường được dùng chữa
viêm đại tràng cấp và mạn tính, rối loạn tiêu
hóa, đau bụng co thắt, đầy chướng bụng, trĩ nội
chảy máu, đại tiện ra máu, chảy máu do chấn
thương; có nơi dùng chữa viêm loét dạ dày,
hoặc chữa bệnh cao huyết áp. Lá cây bán tự
mốc có thể dùng tươi, hoặc phơi khô sắc với


nước, hoặc dùng đắp vết thương giúp vết
thương mau lành [7]. Tuy nhiên, hiệu quả chữa
bệnh của cây này chưa có luận cứ khoa học nào
cụ thể.
Betuline (C30H50O2) là một hợp chất
triterpen có nhiều giá trị dược liệu quý, đang
được quan tâm hiện nay: chống viêm, chống
virus, chống ung thư [4]. Hiện nay, betuline
được phân lập từ vỏ cây bạch dương, cây hoàn
ngọc đỏ và chiếm khoảng 30% trọng lượng khô
[2, 3]. Betuline có thể dễ dàng chuyển đổi thành
acid betulinic (nhóm rượu được thay thế bởi
một nhóm acid carboxylic) [1], có hoạt tính sinh
học hoạt động mạnh hơn so với betuline. Acid
betulinic có khả năng chữa bệnh tương tự như
betuline: có tác dụng chống lại một số khối u ác
tính, một số dạng herpes và thậm chí AIDS [5];

chống viêm, chống HIV, chống sốt rét cũng như
có khả năng gây độc đối với một số dòng tế bào
ung thư [6].
Vì vậy, nghiên cứu này thực hiện nhằm
chứng minh hoạt tính kháng oxi hóa và sự hiện
diện của betuline trong rễ cây bán tự mốc, đồng
thời nghiên cứu nuôi cấy in vitro rễ nhằm hướng
đến việc thu nhận nguồn vật liệu sản xuất
betuline một cách chủ động trong tương lai.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Khảo sát hoạt tính kháng oxi hóa của các bộ

phận khác nhau trong các hệ dung môi khác
nhau từ cây bán tự mốc
Điều chế cao: cây tươi được chia làm ba
phần rễ, thân, lá (kg) đem sấy khô ở 50oC đến
khối lượng không đổi, xay nhuyễn tạo bột (g).
Lần lượt ngâm dầm bột cây với các loại dung
môi có độ phân cực tăng dần: diethy eter,
chloroform, etanol, nước ở nhiệt độ phòng; lọc
sau 48 giờ. Phương pháp cô quay chân không
được dùng để tạo cao đối với các dung môi
diethyl eter, chloroform và ethanol. Đối với
dung môi nước, cao được tạo bằng phương pháp
đông khô.
145


Quach Ngo Diem Phương et al.

Khảo sát hoạt tính kháng oxi hóa bằng
phương pháp thử năng lực khử Yen & Duh: hút
1 ml (nồng độ 0,5 mg/ml) chất thử nghiệm; 2,5
ml dung dịch đệm sodium phosphate 0,2M pH
6,6; 2,5 ml dung dịch potassium ferricyanide
1%; ổn định ở 20oC sau 20 phút; thêm 2,5 ml
acid tricloroacetic 10%; ly tâm 2.000 vòng/phút
trong 10 phút; thu dịch nổi; hút 1ml dịch nổi
qua ống nghiệm khác; thêm 2 ml nước cất và
0,5 ml dung dịch FeCl3 1%; lắc đều rồi để yên
sau 5 phút; đo ở bước sóng 700 nm.
Khảo sát hoạt tính kháng oxi hóa bằng

phương pháp đánh bắt gốc tự do DPPH: bảy
loại cao có kết quả tốt nhất từ phương pháp Yen
& Duh được đem xác định giá trị IC50 bằng
phương pháp đánh bắt gốc tự do DPPH. Pha
dung dịch DPPH có nồng độ 0,6 mM trong
ethanol bằng cách hòa tan 4,728 mg với 20 ml
dung dịch methanol. Mỗi phân đoạn cao được
pha thành các nồng độ: 500; 250; 125; 62,5;
31,25 µg/ml. Thực hiện phản ứng cho các nồng
độ đã pha như sau: ethanol (3 ml), dịch thử (0,5
ml), dung dịch DPPH (0,5 ml); lắc hỗn hợp
trong 15 giây; sau đó ủ hỗn hợp trong tối ở nhiệt
độ phòng 30 phút và đo mật độ quang ở bước
sóng 516 nm. Hoạt tính kháng oxi hóa (%) được
tính theo công thức sau: (HTCO%) =
[(ODchứng - ODthử)/ODchứng]. Từ đồ thị biễu
diễn sự tương quan giữa HTCO% và nồng độ
các mẫu, giá trị IC50 sẽ được xác định.
Chứng minh sự hiện diện của betuline trong
cây bán tự mốc
Các mẫu cao ethanol của thân, lá, rễ của bán
tự mốc được gửi đi phân tích sự hiện diện và
xác định hàm lượng betuline bằng HPLC-UV
tại phòng thí nghiệm Phân tích trung tâm,
trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Nuôi cấy rễ in vitro cây bán tự mốc nhằm thu
nhận nguồn nguyên liệu in vitro chủ động
trong sản xuất betuline
Nguồn mẫu: cây bán tự mốc được thu hái tại

quận Tân Phú, tp. Hồ Chí Minh; chủng vi khuẩn
A. rhizogenes ATCC 15834, được mua từ tổ
chức RIKEN-PRC thông qua dự án của Mext,
Nhật Bản.
Môi trường sử dụng: Murrashige và Skoog

146

(MS), bổ sung đường (30g/l), pH 5,8 dùng nuôi
cấy thực vật và môi trường Nutrient Broth (NB)
dùng tăng sinh vi khuẩn A. rhizogenes ATCC
15834.
Điều kiện nuôi cấy: chiếu sáng 16 giờ/ngày;
với cường độ chiếu sáng 3.000 lux; nhiệt độ
phòng nuôi cấy: 22-25oC; ẩm độ trung bình:
70%.
Khử trùng tạo nguồn mẫu in vitro
Quy trình khử trùng chồi bên cây bán tự
mốc gồm rửa xà phòng, lắc với acid benzoid
0,3% trong 45 phút, rửa lại bằng nước cất.
Chuyển mẫu vào tủ cấy vô trùng, lắc với cồn
70% trong 1 phút, rửa bằng nước cất vô trùng;
lắc mẫu trong dung dịch javen: nước (1:2) có bổ
sung tweens 20 trong 15 phút, rửa lại bằng nước
cất vô trùng. Mẫu được cấy vào môi trường MS
để tạo nguồn nguyên liệu in vitro ban đầu.
Khảo sát sự tạo rễ bất định do cảm ứng của
các loại hormon khác nhau
Các mẫu lớp mỏng khác nhau của cây (rễ,
thân, lá) được cấy trên các môi trường có bổ

sung các loại hormone thực vật khác nhau: (1)
MS; (2) MS+0,5 mg/l NAA; (3) MS+0,5 mg/l
BA; (4) MS+0,5 mg/l Kinetin; (5) MS+0,5 mg/l
2,4D. Sau 5 tuần nuôi cấy, theo dõi tỷ lệ mẫu tạo
rễ (%), và chiều dài rễ (cm) trong từng công
thức.
Khảo sát sự tạo rễ tơ bằng A. rhizogenes
ATCC 15834
Chủng A. rhizogenes ATCC 15834 hoạt hóa
trong 48 giờ trên môi trường NB ở 25-28oC dùng
xâm nhiễm lên mô thực vật. Cắt và tạo vết
thương ở các bộ phận của cây rồi ngâm trong
dịch khuẩn 30 phút. Chuyển mẫu vào môi trường
MS, sau 5-7 ngày, khi khuẩn lạc phát triển, rửa
mẫu với kháng sinh cefotaxime 200 mg/l, chuyển
mẫu vào môi trường MS mới. Sau 5 tuần, theo
dõi tỷ lệ tạo rễ (%), chiều dài rễ (cm).
Khảo sát điều kiện tăng trưởng của rễ
Dựng đường cong tăng trưởng của rễ và so
sánh hiệu quả của bước nuôi chuyển tiếp sang
môi trường lỏng trước khi nuôi cấy rễ độc lập:
0,5 g rễ cây con in vitro mỗi loại (rễ lỏng, rễ
agar) được nuôi lỏng lắc trong 6 erlen 100 ml
chứa 50 ml môi trường MS trong điều kiện 180
vòng/phút, ở 25-28oC, trọng lượng tươi và trọng


TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 145-151

lượng khô của rễ được xác định sau mỗi 6 ngày,

trong vòng 30 ngày.
Khảo sát thành phần môi trường thích hợp:
0,5 g rễ cây con in vitro được nuôi lỏng lắc (100
vòng/phút, 25-28oC) trong erlen 100 ml chứa 50
ml với các môi trường: MS, B5, SH. Sau 3 tuần,
ghi nhận sự tăng trưởng của rễ qua sự chênh
lệch khối lượng Δ(g).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Khảo sát hoạt tính kháng oxi hóa của các bộ
phận của cây trong các hệ dung môi khác
nhau
Sau khi hút ẩm và sấy khô các loại cao đến
khối lượng không đổi, so sánh với khối lượng
khô ban đầu, thu được kết quả cao nước với

phương pháp đông khô có hiệu suất cao nhất.
Riêng đối với phương pháp cô quay chân
không, ở bộ phận rễ dung môi ethanol có hiệu
suất tạo cao tốt nhất, ở bộ phận thân và lá dung
môi chloroform có hiệu suất tạo cao tốt nhất
(bảng 1).
Khảo sát hoạt tính kháng oxi hóa bằng phương
pháp thử năng lực khử theo Yen & Duh

Kết quả định tính khả năng kháng oxi
hóa của các loại cao được trình bày trong
bảng 2.
Từ phương pháp của Yen & Duh, chúng
tôi sàng lọc được bảy loại cao có kết quả

kháng oxi hóa tốt nhất, đó là cao R2, R3,
R4, T1, T2, T3 và T4, trong đó, cao ethanol
rễ (R3) có kết quả tốt nhất.

Bảng 1. Hiệu suất các loại cao từ các bộ phận rễ, thân, lá
Dung môi
Diethyl eter
Chloroform
Etanol
Nước

Rễ khô
(270g)
0,7379
0,9336
2,3377
26,9416

Khối lượng cao (g)
Thân khô
Lá khô
(500g)
(600g)
2,7832
1,8855
3,8900
11,3502
2,3741
1,6181
55,1300

39,1506

Hiệu suất cao (%)
Rễ

Thân



0,2733
0,3458
0,8658
9,9784

0,5566
0,7780
0,4748
11,0260

0,3143
1,8917
0,2697
6,5251

Bảng 2. Tính khử của các loại cao theo phương pháp Yen & Duh (1993)
Bộ phận của cây

Rễ

Thân




Dung dịch đo
Chứng dương
Chứng âm
Cao diethyl eter
Cao chloroform
Cao ethanol
Cao nước
Cao diethyl eter
Cao chloroform
Cao ethanol
Cao nước
Cao diethyl eter
Cao chloroform
Cao ethanol
Cao nước

Khảo sát hoạt tính kháng oxi hóa bằng
phương pháp đánh bắt gốc tự do DPPH

Vit E
ĐC
R1
R2
R3
R4
T1
T2

T3
T4
L1
L2
L3
L4

ABS ± SE
1,507±0,07353
0,595±0,05231
0,679±0,12929
0,966±0,14757
1,968±0,22379
0,919±0,10303
0,696±0,10930
0,825±0,15060
1,324±0,19654
0,823±0,24229
0,642±0,15829
0,631±0,13949
0,673±0,10468
0,624±0,04814

Gía trị IC50 của bảy loại cao có kết quả tốt
nhất ở phương pháp Yen & Duh được xác định
147


Quach Ngo Diem Phương et al.


bằng phương pháp DPPH theo hình 1.
Cao ethanol rễ có hoạt tính kháng oxi hóa
cao nhất với IC50=75 µg/ml, cao ethanol thân
(T3) cũng có hoạt tính kháng oxi hóa ở mức cao
với giá trị IC50=97 µg/ml. Tính kháng oxi hóa
theo phương pháp DPPH của bảy loại cao xếp
theo thứ tự giảm dần như sau: R3>T3>R2>R4>
T4>T2>T1. Như vậy, rễ là bộ phận có hoạt tính
kháng oxi hóa tốt nhất trong cây bán tự mốc và
ethanol là dung môi thích hợp để có thể tách
chiết các hoạt chất có hoạt tính cao từ rễ.

phân tích HPLC cho kết quả định lượng như ở
hình 2. Kết quả ở bảng 3 cho thấy, rõ ràng các
bộ phận của cây bán tự mốc đều có sự hiện diện
của betuline, trong đó, mẫu rễ có chứa hàm
lượng betuline cao nhất.
Bảng 3. Kết quả định lượng betuline bằng
phương pháp HPLC-UV
Tên mẫu

Thân
Rễ

Kết quả phân tích (µg/g)
13,4
7,0
59,3

Nuôi cấy rễ in vitro nhằm thu nhận nguồn

nguyên liệu in vitro chủ động trong sản xuất
betuline
Khảo sát sự tạo rễ bất định do cảm ứng của các
loại hormone khác nhau
Hình 1. Biểu đồ thể hiện giá trị IC50 (µg/ml) của
bảy phân đoạn cao
Chứng minh sự hiện diện của betuline
Các mẫu cao ethanol rễ, thân, lá sau khi
A

B

Kết quả cảm ứng tạo rễ bằng hormone thực vật
từ các bộ phận khác nhau (rễ, thân, lá) của cây
bán tự mốc in vitro được trình bày trong hình 3
và 4. Trong đó, rễ bất định chỉ được cảm ứng
tạo thành trên môi trường MS bổ sung NAA 0,5
mg/l.
C

D

Hình 2. Sắc kí đồ của A: betuline 20 ppm; B: mẫu lá; C: mẫu thân; D: mẫu rễ

Hình 3. Đồ thị chiều dài rễ bất định trên môi
trường MS+0,5mg/l NAA sau 5 tuần
148

Sau 5 tuần nuôi cấy, rễ bất định từ thân và lá
phát triển dài hơn rễ bất định từ rễ, do đó, để tạo

rễ bất định bằng cảm ứng hormone thực vật,
chúng tôi đề xuất bộ phân thích hợp là thân hay
lá, và hormone thích hợp là NAA.
Khảo sát sự tạo rễ tơ bằng A. rhizogenes ATCC
15834
Sau 10 ngày nuôi cấy, kết quả cho thấy rõ
hiệu quả tác động tạo rễ của A. rhizogenes ATCC
15834 lên mẫu cắt ngang (lá, thân, rễ) có tạo vết
thương: xuất hiện rễ trên công thức có bổ sung
A. rhizogenes, trong khi công thức đối chứng


TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 145-151

không có (hình 5). Khả năng phát triển của rễ
(chiều dài rễ) được cảm ứng bởi A. rhizogenes
A

B

1cm

C

1cm

ATCC 15834 sau đó được ghi nhận sau 5 tuần
tiếp theo được trình bày ở hình 6.
D


1cm

E

1cm

F

1cm

1cm

Hình 4. Mẫu sau 10 ngày nuôi cấy: A: MS; B:MS+0,5 mg/l NAA; C: MS+0,5mg/l Kinetin;
D:MS+0,5 mg/l 2,4D; E: MS+0,5 mg/l 2,4D; F: Rễ trên môi trường B (5 tuần)
B

A

Hình 5. A. Mẫu không nhiễm A. rhizogenes;
B. Mẫu có nhiễm A. Rhizogenes
Để chứng minh sự hiện diện của gen chuyển
trong gennome của rễ được tạo thành nhờ A.
rhizogenes ATCC 15834, phản ứng PCR nhằm
khuếch đại trình tự gen đặc trưng của A.
rhizogenes ATCC 15834 hiện diện trong
gennome của rễ tạo thành đã được tiến hành, kết
quả được trình bày trong hình 7.
A
400bp


600bp

B

Hình 6. Đồ thị thể hiện chiều dài của rễ sau 5
tuần nuôi cấy từ các bộ phận được nhiễm
A. rhizogenes
Vẽ đường cong tăng trưởng của rễ và so
sánh hiệu quả của bước nuôi chuyển tiếp sang
môi trường lỏng trước khi nuôi cấy rễ độc lập ở
điều kiện lỏng-lắc (hình 8). Kết quả cho thấy, rễ
tăng trưởng đều đặn và đạt trọng lượng tối đa
sau 18 ngày nuôi cấy, sau đó trọng lượng giảm
dần vì lúc này rễ bắt đầu tổng hợp và sản sinh
hợp chất thứ cấp, làm nồng độ áp suất thẩm thấu
trong môi trường tăng cao, cản trở hấp thu chất
dinh dưỡng, dẫn đến tăng trưởng giảm.

Hình 7. Sản phẩm PCR
A. cặp mồi rolBF-rolBR; B. cặp mồi rolCF-rolCR;
1. Thang; 2. Rễ invitro đối chứng;
3. Rễ invitro chuyển gen.

Kết quả PCR cho thấy sự hiện diện của
đoạn gen rolB (422bp) và rolC (625bp) của A.
rhizogenes ATCC 15834 trong genome của rễ
tạo thành. Như vậy, A. rhizogenes ATCC 15834
đã cảm ứng tạo được rễ tơ từ mẫu cây bán tự
mốc.
Khảo sát điều kiện tăng trưởng của nguồn rễ

độc lập

Hình 8. Đường cong tăng trưởng rễ lỏng

Hình 9. Đường cong tăng trưởng rễ agar

149


Quach Ngo Diem Phương et al.

Kết quả dựng đường cong tăng trưởng rễ
agar được trình bày ở hình 9. Rễ của cây con
được nuôi từ môi trường agar (rễ agar), khi
chuyển qua môi trường lỏng-lắc, do chưa thích
nghi được nên rễ bị sốc, hóa nâu và chết dần
(hình 10).
A

Kết quả cho thấy đã thành công việc trong
nuôi cấy lỏng lắc rễ cây bán tự mốc, trong đó
bước chuyển sang nuôi lỏng trước nuôi cấy
lỏng-lắc là phù hợp, điều kiện nuôi này giúp
khẳng định hướng thu nhận nguồn rễ có thể
được ứng dụng ở quy mô công nghiệp sau này.
B

1cm

1cm


Hình 10. Sự khác biệt giữa rễ lỏng (A) và rễ agar (B) khi nuôi lỏng-lắc sau 1 tuần
Khảo sát thành phần môi trường thích hợp

Khối lượng (g)

Kết quả tăng trưởng rễ được thể hiện qua sự
chênh lệch khối lượng Δ(g) (hình 11). Mỗi loài
thực vật có sự hấp thu khác nhau về thành phần
môi trường. Trong thí nghiệm này, có thể thấy
khi nuôi cấy trên môi trường SH, rễ có sự tăng
trưởng cao hơn.

Môi trường
Hình 11. Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của các
loại môi trường lên sự tăng trưởng rễ
KẾT LUẬN

Rễ cây bán tự mốc có hoạt tính kháng oxi hóa
khá mạnh (IC50 = 75 µg/ml), nó cũng chính là
nguồn vật liệu mang betuline cao nhất của cây.
Nguồn rễ cây bán tự mốc bất định có thể thu
được một cách chủ động bằng cách nuôi cấy
trên môi trường MS bổ sung 0,5 mg/l NAA. Rễ
tơ cũng có thể được tạo thành bằng phương
pháp chuyển gen tự nhiên nhờ A. rhizogenes
ATCC 15834. Nguồn rễ độc lập này hoàn toàn
có thể nuôi cấy lỏng lắc với bước chuyển nuôi

150


cấy lỏng trước đó và bằng môi trường SH nhằm
hướng đến thu nhận sinh khối rễ ở quy mô sản
xuất công nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Csuk R., Schmuck K., Schäfer R., 2006. A
practical synthesis of betulinic acid.
Tetrahedron letters, 47(49): 8769-8770.
2. Gao Y., Xu H., Lu Z., Xu Z., 2009.
Quantitative determination of steroids in the
fruiting bodies and submerged-cultured
mycelia of Inonotus obliquus. Se pu=
Chinese Journal of Chromatography/
Zhongguo hua xue hui, 27(6): 745.
3. Green B., Bentley M. D., Chung B. Y.,
Lynch N. G., Jensen B. L., 2007. Isolation
of betulin and rearrangement to allobetulin.
A biomimetic natural product synthesis.
Journal of Chemical Education, 84(12):
1985.
4. Hiroya K., Takahashi T., Miura N.,
Naganuma A., Sakamoto T., 2002.
Synthesis of betulin derivatives and their
protective effects against the cytotoxicity of
cadmium.
Bioorganic
&
Medicinal
Chemistry, 10(10): 3229-3236.

5. Kim D. S. H. L., Pezzuto J. M., Pisha E.,
1998. Synthesis of betulinic acid derivatives
with activity against human melanoma.


TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 145-151

Bioorganic & Medicinal Chemistry letters,
8(13): 1707-1712.
6. Wolfgang W., Grimmel C., Wagenknecht
B., Dichgans J., Weller M., 1999. Betulinic
acid-induced apoptosis in glioma cells: A

sequential requirement for new protein
synthesis, formation of reactive oxygen
species, and caspase processing. Journal of
Pharmacology
and
Experimental
Therapeutics, 289(3): 1306-1312.

A STUDY ON ROOT CULTURES OF Hemigraphis glaucescens C. B. Clarke
FOR BETULINE PRODUCTION
Quach Ngo Diem Phuong, Vu Thi Bach Phuong,
Giong Hoi Khoanh, Tran Ngoc Trung, Bui Van Le
University of Sicence, Ho Chi Minh City

SUMMARY
Up to now, there has not been any scientific publication related to chemistry and pharmaceutical value of
Hemigraphis glaucescens C. B. Clarke. However, they have been used as a popular and effective therapy for

hypertensive patients like Pseuderanthemum bracteatum, which has been posted in many publications to
include medicinal properties of betuline. This research demonstrated that Hemigraphis glaucescens also
contains betuline, the same substance in Pseuderanthemum bracteatum. Besides, it focused on screening and
finding out antioxidant extract fraction of Hermigraphis glaucescens; accordingly, we can apply in vitro
culture technique on getting antioxidant materials actively. In details, by using Ferric cyanine reducing
antioxidant power (Yen and Duh) and free radicals scavenging (DPPH) assay, we elucidated that ethanol
fraction of root Hermigraphis glaucescens was the best. Adventitious roots were formed by using 0.5 mg/l
NAA and hairy roots were also formed by co-culturing with Agrobacterium rhizogenes ATCC 15834 after 10
days.
Keywords: Agrobacterium rhizogenes, Hemigraphis glaucescens, betuline, hairy root culture.

Ngày nhận bài: 15-7-2013

151



×