Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Bà Rịa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.01 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT TỶ LỆ SUY YẾU VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU
VỚI KẾT CỤC LÂM SÀNG NGẮN HẠN Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI
ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Thị An**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong hoàn cảnh lão hóa của dân số toàn cầu, tỷ lệ suy yếu trong dân số ngày càng tăng
và suy yếu dự báo nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như: tình trạng té ngã, khuyết tật, sống phụ thuộc,
tăng số lần nhập viện, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, suy yếu chưa được quan tâm đúng mức trong thực
hành lâm sàngLão khoa.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm đánh giá suy yếu lâm sàng CFS (Clinical Frailty Scale).
Mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội
Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão học Bệnh viện Bà Rịa.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, tiến hành trên 370 người bệnh cao
tuổi (≥ 65 tuổi) điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa, trong
thời gian 6 tháng, từ tháng 10/2017 đến 3/2018. Dùng thang suy yếu lâm sàng CFS để đánh giá suy yếu.
Kết quả: Tỷ lệ suy yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2% (suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ
suy yếu nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn: thời gian
nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo mức độ suy yếu.
Kết luận: CFS đơn giản, dễ thực hiện, tiên đoán được kết cục lâm sàng Lão khoa.
Từ Khóa: Clinical Frailty Scale, Suy yếu, người bệnh cao tuổi

ABSTRACT
ASSESSMENT OF PREVALENCE OF FRAILTY AND SHORT-TERM CLINICAL OUTCOME OF
FRAILTY IN THE OLDER INPATIENTS AT BA RIA HOSPITAL
Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Than Ha Ngoc The, Nguyen Thi An
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 9-14


Background: In the context of global population aging, the rate of frailty in the population is increasing and
frailty predicts high-risk health disabilities such as falls, disabilities, dependence, number of hospitalizations, even
death. However, frailty has not been properly addressed in Geriatric clinical practice.
Objectives: To investigate the prevalence of frailty and factors associated with frailty.
Methods: Descriptive, cross-sectional, and longitudinal follow-up of 370 elderly patients (≥ 65 years-old),
treated inpatient at the department of General Medicine and Cardiology Department at Ba Ria hospital, from
October 2017 to March 2018. Using the CFS to assess frailty.
Results: The prevalence of frailty elderly patients assessed by the CFS was 66.2%. In which, mild – average
frailty was 53.2%, severe - very severe frailty was 13%. There was a correlation between severity and short-term
clinical outcomes: duration of hospitalization, re-hospitalization at 3 months post-discharge and general mortality
increased with decreasing levels.
Conclusions: CFS is simple, easy to practice, predicts clinical gerontological outcomes.
Keywords: clinical frailty scale, frailty, elderly patient
*Bộ môn Lão khoa, Khoa Y, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị An
ĐT: 0988862005

Chuyên Đề Nội Khoa

**Bệnh viện Bà Rịa
Email:

9


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

ĐẶT VẤN ĐỀ


Thiết kế nghiên cứu

Có hơn 20 công cụ chẩn đoán suy yếu khác
nhau, việc chọn một công cụ giúp chẩn đoán
nhanh suy yếu và có khả năng dự báo các kết
quả bất lợi về sức khỏe của người cao tuổi (NCT)
là rất cần thiết trong thực hành lâm sàng.

Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc,
chọn mẫu thuận tiện.

Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về
suy yếu ở người bệnh cao tuổi nằm viện. Các
nghiên cứu này hoặc sử dụng công cụ chẩn
đoán suy yếu tương đối phức tạp, tốn nhiều
thời gian như Fried, đánh giá lão khoa toàn
diện (CGA) hoặc sử dụng công cụ tầm soát
suy yếu khá đơn giản và chủ quan như
chương trình nghiên cứu triển khai các dịch vụ
duy trì tính tự chủ của người cao tuổi
PRISMA-7, GFI (Groningen Frailty Indicator)
trong khi công cụ thang suy yếu lâm sàng CFS
(Clinical Frailty Scale) chưa được sử dụng
trong nghiên cứu nào mặc dù thường được các
bác sĩ lâm sàng sử dụng(1,3). Do đó, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này để tìm hiểu tình
hình suy yếu của người bệnh cao tuổi điều trị
nội trú như thế nào và suy yếu có liên quan ra
sao với kết cục lâm sàng ở người bệnh cao tuổi

với công cụ chẩn đoán suy yếu là CFS.

ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu

Dân số mục tiêu
NCT (≥ 65 tuổi) điều trị tại các khoa Nội:
Tổng Hợp, Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa,
từ tháng 10/2017 đến 03/2018.
Đối tượng chọn mẫu

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Người cao tuổi có khả năng giao tiếp hoặc có
thân nhân nắm rõ tình trạng bệnh.
Đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Hôn mê, ra viện còn hôn mê và không có
hoặc thân nhân không biết rõ về tình trạng bệnh
Bệnh nhân cụt hai tay hoặc cụt hai chân hoặc
mù hai mắt.

10

Các biến số

Suy yếu
biến định tính, 2 giá trị: Không suy yếu, CFS
1 – 4, Có suy yếu, CFS 5 – 8.
Mức độ suy yếu
Phân thành 3 nhóm(4): Nhóm 1: không suy

yếu, CFS từ mức 1-4. Nhóm 2: suy yếu nhẹ đến
trung bình, CFS từ mức 5-6 . Nhóm 3: suy yếu
nặng đến rất nặng, CFS từ mức 7-8.
CFS 9 điểm loại khỏi nghiên cứu vì đây là
bệnh giai đoạn cuối hơn là suy yếu.
Tái nhập viện
Biến nhị giá có/không.
Bệnh nhân nhập viện ở bất cứ bệnh viện nào
sau xuất viện và lưu lại bệnh viện ít nhất một
đêm do mọi nguyên nhân. Theo CMS (Centers
for Medicare and Medicaid Services) ngoại trừ
các trường hợp sau(3):
Ngày nhập viện lại cùng ngày với ngày xuất
viện và lý do nhập viện cũng là lý do nhập viện
của lần trước.
Nhập vào để điều trị phục hồi chức năng.
Được chẩn đoán tâm thần lần đầu.
Nhập vào để điều trị bệnh ung thư hoặc theo
lịch hẹn để tiến hành các thủ thuật, phẫu thuật.
Tử vong
Biến nhị giá có/không.
Tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào ngoại
trừ tử vong do tai nạn giao thông, tai nạn sinh
hoạt, do thiên tai.
Biến tử vong gồm tử vong nội viện và tử
vong tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện. Do
biến tử vong nội viện chỉ gồm 2 trường hợp: 1
bệnh nhân 76 tuổi tử vong do xuất huyết não
(CFS: 4) và 1 bệnh nhân 80 tuổi tử vong do hội
chứng Stevens-Johnson (CFS: 5) nên chúng tôi

gộp biến tử vong tại thời điểm tháng sau xuất

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
viện và biến tử vong nội viện thành biến tử
vong chung.
Bộ câu hỏi thu thập số liệu

Nghiên cứu Y học

biến để khử yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng liên
quan mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đánh giá suy yếu theo CFS.
Phương pháp xử lý số liệu
Nhập số liệu Epidata 3.1 và xử lý số liệu
Stata 14. So sánh biến định tính: phép kiểm chi
bình phương. So sánh biến định lượng: phép
kiểm t – test, Anova. Dùng hồi quy Logistic đa
Bảng 1. Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu (n = 370)

Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2017
đến 03/2018, chúng tôi thu thập được 370 bệnh
nhân NCT thỏa các tiêu chí chọn mẫu, kết quả
được trình bày trong các bảng 1 – bảng 6.


Biến số

Tần số
Tỷ lệ %
130
35,1
240
64,9
76,7 ± 7,6
86
23,2
131
35,4
153
41,4
21,3 ± 3,4
79
21,4
186
50,2
105
28,4
193
52,2
177
47,8
18
4,8
352

95,2
129
34,9
241
65,1
99
26,8
271
73,2
67
18,1
278
75,1
25
6,8
352
95,1
18
4,9
319
86,2
51
13,8
134
36,2
236
63,8
3,2 ±
2,1


Nam
Nữ
Tuổi trung bình (trung bình ± độ lệch chuẩn)
60-69
Nhóm tuổi
70-79
≥ 80
Chỉ số BMI (trung bình ± độ lệch chuẩn)
Thiếu cân (BMI ≤ 18,5)
BMI
Bình thường (18,5 < BMI < 23)
Thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23)
Chưa kết hôn/ly dị/góa
Tình trạng hôn nhân
Đang sống bạn đời
Sống một mình
Hoàn cảnh sống
Sống cùng người thân
Thành thị
Nơi sống
Nông thôn
Chế độ ăn
Nghèo nàn
Đầy đủ
Không biết chữ
Trình độ học vấn
Chưa tốt nghiệp PTTH
Tốt nghiệp PTTH, cao đẳng, đại học
Không/uống mức độ vừa phải
Rượu, bia

Uống nhiều
Không hút/đã bỏ
Thuốc lá
Hiện đang hút

Tình trạng đa thuốc
Không
Tình trạng đa bệnh (trung bình ± độ lệch chuẩn)
Giới

Bảng 2. Tỷ lệ mức độ suy yếu
n (%)

Không suy yếu
125 (33,8)

Suy yếu nhẹ - trung bình
197 (53,2)

Suy yếu nặng – rất nặng
48 (13)

Bảng 3. Kết cục lâm sàng
Số ngày nằm viện (Trung vị, khoảng tứ phân vị)
Tái nhập viện n (%)
Tử vong chung n (%)

Không suy yếu
n = 125
4 (3 – 5)

25 (20)
3 (2,4)

Suy yếu nhẹ trung bình n = 197
5 (3 – 7)
86 (43,7)
12 (6,1)

Suy yếu nặng –
rất nặng n = 48
7 (5 – 9)
22 (45,8)
6 (12,5)

P
< 0,001
< 0,001
< 0,05

* Số ngày nằm viện bị phân phối lệch

Chuyên Đề Nội Khoa

11


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học


Bảng 4. Các yếu tố liên quan thời gian nằm viện

Không suy yếu
Suy yếu nhẹ - trung bình
Suy yếu nặng – rất nặng
Tuổi
Giới
Tình trạng đa thuốc
Tình trạng đa bệnh

Thời gian nằm viện
Hệ số
KTC 95%
1
1,6
0,5 – 2,7
4,1
2,5 – 5,7
- 0,02 - 0,08 – 0,04
0,97
0,02 – 1,9
- 0,1
-1,1 – 0,8
0,1
- 0,1 – 0,4

P

< 0,05
< 0,001

> 0,05
< 0,05
> 0,05
> 0,05

Bảng 5. Các yếu tố liên quan tái nhập viện

Không suy yếu
Suy yếu nhẹ - trung bình
Suy yếu nặng – rất nặng
Giới
Tuổi
Tình trạng đa thuốc
Tình trạng đa bệnh

Tái nhập viện
P
OR
KTC 95%
1
4,1
2,2 – 7,5 < 0,001
4,9
2,1 – 11,2 < 0,001
1,3
0,8 – 2,1
> 0,05
0,95
0,92 – 0,99 < 0,05
1,1

- 0,7 – 1,8 > 0,05
1
0,9 – 1,1
> 0,05

Bảng 6. Các yếu tố liên quan tử vong

Không suy yếu
Suy yếu nhẹ - trung bình
Suy yếu nặng – rất nặng
Tuổi
Giới
Tình trạng đa thuốc
Tình trạng đa bệnh

OR
1
6,8
15,2
0,9
4,3
0,6
1,0

Tử vong
KTC 95%
1,5 – 29,8
2,7 – 85,6
0,8 – 0,98
1,6 – 11,7

0,2 – 1,6
0,8 – 1,3

P

< 0,05
< 0,05
> 0,05
< 0,05
> 0,05
> 0,05

BÀN LUẬN
Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi
Chúng tôi nghiên cứu trên 370 bệnh nhân
ghi nhận có 125 bệnh nhân không suy yếu
(33,8%); bệnh nhân suy yếu nhẹ - trung bình là
197 (53,2%); suy yếu nặng – rất nặng 48 (13%).
Juma S và cộng sự (2016) nghiên cứu 75 bệnh
nhân ≥ 65 tuổi (tuổi trung bình 81.3 ± 8.8) tại
bệnh viện Ontario, Canada ghi nhận tỷ lệ không
suy yếu, suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng
– rất nặng lần lượt là: 28%; 50,67%; 21,33%(5). Tỷ
lệ suy yếu nặng – rất nặng của nghiên cứu này
cao hơn của chúng tôi, tuy nhiên tuổi trung bình
của đối tượng tham gia nghiên cứu lớn hơn của
chúng tôi (76,7 ± 7,6).
Hartley P và cộng sự (2016) khảo sát trên 493

12


bệnh nhân ≥ 75 tuổi tại một bệnh viện Anh quốc
ghi nhận tỷ lệ suy yếu nhẹ - trung bình là
47,67%; suy yếu nặng – rất nặng 27,7%(4), tỷ lệ
suy yếu nặng – rất nặng trong nghiên cứu này
cũng cao hơn chúng tôi. Kết quả này là bằng
chứng giúp cũng cố mối liên quan giữa suy yếu
và tuổi.
Mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục
lâm sàng ngắn hạn

Thời gian nằm viện
Chúng tôi ghi nhận thời gian nằm viện của
bệnh nhân có liên quan đến mức độ suy yếu:
nhóm suy yếu nặng có thời gian nằm viện dài
nhất, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P < 0,001.
Vậy thời gian nằm viện trong nghiên cứu
của chúng tôi ngắn hơn so với tác giả Juma, điều
này có thể do tình trạng bệnh đông, chật chội,
chúng tôi phải cho xuất viện sớm. Tuy nhiên cả
hai nghiên cứu đều cho thấy khi bệnh nhân có
suy yếu thì thời gian nằm viện sẽ dài hơn.
Sau phân tích hồi qui đa biến để khử các yếu
tố có thể ảnh hưởng lên thời gian nằm viện (tuổi,
giới, tình trạng đa thuốc và đa bệnh) chúng tôi
ghi nhận mức độ suy yếu có ảnh hưởng lên thời
gian nằm viện: thời gian nằm viện của nhóm suy
yếu nặng lớn hơn thời gian nằm viện của nhóm
suy yếu nhẹ - trung bình và lớn hơn thời gian
nằm viện của nhóm không suy yếu.

Khandelwal D và cộng sự (2012) nghiên cứu
trên 250 người bệnh cao tuổi nhập viện và cũng
đã ghi nhận những bệnh nhân suy yếu có thời
gian nằm viện dài hơn(6).
Wallis S.J và cộng sự (2015) ghi nhận mức độ
suy yếu có ảnh hưởng tới thời gian nằm viện với
OR 1,19; khoảng tin cậy 95% 1,14 – 1,23;
P<0,001(7).
Tái nhập viện
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001.
Tái nhập viện của nhóm suy yếu nhẹ trung bình và suy yếu nặng – rất nặng của
chúng tôi cao hơn Juma, nhưng cả hai nghiên
cứu đều ghi nhận có mối liên quan giữa suy
yếu và tỷ lệ tái nhập viện.
Qua so sánh về thời gian nằm viện và tỷ lệ

tái nhập viện của nghiên cứu chúng tôi với tác
giả Juma S, chúng tôi ghi nhận: thời gian nằm
viện của chúng tôi ngắn hơn, tuy nhiên tỷ lệ tái
nhập viện cao hơn, điều này hướng chúng tôi
phải nhìn lại vấn đề xuất viện sớm của chúng tôi
để có sự điều chỉnh hợp lý.
Bagshaw và cộng sự (2014) khảo sát trên 421
bệnh nhân đã ghi nhận tỷ lệ tái nhập viện của
nhóm suy yêu (CFS > 4) 56% cao hơn nhóm
không suy yếu (CFS ≤ 4) 39% với OR 1,98;
khoảng tin cậy: 95% 1,22 – 3,23(2).
Vậy đánh giá suy yếu theo CFS có khả
năng dự báo nguy cơ tái nhập viện ở người
bệnh cao tuổi.

Tử vong chung
Conroy và cộng sự (2013) khảo sát trên
người bệnh cao tuổi nhập viện vì các bệnh nội
khoa ghi nhận suy yếu theo CFS có liên quan tử
vong sau 3 tháng với OR 1,4; khoảng tin cậy
95%: 1,3 – 1,5(2).
Nghiên cứu của Basic D và cộng sự (2015)
trên 2.125 người bệnh cao tuổi nhập viện ghi
nhận thang suy yếu CFS có khả năng tiên đoán tử
vong (OR = 2,97; khoảng tin cậy 95%: 2,11 - 4,17)(1).
Tác giả Wallis S.J và cộng sự (2015) khảo sát
5.764 bệnh nhân tuổi ≥ 75 nhập viện vì các bệnh
nội khoa đã kết luận rằng suy yếu theo CFS có
khả năng tiên đoán độc lập tử vong ở bệnh nhân
nội trú với OR = 1,60; khoảng tin cậy 95%: 1,48 –

1,74; P < 0,001 (sau khi hiệu chỉnh các yếu tố tuổi,
giới, chỉ số đa bệnh lý Charlson)(7).
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có mối liên

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

quan giữa mức độ suy yếu và tử vong chung:
nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với nhóm
không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%: 1,5 –
29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Vậy kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với
các nghiên cứu khác trên thế giới. Với kết quả
này một lần nữa chứng minh suy yếu theo CFS
là yếu tố nguy cơ có thể dự báo tử vong ở NCT.
Việc tầm soát suy yếu ở tất cả người bệnh
cao tuổi nhập viện để có kế hoạch chăm sóc và
đánh giá nguy cơ rủi ro đối với các phương
pháp điều trị hoặc can thiệp y tế là rất cần thiết.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 370
người bệnh cao tuổi điều trị nội trú các bệnh nội
khoa tại bệnh viện Bà Rịa ghi nhận. Tỷ lệ suy
yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2%
(suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ suy yếu
nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa
mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn:

thời gian nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3
tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo
mức độ suy yếu.
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001.
Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu và tử
vong chung: nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy
yếu nặng - rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với
nhóm không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%:
1,5 – 29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

13


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

-TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


2.

3.

4.

Basic D, Shanley C (2015). “Frailty in an older inpatient
population: using the clinical frailty scale to predict patient
outcomes”. J Aging Health, 27(4):670-85.
Conroy S, Dowsing T (2013). “The Ability of Frailty to Predict
Outcomes in Older People Attending an Acute Medical Unit”.
Acute Medicine ; 12(2): 74-76
Gregorevic KJ, Hubbard RE, Lim WK (2016). “The clinical
frailty scale predicts functional decline and mortality when used
by junior medical staff: a prospective cohort study”. BMC
Geriatr, 16: 117.
Hartley P, Adamson J, Cunningham C et al (2017). “Clinical
frailty and functional trajectories in hospitalized older adults: A
retrospective observational study”. Geriatr Gerontol Int,
17(7):1063-1068.

14

5.

6.

7.


Juma S, Taabazuing MM, Montero-Odasso M (2016). “Clinical
Frailty Scale in an Acute Medicine Unit: a Simple Tool That
Predicts Length of Stay”. Can Geriatr J, 19(2):34-9
Khandelwal D, Goel A, Kumar U et al (2012). “Frailty is
associated with longer hospital stay and increased mortality in
hospitalized older patients”. J Nutr Heatlh Aging, 16(8):732–35.
15
Wallis SJ, Wall J, Biram RWS et al (2015). “Association of the
clinical frailty scale with hospital outcomes”. An International
Journal of Medicine, Volume 108, Issue 12, 943-949. 32.

Ngày nhận bài báo:

08/11/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

07/12/2018

Ngày bài báo được đăng:

10/03/2019

Chuyên Đề Nội Khoa



×