Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khảo sát rối loạn chức năng tuyến giáp trong ba tháng đầu thai kỳ ở những thai phụ nguy cơ cao (tại Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.74 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TUYẾN GIÁP
TRONG BA THÁNG ĐẦU THAI KỲ Ở NHỮNG THAI PHỤ
NGUY CƠ CAO (TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN QUỐC TẾ SÀI GÒN)
Dương Thị Phương Thảo*, Bùi Chí Thương**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng tuyến giáp (RLCNTG) của thai phụ trong ba tháng đầu thai kỳ liên quan
đến nhiều kết cuộc xấu và sự phát triển của thai nhi. Tại Việt Nam, các dữ liệu nghiên cứu về RLCNTG trong
thai kỳ còn hạn chế.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ RLCNTG trong ba tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan ở những thai phụ
nguy cơ cao tại bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn (BVPSQTSG).
Đối tượng: 385 phụ nữ mang thai 3 tháng đầu có nguy cơ cao RLCNTG trong thai kỳ.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành tại BVPSQTSG từ 09/2015 đến 03 /2016. Xét nghiệm nồng
độ TSH và FT4 các thai phụ mang thai 3 tháng đầu có nguy cơ cao RLCNTG, áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán của
Hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ năm 2011 và Li C năm 2014.
Kết quả: 385 thai phụ tham gia nghiên cứu, có 69 trường hợp được chẩn đoán RLCNTG trong 3 tháng đầu
thai kỳ chiếm tỷ lệ 17,9 %. Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê với RLCNTG là: tiền căn sẩy thai với p =
0,02, PR = 2,06, KTC 95% = 1,11 – 3,83; tiền căn sinh non với p = 0,04, PR = 10,96, KTC 95% = 1,07 – 111,70;
tiền căn bệnh lý tuyến giáp với p = 0,02, PR = 13,11, KTC 95% = 1,50 – 113,90; tiền căn gia đình bị bệnh lý
tuyến giáp với p = 0,02, PR = 10,96, KTC 95% = 1,30 – 92,50; có triệu chứng RLCNTG với p = 0,000, PR = 5,64,
KTC 95% = 2,84 – 11,18.
Kết luận: Cần sàng lọc và chẩn đoán RLCNTG trong ba tháng đầu thai kỳ đối với thai phụ có yếu tố nguy
cơ cao.
Từ khóa: RLCNTG, tam cá nguyệt đầu, thai kỳ.

ABSTRACT
EVALUATION FOR MATERNAL THYROID DISORDERS IN THE FIRST TRIMESTER


OF THE HIGH RISK PREGNANT WOMEN (AT SAIGON INTERNATIONAL HOSPITAL)
Duong Thi Phuong Thao, Bui Chi Thuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 61 - 68
Background: Maternal thyroid disorders during the first trimester of pregnancy are associated with multiple
adverse outcomes and fetal development. In Viet Nam, there are limited data on the prevalence of newly diagnosed
thyroid disease during pregnancy.
Objectives: To determine the prevalence of maternal thyroid disorders during the first trimester of
pregnancy and the related factors in the high risk pregnant women at Saigon international hospital.
Method: 385 high risk pregnant women in the first trimester of pregnancy. Cross-sectional study is carried
out at Saigon international hospital from March 2015 to September 2016. Levels of thyroid stimulating hormone
(TSH) and free thyroxin (FT4) were measured in 385 women during the first trimester of pregnancy in the high
risk pregnant women with American Thyroid Association (2011) and Li C (2014) criteria.
* Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
Tác giả liên lạc: BS. Dương Thị Phương Thảo

Sản Phụ Khoa

ĐT: 0986171555

** Bộ môn Sản – Đại học Y Dược TP.HCM
Email:

61


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Results: 385 pregnant women were screened; 69 cases (17.9%) were diagnosed thyroid disorders. Some

significant related factors of maternal thyroid disorders during the first trimester of pregnancy were history of
miscarriage (p = 0.02, PR = 2.06, KTC 95% = 1.11 – 3.83); history of preterm delivery (p = 0.04, PR = 10.96, KTC
95% = 1.07 – 111.70); personal history of thyroid disorders (p = 0.02, PR = 13.11, KTC 95% = 1.50 – 113.90);
family history of thyroid diseases (p = 0.02, PR = 10.96, KTC 95% = 1.30 – 92.50); having symptoms of thyroid
disorders (p = 0.000, PR = 5.64, KTC 95% = 2.84 – 11.18).
Conclusion: We need to screen and diagnose maternal thyroid disorders during the first trimester of
pregnancy in the high-risk pregnant women.
Keywords: thyroid disorders, first trimester, pregnancy.
giáp, tiền căn xạ trị vùng đầu hoặc cổ, có bướu
ĐẶT VẤN ĐỀ
giáp, có bệnh lý tự miễn, có kháng thể TPO-Ab
Rối loạn chức năng tuyến giáp (RLCNTG)
dương tính, sống trong vùng thiếu iốt(11).
bao gồm cường giáp và suy giáp thường xảy ra
Tỷ lệ RLCNTG trong thai kỳ thay đổi từ 3%
trên phụ nữ ở lứa tuổi sinh sản, do đó có thể gặp
cho đến 15% tùy dân số nghiên cứu và tiêu
RLCNTG trong thai kỳ và hậu sản(9).
chuẩn chẩn đoán. Tại những quốc gia phát triển,
Tuyến giáp thai nhi bắt đầu có hoạt động
các nghiên cứu thực hiện trên toàn bộ phụ nữ
chức năng vào cuối tháng thứ 3 của thai kỳ(9). Vì
mang thai, tỷ lệ RLCNTG trong thai kỳ khoảng
vậy, trong 3 tháng đầu của thai kỳ, thai nhi phải
3% thai phụ ở Mỹ(1), tại Đức khoảng 2,5% thai
phụ thuộc hoàn toàn vào lượng hoóc-môn của
phụ suy giáp(7). Theo nghiên cứu của các nước
mẹ cung cấp qua nhau, đây chính là thời kỳ hình
đang phát triển ở châu Á, tỷ lệ này cao hơn, ở
thành và phân chia các cơ quan nên nếu thai nhi

Trung Quốc theo tác giả Wang W năm 2011 có
bị thiếu hoóc-môn trong thời gian này sẽ gây ra
9,4% thai phụ bị RLCNTG (trong nhóm thai phụ
biến chứng nặng nề. Hậu quả của RLCNTG
có yếu tố nguy cơ thì 15% đối tượng bị
trong thai kỳ như: sẩy thai, thai lưu, thai dị tật
RLCNTG)(13), nghiên cứu của Hong Yang năm
bẩm sinh, sinh non, tiền sản giật, thai chậm tăng
2014 có 5,4% thai phụ bị RLCNTG (trong đó tỷ lệ
trưởng trong tử cung, tăng tỷ lệ tử suất và bệnh
cường giáp là 1% và tỷ lệ suy giáp chiếm
suất chu sinh. Đặc biệt suy giáp làm cho trẻ sinh
4,4%)(14). Nghiên cứu của Anupama Dave năm
ra có chỉ số IQ thấp và nguy hiểm nhất trong các
2014 ở Ấn Độ trên toàn bộ phụ nữ mang thai có
biến chứng của cường giáp là cơn bão giáp với tỷ
9,8% đối tượng suy giáp và 0,32% đối tượng
lệ tử vong thai và mẹ cao(4,2,6).
cường giáp(4). Tại Việt Nam, năm 2009 nghiên
Việc tầm soát nhằm phát hiện và điều trị kịp
cứu thực hiện trên những phụ nữ mang thai
thời các bệnh lý tuyến giáp ở phụ nữ có thai có ý
không có tiền căn bệnh lý tuyến giáp và một số
nghĩa hết sức quan trọng. Ngoài việc ngăn ngừa
bệnh lý khác ở 3 bệnh viện (bệnh viện Từ Dũ,
các biến chứng, làm giảm tỷ lệ tử vong ở cả mẹ
bệnh viện Đại học Y Dược, bệnh viện Bạch Mai)
và con, còn đảm bảo những đứa trẻ sinh ra hoàn
cho thấy trong thời kỳ mang thai tỷ lệ bất
toàn khỏe mạnh về thể chất và trí tuệ.

thường TSH là 4,88% và tỷ lệ ở mức nguy cơ
TSH là 10,93%(8).
Theo Hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ năm 2011,
nhóm thai phụ có nguy cơ cao về RLCNTG
Tại Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
trong thai kỳ là những phụ nữ mang thai có một
(BVPSQTSG) hàng năm nhận khoảng 5000 ca
trong các yếu tố sau: trên 30 tuổi, có tiền căn bản
sinh, gần đây việc tầm soát RLCNTG trong thai
thân hoặc gia đình bệnh lý tuyến giáp, béo phì,
kỳ trên những thai phụ nguy cơ cao cũng đã
tiền căn sẩy thai hoặc sinh non, có các triệu
được thực hiện, nhưng chưa được thống kê cụ
chứng của RLCNTG, tiền căn phẫu thuật tuyến
thể. Tại Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có một

62

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
thống kê đầy đủ về tỷ lệ RLCNTG trong thai kỳ,
các dữ liệu nghiên cứu về RLCNTG trong thai kỳ
còn hạn chế.
Chính vì vậy mà chúng tôi tiến hành nghiên
cứu: “Khảo sát rối loạn chức năng tuyến giáp
trong ba tháng đầu thai kỳ ở những thai phụ
nguy cơ cao (tại bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài
Gòn)” nhằm góp phần đánh giá thực trạng

RLCNTG trong thai kỳ tại Việt Nam, tìm ra
những yếu tố nguy cơ để tránh bỏ sót việc chẩn
đoán, từ đó có hướng quản lý và điều trị thích
hợp, góp phần làm tốt công tác chăm sóc sức
khỏe sinh sản. Với câu hỏi được đặt ra là tỷ lệ rối
loạn chức năng tuyến giáp trong ba tháng đầu
thai kỳ ở những thai phụ nguy cơ cao tại bệnh
viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn từ 09/2015 đến
03/2016 là bao nhiêu?

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành tại
khoa khám bệnh BVPSQTSG trong thời gian từ
tháng 09/2015 đến tháng 3/2016. Cỡ mẫu tính
được là 384 thai phụ (chúng tôi đưa 385 thai phụ
vào phân tích và xử lý).
Đối tượng nghiên cứu là thai phụ mang thai
3 tháng đầu đến khám thai tại BVPSQTSG có 1
trong các yếu tố: tuổi > 30 tuổi, tiền căn sẩy thai
hoặc sinh non, béo phì (BMI ≥ 23kg/m²), có các
triệu chứng của RLCNTG, tiền căn bệnh lý tuyến
giáp, tiền căn phẫu thuật tuyến giáp, tiền căn xạ
trị vùng cổ hoặc đầu, tiền căn gia đình có bệnh lý
tuyến giáp, có bệnh tự miễn, có bướu giáp, có
TPO-Ab dương tính, mang đơn thai, đồng ý
tham gia nghiên cứu và không có các tiêu chuẩn
loại trừ: những thai phụ bị bệnh lý tâm thần
hoặc không có khả năng trả lời các câu hỏi.
Thai phụ đến khám thai, bác sĩ xác định
mang thai 3 tháng đầu, nếu thỏa tiêu chuẩn chọn

mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được
phỏng vấn bộ câu hỏi và thông tin hồ sơ bệnh
án. Các thai phụ tham gia nghiên cứu sẽ được
lấy máu làm xét nghiệm TSH, FT4. Phòng xét
nghiệm lấy 4ml máu, huyết tương được chống
đông, máu toàn phần được ly tâm 10000 vòng/10

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

phút và lưu mẫu ở nhiệt độ -10 đến -20oC cho
đến khi tiến hành định lượng. Những thai phụ
có kết quả là RLCNTG thì sẽ được tư vấn khám
chuyên khoa nội tiết và khám thai định kỳ.
Các xét nghiệm định lượng TSH, FT4 được
thực hiện bằng bằng phương pháp miễn dịch
hóa phát quang dùng vi hạt với thuốc thử thế hệ
thứ 3 của Abbott trên máy Architect i1000RS.
Máy Architect i1000RS được kỹ sư của hãng
Abbott kiểm tra bảo trì máy hàng tháng và kiểm
chuẩn định kỳ tại trung tâm Ngoại kiểm
TPHCM mỗi 6 tháng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán RLCNTG trong ba
tháng đầu thai kỳ theo Hiệp hội tuyến giáp Hoa
Kỳ năm 2011 và nghiên cứu của Li C năm 2014.
Bảng 1: Tiêu chuẩn chẩn đoán RLCNTG trong ba
tháng đầu thai kỳ
RLCNTG
TSH (mUI/L)

Giảm nồng độ TSH
< 0,1
Cường giáp
< 0,1
Cường giáp dưới lâm sàng
<0,1
Tăng nồng độ TSH
> 2,5
>2,5
Suy giáp
>10
Suy giáp dưới lâm sàng

FT4 (ng/dl)
>1,63
Bình thường

< 0,96
Không tính đến
FT4
2,5
Số liệu được nhập bằng phần mềm Excel,
phân tích và xử lý bằng phần mềm thống kê
Stata 10.0/SE. Kết quả thu nhận được trình bày
trên các bảng số liệu, biểu đồ, sử dụng phương
pháp thống kê để tính toán: trị số trung bình, độ
lệch chuẩn, tỷ lệ, phân tích mối liên quan giữa
rối loạn chức năng tuyến giáp trong thai kỳ và
các yếu tố bằng kiểm định hồi quy Logistic đơn

biến và đa biến.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 09/2015 đến 03/2016
chúng tôi thu nhận được 385 thai phụ thỏa tiêu
chuẩn chọn mẫu.
Trong 385 đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ thai
phụ bị RLCNTG khá cao, chiếm 17,9% (KTC
95%: 0,141-0,217).
Trong tổng số trường hợp rối loạn chức
năng tuyến giáp, tỷ lệ cường giáp dưới lâm

63


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

sàng chiếm ưu thế 10,6% (KTC 95%: 0,0750,137), kế tiếp là suy giáp và suy giáp dưới lâm
sàng ngang nhau với tỷ lệ 2,6% (KTC 95%:
0,01-0,042), cường giáp chiếm tỷ lệ thấp nhất
2,1% (KTC 95%: 0,007-0,035).

Bảng 2. Phân loại chức năng tuyến giáp trong ba
tháng đầu thai kỳ
Chức năng tuyến giáp

Tần số


Tỷ lệ(%)

Cường giáp
Cường giáp dưới lâm sàng
Suy giáp
Suy giáp dưới lâm sàng
Bình thường
Tổng

8
41

2,1
10,6
10
10
316
385

2,6
2,6
82,1
100

PR*

KTC 95%

Giá trị p*


0,66

0,29-1,47

0,31

2,06

1,11-3,83

0,02

1,26

0,22-7,18

0,78

1,83

0,06-53,28

0,72

1,79

0,13-23,14

0,65


3,83

0,50-29,34

0,19

5,64

2,84-11,18

0,000

Bảng 3. Mối liên quan giữa RLCNTG trong ba tháng đầu thai kỳ và các yếu tố
Các yếu tố
Tuổi
TC sẩy thai
TC bệnh lý tuyến giáp
TC phẫu thuật
tuyến giáp
Bướu giáp
TC gia đình bị bệnh lý
tuyến giáp
Triệu chứng RLCNTG

≤ 30 tuổi
>30 tuổi
Không

Không


Không

Không

Không

Không


Bình thường n = 316 (%)
26 (65,00)
290 (84,06)
248 (85,22)
68 (72,34)
305 (82,88)
11 (64,71)
315 (82,46)
1 (33,33)
313 (82,59)
3 (50,00)
314 (82,63)
2 (40,00)
292 (86,65)
24 (50,00)

RLCNTG n = 69 (%)
14 (35,00)
55 (15,94)
43 (14,78)
26 (27,66)

63 (17,12)
6 (35,29)
67 (17,54)
2 (66,67)
66 (17,41)
3 (50,00)
66 (17,37)
3 (60,00)
45 (13,35)
24 (50,00)

* Hồi quy Logistic

Có mối liên quan giữa RLCNTG trong ba
tháng đầu thai kỳ với: tiền căn sẩy thai
(p=0,02, PR = 2,06, KTC 95%:1,11-3,83), triệu

chứng RLCNTG (p=0,000, PR= 5,64, KTC 95%:
2,84-11,18).

Bảng 4. Mối liên quan giữa tăng nồng độ TSH và các yếu tố
Các yếu tố
Tuổi
TC sẩy thai
TC phẫu thuật tuyến giáp
TC gia đình bị bệnh lý
tuyến giáp
Triệu chứng RLCNTG

≤ 30 tuổi

>30 tuổi
Không

Không

Không

Không


Nồng độ TSH ≤ 2,5mUI/L Nồng độ TSH > 2,5mUI/L
N = 365 (%)
N = 20 (%)
35 (87,50)
5 (12,50)
330 (95,65)
15 (4,35)
280 (96,22)
11 (3,78)
85 (90,43)
9 (9,57)
363 (95,03)
19 (4,97)
2 (66,67)
1 (33,33)
362 (95,26)
18 (4,74)
3 (60,00)
2 (40,00)
318 (94,36)

19 (5,64)
47 (97,92)
1 (2,08)

PR*
1
0,42
1
2,32
1
8,52
1
10,96
1
0,12

KTC 95% Giá trị p*
0,13-1,39

0,15

0,88-6,15

0,08

0,39-183,5

0,17

1,30-92,50


0,02

0,00-1,83

0,12

* Hồi quy Logistic

Có mối liên quan giữa nồng độ TSH >
2,5mUI/L với tiền căn gia đình bị bệnh lý tuyến
giáp (p=0,02, PR= 10,96, KTC 95%: 1,30-92,50)
(Bảng 4).

64

Có mối liên quan giữa cường giáp với: tiền
căn sinh non (p=0,04, PR=10,96, KTC 95%: 1,07111,70), tiền căn bệnh lý tuyến giáp (p=0,02, PR=
13,11, KTC 95%: 1,50-113,90) (Bảng 5).

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

Bảng 5. Mối liên quan giữa cường giáp và các yếu tố
Các yếu tố
≤ 30 tuổi

Tuổi
>30 tuổi
Không
TC sinh non

Không
TC bệnh lý tuyến
giáp

Không
TC phẫu thuật
tuyến giáp

Không
Bướu giáp

Không
TC gia đình bị
bệnh lý tuyến giáp


Không cường giáp N = 377 (%) Có cường giáp N = 8 (%)
38 (95,00)
2 (5,00)
339 (98,26)
6 (1,74)
369 (98,14)
7 (1,86)
8 (88,89)
1 (11,11)

363 (98,64)
5 (1,36)
14 (82,35)
3 (17,65)
375 (98,17)
7 (1,83)
2 (66,67)
1 (33,33)
372 (98,15)
7 (1,85)
5 (83,33)
1 (16,67)
373 (98,16)
7 (1,84)
4 (80,00)
1 (20,00)

PR*
1
0,78
1
10,96
1
13,11
1
2,21
1
0,78
1
3,68


KTC 95%

Giá trị p*

0,11-5,41

0,80

1,07-111,7

0,04

1,50-113,9

0,02

0,11-44,56

0,60

0,04-15,30

0,87

0,19-69,55

0,38

KTC 95%


Giá trị p*

0,37-2,57

0,96

0,62-10,33

0,19

1,09-4,62

0,02

2,44-11,17

0,000

* Hồi quy Logistic
Bảng 6. Mối liên quan giữa cường giáp dưới lâm sàng (CGDLS) và các yếu tố
Các yếu tố
≤ 30 tuổi
Tuổi
>30 tuổi
< 23 kg/m²
BMI
≥ 23 kg/m²
Không
TC sẩy thai


Không
Triệu chứng
RLCNTG


Không CGDLS N = 344 (%)
33 (82,50)
311 (90,14)
333 (89,76)
11 (78,57)
266 (91,41)
78 (82,98)
311 (92,28)
33 (68,75)

Có CGDLS N = 41 (%)
7 (17,50)
34 (9,86)
38 (10,24)
3 (21,43)
25 (8,59)
16 (17,02)
26 (7,72)
15 (31,25)

PR*
1
0,97
1

2,53
1
2,24
1
5,22

* Hồi quy Logistic
Có mối liên quan giữa cường giáp dưới lâm
sàng với: tiền căn sẩy thai (p=0,02, PR=2,24, KTC
95%: 1,09-4,62), triệu chứng RLCNTG (p=0,000,
PR=5,22, KTC 95%: 2,44-11,17).

BÀN LUẬN
Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp trong
ba tháng đầu thai kỳ
Tỷ lệ RLCNTG trong ba tháng đầu thai kỳ
trong nghiên cứu của chúng tôi là 17,9%, cao hơn
các nghiên cứu của Hong Yang (5,4% thai
phụ)(14), Wang W (10,2% thai phụ)(13), Anupama
(10,1% thai phụ)(4), Dieguez M (6,4% thai phụ)(5),
nhưng thấp hơn kết quả nghiên cứu của Rajesh
Rajput (26,5%)(10). Điều này được giải thích vì các
tác giả Hong Yang, Wang W, Dieguez M không
áp dụng khoảng tham khảo theo từng tam cá
nguyệt của Hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ năm
2011, mà sử dụng khoảng tham khảo của người
không mang thai hoặc giá trị tham khảo theo
từng tam cá nguyệt nhưng không giống với

Sản Phụ Khoa


chúng tôi, khoảng tham khảo TSH trong nghiên
cứu của Dieguez M, Hong Yang, Wang W lần
lượt là 0,2-4,5 mUI/L, 0,09-3,47 mUI/L, 0,13-3,93
mUI/L, so với các nghiên cứu đó thì khoảng
tham khảo nồng độ TSH của chúng tôi hẹp hơn
nhiều (0,1-2,5 mUI/l) do đó tỷ lệ RLCNTG của
chúng tôi cao hơn. Tác giả Anupama cũng sử
dụng khoảng tham khảo theo từng tam cá
nguyệt như chúng tôi nhưng đối tượng nghiên
cứu là toàn bộ phụ nữ mang thai còn chúng tôi
chỉ nghiên cứu trên những thai phụ có yếu tố
nguy cơ cao nên tỷ lệ RLCNTG của Anupama
thấp hơn của chúng tôi. Rajesh Rajput cũng áp
dụng khoảng tham khảo nồng độ TSH từ 0,1-2,5
mUI/L giống với chúng tôi, nhưng trong nghiên
cứu này tỷ lệ suy giáp và suy giáp dưới lâm sàng
khá cao chiếm 22,8%, do đó đã làm cho tỷ lệ
RLCNTG nói chung cao hơn hẳn so với kết quả
của chúng tôi.
Do tiêu chuẩn chẩn đoán, do vị trí địa lý của
từng vùng miền liên quan đến tình trạng iốt,

65


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017


cũng như là do tiêu chuẩn chọn bệnh không
giống nhau. Vì vậy, tỷ lệ của chúng tôi khác với
các nghiên cứu khác.
Một điểm khác biệt nữa là trong các nghiên
cứu đã được tìm hiểu thì tỷ lệ suy giáp và suy
giáp dưới lâm sàng chiếm ưu thế, theo các tác giả
Rajesh Rajput, Anupama, Wang W tỷ lệ suy giáp
lần lượt là 22,8%, 9,8%, 7,5% trong khi đó nghiên
cứu của chúng tôi, cường giáp dưới lâm sàng lại
là chủ yếu (10,6% thai phụ). Giải thích cho vấn
đề này, có thể do đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi thuộc tầng lớp trung lưu trở lên, trình
độ học vấn phần lớn là đại học - cao đẳng, do đó
vấn đề dinh dưỡng cũng được quan tâm, cho
nên nếu có thiếu iốt thì cũng ở mức độ nhẹ,
trong khi đó Rajesh Rajput, Anupama nghiên
cứu tại Ấn Độ, trong các nghiên cứu trước đây
cho thấy Ấn Độ là nước có tỷ lệ cao của bệnh
bướu giáp (mặc dù nghiên cứu thực hiện trên
khu vực đầy đủ iốt và bệnh lý tuyến giáp tự
miễn thấp) và thiếu vi chất dinh dưỡng như
selen và sắt có thể gây ra suy giáp và bướu
giáp(3), bên cạnh đó tại Ấn Độ, toàn bộ dân số dễ
bị rối loạn thiếu hụt iốt do tình trạng thiếu iốt
trong đất của tiểu lục địa, cây trồng sinh trưởng
trên những mảnh đất này gây nên hậu quả các
thực phẩm bị thiếu iốt. Để chống lại những nguy
cơ rối loạn do thiếu hụt iốt, muối được bổ sung
thêm iốt. Tuy nhiên, ước tính vẫn còn có khoảng
350 triệu người không tiêu thụ đủ muối iốt cho

nên tỷ lệ suy giáp ở nước này cao(4). Do chúng tôi
nghiên cứu trên những bệnh nhân có yếu tố
nguy cơ, triệu chứng lâm sàng của bệnh lý tuyến
giáp là một trong những yếu tố nguy cơ đó,
những thai phụ trong nghiên cứu của chúng tôi
chủ yếu có triệu chứng biểu hiện của cường
giáp, những triệu chứng này cũng có thể gặp khi
mang thai trong tam cá nguyệt đầu và phần lớn
những trường hợp này nồng độ TSH giảm, có
thể là cường giáp do bệnh lý tuyến giáp hoặc
cường giáp thai kỳ thoáng qua, đó là lý do tỷ lệ
cường giáp dưới lâm sàng của chúng tôi cao.
Tuy nhiên, tỷ lệ suy giáp và suy giáp dưới
lâm sàng trong nghiên cứu của chúng tôi cao

66

hơn so với các nghiên cứu của Klein RZ tại Đức
(2,5% thai phụ)(7) và Allan WC tại Mỹ (2,2% thai
phụ)(1). Điều này được giải thích là do Đức và Mỹ
là hai cường quốc mạnh của thế giới, kinh tế
phát triển, hệ thống y tế tốt hơn Việt Nam, vấn
đề iốt cũng như vấn đề chăm sóc sức khỏe được
quan tâm tốt hơn nên tỷ lệ suy giáp thấp. Bên
cạnh đó, giới hạn trên của nồng độ TSH trong
nghiên cứu của Klein RZ và Allan WC là 6
mUI/L cao hơn nhiều so với nghiên cứu của
chúng tôi (2,5 mUI/L) nên tỷ lệ suy giáp và suy
giáp dưới lâm sàng của chúng tôi cao hơn. Một
nguyên nhân khác làm cho tỷ lệ suy giáp và suy

giáp dưới lâm sàng của chúng tôi cao hơn là
chúng tôi nghiên cứu trên những thai phụ có
yếu tố nguy cơ cao, trong khi đó Klein RZ và
Allan WC lại nghiên cứu trên toàn bộ phụ nữ
mang thai.
Khi khảo sát mối liên quan giữa RLCNTG
trong thai kỳ và các yếu tố cho thấy có mối liên
quan giữa RLCNTG với tiền căn sẩy thai, vấn đề
này của chúng tôi cũng được thống nhất ở hầu
hết các nghiên cứu khác.
Tiền căn sinh non cũng có mối liên quan với
RLCNTG trong ba tháng đầu thai kỳ (p=0,04,
PR=10,96, KTC 95%: 1,07-111,70). Điều này được
giải thích do trong nghiên cứu của chúng tôi, có
9 trường hợp sinh non, nguyên nhân chủ yếu là
do các yếu tố khác đi kèm (tiền sản giật, nhau
bong non, khung chậu hẹp,…) nên phải chấm
dứt thai kỳ sớm, có thể những thai phụ có tiền
căn sinh non do tiền sản giật hoặc nhau bong
non đã bị RLCNTG trong thai kỳ trước nhưng
không biết do thai phụ không có triệu chứng nên
bác sĩ không chỉ định xét nghiệm, thai kỳ lần này
mới được phát hiện. Điều này cũng phù hợp vì
theo y văn, nếu thai phụ chưa được điều trị ổn
bệnh Graves thì dễ dẫn tới sinh non và dễ có
biến chứng tim mạch(9).
Có mối liên quan giữa tiền căn bệnh lý tuyến
giáp với RLCNTG trong ba tháng đầu thai kỳ
(p=0,02, PR= 13,11, KTC 95%: 1,50-113,90). Vì
trong những đối tượng có tiền căn bệnh lý tuyến

giáp thì chủ yếu là tiền căn cường giáp, có

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
những thai phụ đã được điều trị ổn, có những
thai phụ chưa điều trị ổn nhưng bây giờ có thai,
có thể những trường hợp đã điều trị ổn nhưng
dưới ảnh hưởng của thai kỳ lại bị cường giáp tái
phát, trường hợp này hay gặp ở những thai phụ
có tiền căn bệnh Graves. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng phù hợp với tác giả Wang W.
Có mối liên quan giữa nồng độ TSH >
2,5mUI/L với tiền căn gia đình bị bệnh lý tuyến
giáp (p=0,02, PR= 10,96, KTC 95%: 1,30-92,50).
Điều này được giải thích rằng một trong những
nguyên nhân gây suy giáp trong thai kỳ là viêm
giáp tự miễn mạn tính (viêm giáp Hashimoto),
bệnh có khuynh hướng di truyền, do đó những
thai phụ có người cùng huyết thống mắc bệnh lý
tuyến giáp thì thai phụ đó cũng có nguy cơ cao
mắc bệnh. Bên cạnh đó, những thai phụ có bệnh
Graves thì thường trong gia đình đã có nhiều
người biểu hiện bệnh ở tuyến giáp như bướu
giáp đơn thuần, viêm tuyến giáp hoặc bệnh
Graves(9), một trong những nguyên nhân gây suy
giáp thai kỳ là sau mổ bướu Graves, có thể một
số thai phụ trong nghiên cứu của chúng tôi có
nồng độ TSH > 2,5mUI/L (suy giáp, suy giáp

dưới lâm sàng) sau phẫu thuật bướu Graves và
trong gia đình thai phụ đó cũng có người bị
bệnh lý tuyến giáp, do đó có mối liên quan giữa
tiền căn gia đình bệnh lý tuyến giáp và suy giáp,
suy giáp dưới lâm sàng. Mặt khác, những thai
phụ có nồng độ TSH > 2,5mUI/L còn do nguyên
nhân thiếu hụt iốt, có thể trong gia đình thai phụ
chế độ dinh dưỡng giống nhau, chế độ này gây
ra tình trạng thiếu iốt (khoai mì, rau họ cải, đậu
nành, muối không chứa iốt,…) (9) nên các thành
viên trong gia đình đều bị rối loạn thiếu hụt iốt,
do đó những thai phụ bị suy giáp thai kỳ cũng
có thể trong gia đình có người bị suy giáp do chế
độ ăn. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với
nghiên cứu của Vaidya(12), Vaidya cho rằng tiền
căn gia đình có bệnh lý tuyến giáp làm tăng
nguy cơ tăng TSH (RR = 3,4, KTC 95%: 1,8-6,2,
p<0,0001). Theo tác giả Anupama(4), phụ nữ có có
tiền sử cá nhân hoặc gia đình của rối loạn chức
năng tuyến giáp hoặc có tiền sử cá nhân của các

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

bệnh tự miễn khác sẽ làm tăng nguy cơ suy giáp
(p <0,001), kết quả này cũng phù hợp với nghiên
cứu của chúng tôi.
Có mối liên quan giữa RLCNTG trong ba
tháng đầu thai kỳ với triệu chứng RLCNTG

(p=0,000, PR= 5,64, KTC 95%: 2,84-11,18). Điều
này phù hợp vì trong nghiên cứu của chúng tôi,
những thai phụ có triệu chứng RLCNTG chủ
yếu là các triệu chứng gợi ý cường giáp như
đánh trống ngực, dễ xúc động, mạch nhanh, sút
cân, khó thở lúc gắng sức và những trường hợp
này kết quả phần lớn đều có nồng độ TSH giảm
(cường giáp, cường giáp dưới lâm sàng).
Các yếu tố khác cũng được khảo sát như tuổi
thai phụ, chỉ số khối cơ thể, bướu giáp, tiền căn
bệnh lý tự miễn, TPO-Ab dương tính nhưng
không có mối liên quan.

KẾT LUẬN
Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp trong
ba tháng đầu thai kỳ chiếm 17,9% các thai phụ
có nguy cơ đến khám thai tại BVPSQTSG là
một con số đáng được quan tâm, vì vậy nên
tầm soát và chẩn đoán bệnh lý tuyến giáp
trong ba tháng đầu thai kỳ ở những thai phụ
nguy cơ cao nhằm hạn chế các tai biến cho mẹ
và con, từ đó góp phần làm tốt công tác chăm
sóc sức khỏe sinh sản.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.


4.

5.

6.

Allan WC, Haddow JE, Palomaki GE, et al. (2000), "Maternal
thyroid deficiency and pregnancy complications: implications
for population screening", Journal of Medical Screening, 7(3), pp.
127-130.
Ashoor G, Maiz N, Rotas M, Jawdat F, Nicolaides KH (2010),
"Maternal thyroid function at 11 to 13 weeks of gestation and
subsequent fetal death",Thyroid, 20(9), pp. 989-993.
Das S, Bhansali A, Dutta P, Aggarwal A, Bansal MP, et al.
(2011), "Persistence of goitre in the post-iodization phase:
micronutrient deficiency or thyroid autoimmunity?", Indian J
Med, 133(1), pp. 103-109.
Dave A, Maru L, Tripathi M (2014), "Importance of Universal
screening for thyroid disorders in first trimester of pregnancy",
Indian J Endocrinol Metab, 18(5), pp. 735-738.
Diéguez M, Herrero A, Avello N, Suárez P, 6 Delgado E, et al.
(2016), "Prevalence of thyroid dysfunction in women in early
pregnancy: does it increase with maternal age?", Clin
Endocrinol (Oxf), 84(1), pp. 121-126.
Haddow JE, Palomaki GE, Allan WC, et al (1999), "Maternal
thyroid deficiency during pregnancy and subsequent

67



Nghiên cứu Y học

7.

8.

9.
10.

11.

68

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

neuropsychological development of the child", The New
England Journal of Medicine, 341(8), pp. 549-555.
Klein RZ1, Haddow JE, Faix JD, Brown RS, Hermos RJ, et al.
(1991), "Prevalence of thyroid deficiency in pregnant women",
Clin Endocrinol (Oxf), 35(1), pp. 41-46.
Lê Thị Mai Dung, Phạm Thi Mai, Nguyễn Thị Hương,
Nguyễn Thị Hoàng Phương (2009), "Khảo sát nồng độ TSH và
tỷ lệ TPO-AB dương tính trên phụ nữ có thai và sau sinh ở
Việt Nam", Y học thực hành, số 2, tr. 60-62.
Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2003), "Tuyến giáp", Nội
tiết học đại cương, Nhà xuất bản Y học, tr. 131 - 138.
Pandav CS, Yadav K, Srivastava R, Pandav R, Karmarkar MG
(2013), "Iodine deficiency disorders (IDD) control in India",
Indian J Med Res, 138(3), pp. 418-433.

The American Thyroid Association Taskforce on Thyroid
Disease During Pregnancy and Postpartum (2011),
"Guidelines of the American Thyroid Association for the
Diagnosis and Management of Thyroid Disease During
Pregnancy and Postpartum", Thyroid, 21(10), pp. 1081-1125.

12.

13.

14.

Vaidya B, Anthony S, Bilous M, et al (2007), "Brief report:
detection of thyroid dysfunction in early pregnancy: universal
screening or targeted high-risk case finding?", Journal of
Clinical Endocrinology and Metabolism, 92(1), pp. 203-207.
Wang W, Teng W, Shan Z, Wang S, Li J, et al. (2011), "The
prevalence of thyroid disorders during early pregnancy in
China: the benefits of universal screening in the first trimester
of pregnancy", Eur J Endocrinol, 164(2), pp. 263-268.
Yang H, Shao M, Chen L, Chen Q, Yu L, Cai L, Lin Z, Zhang C, Lu
X (2014), "Screening Strategies for Thyroid Disorders in the
First and Second Trimester of Pregnancy in China", PLoS One,
9(6):e99611.

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:


15/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em



×