Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC
VÙNG 0 ĐIỀU TRỊ BẰNG GIÁ ĐỠ CÓ PHỦ KẾT HỢP TÁI TẠO TOÀN PHẦN
CÁC NHÁNH CỦA QUAI ĐỘNG MẠCH CHỦ KHÔNG QUA MỞ NGỰC
Võ Tuấn Anh*, Nguyễn Hoàng Định**, Lê Minh Khôi***, Nguyễn Anh Dũng*
TÓM TẮT
Phình động mạch chủ ngực, trong đó có phình quai động mạch chủ đã và đang trở thành vấn đề sức khỏe
trong giai đoạn hiện nay, khi độ tuổi trung bình của dân số tăng lên và các bệnh lý mạn tính như đái tháo đường
và tăng huyết áp đang xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nữ 86 tuổi
được chẩn đoán phình động mạch chủ ngực đoạn quai xa và đầu động mạch chủ ngực xuống. Bệnh nhân được
điều trị bằng phương pháp đặt giá đỡ có phủ với chân bám giá đỡ vượt qua vùng 0 của động mạch chủ kèm theo
tái tạo hoàn toàn các nhánh của quai động mạch chủ không qua mở ngực với kỹ thuật ống khói bằng giá đỡ có
phủ nhỏ hơn trong động mạch thân cánh tay đầu. Không có biến chứng và than phiền của bệnh nhân sau một
tháng theo dõi. CT Scan sau mổ cho thấy vị trí các giá đỡ tốt, không di lệch, không có dò vào túi phình và các cầu
nối động mạch cảnh chung phải – động mạch cảnh chung trái, động mạch cảnh chung trái – động mạch dưới
đòn trái thông tốt. Đây là phương pháp hứa hẹn để điều trị các bệnh nhân phình động mạch chủ nguy cơ cao có
giới hạn chân bám giá đỡ vượt qua vùng 0. Tuy nhiên, cần phải có các nghiên cứu lâm sàng đa trung tâm, trong
thời gian dài với mẫu lớn để đánh giá tốt hơn.
Từ khóa: phình động mạch chủ ngực, đặt giá đỡ có phủ
SUMMARY
ZONE 0 THORACIC ENDOVASCULAR ANEURYSM REPAIR WITH TOTAL DEBRANCHING AND
CHIMNEY STENTING OF INOMINATE ARTERY
Vo Tuan Anh, Nguyen Hoang Dinh, Le Minh Khoi, Nguyen Anh Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 154 ‐ 160
Aortic aneurysm, especially arch aneurysm, is becoming a problem in our healthcare system, regarding to
the increasing age of the population and the raise of chronic diseases like hypertension and diabetes mellitus. We
report a case of a 86‐year‐old woman with distal arch and proximal descending aorta aneurysm. This patient was
treated with an endovascular stent graft of which the landing zone in the zone 0 combined with total arch
debranching using a chimney grafts in the brachiocephalic trunk. No complaints and complications after one
month follow‐up. The CTA demonstrates a good position of the stent graft and the chimney graft, no endoleak, no
migration. Right common carotid – left common carotid and left common carotid – left subclavian artery
anastomosis are patent. This may be a valuable theurapeutic for high risk arch aneurysm patient with the landing
zone in the zone 0. However, long‐term, multicenter researchs with large volume of patient will provide better
assessment.
Keywords: thoracic aneurysm, stent‐graft, chimney technique
* Khoa Phẫu thuật Tim mạch, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
** Bộ môn Phẫu thuật Lồng ngực Tim mạch, Đại học Y Dược TPHCM
*** Bộ môn Hồi sức Cấp cứu – Chống độc, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Võ Tuấn Anh ĐT: 0908520016
Email:
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
155
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
TỔNG QUAN
Phình động mạch chủ ngực, trong đó có
phình quai động mạch chủ đã và đang trở
thành vấn đề sức khỏe trong giai đoạn hiện
nay, khi độ tuổi trung bình của dân số tăng lên
và các bệnh lý mạn tính như đái tháo đường
và tăng huyết áp đang xuất hiện ngày càng
nhiều hơn. Tại Mỹ, tần suất phình động mạch
chủ ngực là 6 – 10 trường hợp/100.000 dân,
trong đó 60% là phình động mạch chủ ngực
đoạn lên, 10% phình quai động mạch chủ và
khoảng 30% phình động mạch chủ ngực
xuống(10). Tỉ lệ sống còn sau 5 năm nếu không
điều trị dao động trong khoảng từ 15 – 55%(7).
Phương pháp điều trị tiêu chuẩn của phình
quai động mạch chủ cho đến nay là phẫu thuật,
đòi hỏi phải sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể và
phương pháp hạ thân nhiệt ngưng tuần hoàn.
Ngưng tuần hoàn và thời gian chạy máy tim
phổi nhân tạo kéo dài dẫn đến tăng tỉ lệ tử vong
và tỉ lệ biến chứng do sự hình thành các vi tắc
nghẽn, tăng các chất trung gian viêm, và gây rối
loạn chức năng gan, thận và cân bằng nội môi.
Vì vậy, một phương pháp điều trị có thể tránh
được tuần hoàn ngoài cơ thể và ngưng tuần
hoàn sẽ có lợi hơn cho những bệnh nhân có
nguy cơ phẫu thuật cao. Đặt giá đỡ có phủ cho
động mạch chủ ngực (TEVAR) đã trở thành một
trong những phương pháp đáp ứng điều kiện
trên, đã được áp dụng để điều trị phình động
mạch chủ bụng, phình động mạch chủ ngực
xuống và gần đây là phình quai động mạch chủ,
nhất là các phình động mạch chủ ngực cần đặt
giá đỡ kéo dài đến vùng 0 (từ động mạch chủ
ngực lên đến hết chỗ xuất phát của động mạch
thân cánh tay đầu).
Bảng 1: So sánh giữa TEVAR và phẫu thuật mở theo
Desai ND
Biến chứng
Tỉ lệ tử vong
Tai biến thần kinh
Thông khí kéo dài > 24 giờ
TEVAR
2,6%
3,9%
9%
Phẫu thuật mở
6,7%
7,1%
24%
Về hiệu quả của TEVAR so với phẫu thuật
156
kinh điển, Desai N.D và cộng sự đã so sánh giữa
đặt giá đỡ có phủ và phẫu thuật động mạch chủ
với các kết quả như sau(4):
85% các bệnh nhân đặt giá đỡ có phủ không
cần can thiệp lại sau 10 năm(4).
Tương tự, nghiên cứu của tác giả Goodney
P. và cộng sự cũng cho thấy tỉ lệ tử vong của
TEVAR thấp hơn so với phẫu thuật kinh điển
(6,1% với TEVAR và 7,1% với phẫu thuật kinh
điển) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p = 0,04)(5).
Giới hạn lớn nhất đối với các trường hợp đặt
giá đỡ có phủ cho quai động mạch chủ là phần
động mạch an toàn cần thiết đề giá đỡ bám vào
thường bao gồm chỗ xuất phát của các động
mạch quan trọng của quai (động mạch thân tay
đầu, động mạch cảnh chung trái và động mạch
dưới đòn trái). Giới hạn này đã được khắc phục
bằng các phẫu thuật kết hợp nhằm tái tạo một
phần các nhánh của quai động mạch chủ đối với
trường hợp chân giá đỡ nằm sau vùng 0 và
phẫu thuật tái tạo toàn bộ quai động mạch chủ
đối với trường hợp chân giá đỡ phải vượt qua
vùng 0. Bên cạnh đó, đặt giá đỡ có phủ của quai
động mạch chủ còn là một thử thách lớn do đặc
điểm giải phẫu uốn cong của vùng quai, lưu
lượng máu lớn và chuyển động của quai theo
nhịp tim(3).
Trong trường hợp chân bám của giá đỡ phải
vượt qua vùng 1 và nằm trong vùng 0 (che phủ
một phần hoặc vượt qua chỗ xuất phát của động
mạch thân cánh tay đầu), cần thực hiện phẫu
thuật kết hợp (hybrid) để tái tạo toàn bộ các
nhánh của quai động mạch chủ, bao gồm động
mạch thân cánh tay đầu, động mạch cảnh chung
bên trái và động mạch dưới đòn bên trái(13). Để
thực hiện phẫu thuật này, trước đây cần phải
mở ngực giữa xương ức tiêu chuẩn để thực hiện
cầu nối từ động mạch chủ ngực lên đến các
động mạch trên. Đối với các bệnh nhân lớn tuổi,
nguy cơ phẫu thuật cao (đái tháo đường, tăng
huyết áp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính), thực
hiện mở ngực giữa xương ức có thể làm tăng
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nguy cơ xuất hiện các biến chứng sau mổ, theo
tác giả Moulakalis K.G(9), tỉ lệ các biến chứng sau
phẫu thuật mở ngực để tái tạo toàn bộ quai
động mạch chủ như sau: Để tránh các biến
chứng do phẫu thuật chẻ xương ức, người ta đã
phát triển kỹ thuật tái tạo toàn bộ quai động
mạch chủ không cần mở ngực. Để thực hiện kỹ
thuật này, đầu tiên phẫu thuật viên sẽ làm các
cầu nối động mạch cảnh chung phải – động
mạch cảnh chung trái, động mạch cảnh chung
trái – động mạch dưới đòn trái, các cầu nối này
được làm thông qua các đường rạch da ở cổ và
hố trên đòn trái, nhẹ nhàng hơn so với phẫu
thuật mở ngực.
Bảng 2. Tỉ lệ biến chứng sau mở ngực tái tạo toàn bộ
quai động mạch chủ
Biến chứng
Tỉ lệ tử vong sớm (< 30 ngày)
Tai biến mạch máu não
Nhiễm trùng phổi
Suy thận
Tỉ lệ
11,9%
7,6%
12,6%
5,6%
Sau đó, phẫu thuật viên sẽ đặt thêm một giá
đỡ có phủ có kích thước phù hợp vào động
mạch thân cánh tay đầu cùng thời điểm đặt giá
đỡ có phủ của quai động mạch chủ. Các nghiên
cứu gần đây chứng minh được ưu điểm của
phương pháp này với tỉ lệ tử vong và tỉ lệ biến
chứng thấp, theo tác giả De Rango, tỉ lệ tử vong
sớm là 5,8%, tai biến mạch máu não là 3,8%(2).
Tuy nhiên, vẫn cần các nghiên cứu, nhất là các
nghiên cứu phân tích tổng hợp (meta‐analysis)
để đánh giá rõ hơn hiệu quả của phương pháp
tái tạo toàn bộ quai động mạch chủ không cần
mở ngực.
TRÌNH BÀY BỆNH ÁN
Hành chính
Bệnh nhân Lê Thị T., nữ, 86 tuổi.
Địa chỉ: Đường số 2 – Xã Phú Long – Huyện
Bình Đại – Tỉnh Bến Tre.
Nhập viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
lúc 5 giờ 40 phút ngày 26/08/2013.
Số hồ sơ: A11‐0186854 Số nhập viện: 13‐
0025565.
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
Nghiên cứu Y học
Lý do nhập viện
Đau ngực.
Bệnh sử
Cách nhập viện khoảng một tháng, bệnh
nhân thường xuất hiện đau ngực sau xương ức,
lan sau lưng, đau liên tục, âm ỉ, không giảm khi
nằm nghỉ, không khó thở. Bệnh nhân đi khám
và điều trị tại các cơ sở y tế tư nhân, không rõ
chẩn đoán và loại thuốc sử dụng, điều trị không
có kết quả, đau không thuyên giảm → Đến
khám và nhập viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí
Minh. Trong quá trình bệnh, bệnh nhân ăn uống
được, tiêu tiểu bình thường, không khàn tiếng,
không nuốt nghẹn.
Tiền căn
Tăng huyết áp phát hiện cách nhập viện
khoảng 6 – 7 năm, điều trị không thường xuyên,
không khai thác được huyết áp cao nhất và
huyết áp bình thường của bệnh nhân.
Khám lâm sàng
Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, thể trạng trung
bình.
M: 88 lần/phút, Huyết áp: 150/90 mmHg,
nhịp thở: 12 lần/phút, nhiệt độ: 37oC.
Tim đều, rõ 88 lần/phút, không âm thổi.
Phổi âm phế bào hai bên rõ, không ran.
Bụng mềm.
Kết quả cận lâm sàng quan trọng
CT Scan ngực – bụng có cản quang: Phình
động mạch chủ ngực đoạn quai xa và đầu động
mạch chủ ngực xuống, đường kính tối đa 65
mm. Khoảng cách từ cổ túi phình đến chỗ xuất
phát của động mạch thân cánh tay đầu là 18 – 20
mm. Đường kính động mạch chủ ngực lên trước
túi phình là 28 – 30 mm. Đường kính động mạch
chủ ngực xuống sau túi phình là 23 – 25 mm.
Đường kính động mạch chậu ngoài và đùi
chung hai bên là 7,6 mm.
Siêu âm tim: Chức năng tâm thu thất trái tốt,
EF =%
Chụp động mạch vành: Hệ động mạch vành
157
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
không hẹp.
Chụp động mạch cảnh hai bên và đa giác
Willis: Không hẹp, đa giác Willis thông nối tốt.
Công thức máu, đông máu toàn bộ, chức
năng gan, thận, ion đồ và các xét nghiệm khác
trong giới hạn bình thường.
Hình 1: Xác định các kích thước và tương quan của
túi phình với các mạch máu lớn
Chẩn đoán
Phình động mạch chủ ngực đoạn quai xa và
đầu động mạch chủ ngực xuống – Tăng huyết
áp IIC (JNC VII).
Điều trị
Hướng điều trị
Vì bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều nguy cơ lớn
khi thực hiện phẫu thuật mở, chúng tôi quyết
định đặt giá đỡ có phủ qua vùng túi phình. Với
khoảng cách từ cổ túi phình đến động mạch
thân cánh tay đầu ở mức 18 – 20 mm, chúng tôi
sử dụng chiến lược tái tạo toàn bộ các nhánh của
quai động mạch chủ không qua mở ngực giữa
xương ức như sau: Thực hiện cầu nối bên – bên
từ động mạch cảnh chung bên phải sang động
mạch cảnh chung bên trái, cầu nối tận – tận từ
động cảnh chung trái sang động mạch dưới đòn
trái. Đặt giá đỡ có phủ vào động mạch chủ, cùng
158
lúc đó đặt giá đỡ có phủ vào động mạch thân
cánh tay đầu theo kỹ thuật ống khói.
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật được chia thành hai thì, thực
hiện cách nhau 24 giờ.
Thì 1 được thực hiện tại phòng mổ Khoa
Phẫu thuật tim mạch Bệnh viện Đại học Y Dược
TP Hồ Chí Minh, bệnh nhân được gây mê nội
khí quản, theo dõi tưới máu não liên tục bằng hệ
thống đo độ bão hòa oxy não, theo dõi áp lực
động mạch cảnh trực tiếp sau kẹp nhằm đảm
bảo huyết áp đầu xa động mạch cảnh sau khi
kẹp > 50 mmHg. Bộc lộ động mạch cảnh chung
phải bằng đường mở dọc theo bờ trước cơ ức
đòn chũm phải, bộc lộ động mạch cảnh chung
trái và động mạch dưới đòn trái bằng đường mở
dọc theo bờ trước cơ ức đòn chũm trái kéo dài
dọc theo bờ trên xương đòn đến 1/3 ngoài
xương đòn trái. Thực hiện cầu nối bên – bên
bằng ống ghép Gore‐Tex số 8, ống ghép được
đặt phía sau khối khí – thực quản, phía trước cột
sống. Cắt rời động mạch cảnh chung bên trái và
động mạch dưới đòn bên trái, đóng chỗ xuất
phát của hai động mạch trên bằng chỉ Prolene
6.0, thực hiện cầu nối tận – tận giữa động mạch
cảnh chung trái và động mạch dưới đòn trái.
Đóng vết mổ theo lớp. Bệnh nhân được chuyển
ra phòng hồi sức để theo dõi tri giác và các dấu
hiệu thần kinh, các dấu hiệu sinh tồn. Sau phẫu
thuật, bệnh nhân tỉnh, không có dấu hiệu thần
kinh khu trú mới xuất hiện, mạch, huyết áp ổn
định, không sốt.
Thì 2 được thực hiện tại phòng DSA Khoa
Nội Tim Mạch. Bệnh nhân được gây mê nội
khí quản, bộc lộ bó mạch đùi trái, đặt sheath 6
F tại động mạch đùi phải. Luồn pigtail vào qua
động mạch đùi phải, luồn dây dẫn vào động
mạch đùi trái theo kỹ thuật Seldinger, dùng hệ
thống nong để nong rộng lỗ vào động mạch
đùi trái đến kích thước 24 F. Bộc lộ động mạch
nách phải, luồn dây dẫn vào động mạch nách
theo kỹ thuật Seldinger, dùng hệ thống nong
để nong rộng lỗ vào động mạch nách phải.
Luồn hệ thống giá đỡ có phủ của động mạch
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
chủ qua động mạch đùi trái và luồn hệ thống
giá đỡ có phủ của động mạch thân cánh tay
đầu qua động mạch nách phải. Chúng tôi sử
dụng giá đỡ có phủ Valiant (Medtronic) 40 x
40 x 200 mm cho động mạch chủ ngực và giá
đỡ có phủ Endurant (Medtronic) 16 x 16 x 95
mm cho động mạch thân cánh tay đầu.
Nghiên cứu Y học
Xác định các mốc thả giá đỡ, sau đó đưa cả
hai dụng cụ vào đúng vị trí. Cần có hai phẫu
thuật viên thả đồng thời hai giá đỡ cùng một
lúc: khi thả hai vòng giá đỡ Valiant, điều chỉnh
lại vị trí giá đỡ lần cuối cùng, và giá đỡ
Endurant được thả toàn bộ, sau đó thả phần
còn lại của giá đỡ Valiant.
Hình 2: Hình ảnh thả giá đỡ động mạch chủ ngực cùng lúc với giá đỡ động mạch thân tay đầu theo kỹ thuật ống
khói
Hình 3: Kết quả chụp kiểm tra sau xuất viện một tuần cho thấy không có dò cạnh giá đỡ và sự thông thương của
hệ thống nối tắt các động mạch nuôi não.
não và động mạch dưới đòn trái tốt qua các
Chụp kiểm tra thấy không có di lệnh các
cầu nối.
giá đỡ, không có dò cạnh giá đỡ. Tưới máu lên
Sau phẫu thuật đặt giá đỡ có phủ, bệnh nhân
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
159
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
được chuyển về theo dõi tại phòng hồi sức khoa
Phẫu thuật tim mạch bệnh viện Đại học Y Dược.
Tiến trình hồi sức ổn định, không có biến chứng,
bệnh nhân được chuyển sang hậu phẫu sau 2
ngày nằm hồi sức và được cho xuất viện vào
ngày thứ 6 sau phẫu thuật.
Tái khám sau một tuần: bệnh nhân khỏe,
không còn đau ngực, tự đi lại, ăn uống khá.
BÀN LUẬN
Cho đến ngày nay, phương pháp điều trị
tiêu chuẩn của phình động mạch chủ ngực
đoạn quai vẫn là phẫu thuật mở có sử dụng
tuần hoàn ngoài cơ thể và hạ thân nhiệt ngưng
tuần hoàn. Tuy vậy, trên những bệnh nhân lớn
tuổi, nhiều nguy cơ, phẫu thuật tiêu chuẩn
đang dần dần được thay thế bằng phương
pháp đặt giá đỡ có phủ do mức độ phức tạp,
thời gian phẫu thuật kéo dài, tỉ lệ biến chứng
sau mổ và tỉ lệ tử vong cao(14). Điều trị can
thiệp nội mạch ít xâm lấn hơn, tỉ lệ biến chứng
và tỉ lệ tử vong cũng thấp hơn, được khuyến
cao thực hiện cho các bệnh nhân trên 75
tuổi(1,8). Vì đặt giá đỡ có phủ của động mạch
chủ không đòi hỏi mở ngực cũng như sự hỗ
trợ của tuần hoàn ngoài cơ thể nên gần như
không có nguy cơ chảy máu sau mổ, đồng
thời, can thiệp nội mạch cũng không đòi hỏi
phải kẹp động mạch chủ, do đó giảm thiểu
được nguy cơ thiếu máu nuôi não, tủy và các
tạng khác(14). Với những ưu điểm đó, đặt giá
đỡ có phủ để điều trị bệnh lý phình động
mạch chủ được xem như một phương pháp
điều trị thay thể tốt cho phẫu thuật trên bệnh
nhân có nguy cơ cao. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm, phương pháp can thiệp nội
mạch vẫn còn những hạn chế, trong đó, hạn
chế thường gặp nhất là vùng động mạch chủ
bình thường để giá đỡ bám vào không đủ
khoảng cách 20 mm, do vị trí chỗ xuất phát
của các động mạch quan trọng của động mạch
chủ như động mạch thân cánh tay đầu, động
mạch cảnh chung trái, động mạch dưới đòn
trái ở vùng quai hay động mạch thân tạng,
động mạch mạc treo tràng trên và 2 động
160
mạch thận ở động mạch chủ bụng. Để khắc
phục khuyết điểm trên, mô hình phẫu thuật lai
(hybrid) là mô hình được áp dụng rộng rãi
nhất hiện nay(13), thực hiện phẫu thuật tái tạo
các nhánh động mạch nói trên và đặt giá đỡ có
phủ vượt qua những lỗ xuất phát cũ để đảm
bảo vùng bám an toàn, tránh biến chứng di
chuyển giá đỡ về sau.
Tuy vậy, phẫu thuật tái tạo các nhánh của
động mạch chủ vẫn có tỉ lệ nguy cơ cao, nhất là
đối với phẫu thuật tái tạo hoàn toàn các nhánh
của quai động mạch chủ ở bệnh nhân lớn tuổi
do các biến chứng của mở ngực giữa xương ức:
Thở máy kéo dài, viêm phổi, nhiễm trùng vết
mổ và xương ức không lành(2). Để tránh các biến
chứng trên, các tác giả trên thế giới đã đưa ra
phương pháp tái tạo lại các nhánh của quai
động mạch chủ không cần mở ngực, bằng cách
đặt giá đỡ có phủ nhỏ hơn vào các nhánh này
hoặc đặt một giá đỡ có phủ vào động mạch thân
cánh tay đầu và thực hiện các cầu nối giữa động
mạch thân cánh tay đầu và các động mạch còn
lại(12).
Hiện nay vẫn chưa có nhiều công trình đánh
giá kết quả dài hạn của phương pháp trên, bao
gồm sự ăn mòn nơi tiếp giáp của giá đỡ động
mạch chủ và giá đỡ nhỏ, di chuyển giá đỡ và dò
máu vào túi phình(11). Các nghiên cứu cho thấy
biến chứng dò máu vào túi phình loại I có thể
tránh được khi để giá đỡ nhỏ đi song song với
giá đỡ chính và xa hơn giá đỡ chính ít nhất 7
cm(1). Để tránh hiện tượng di chuyển, chúng tôi
chọn kích thước giá đỡ lớn hơn kích thước động
mạch chủ khoảng 15 – 20%, nếu chọn kích thước
giá đỡ lớn hơn nữa sẽ có nguy cơ gấp nếp hoặc
tạo ra các rãnh giữa giá đỡ và động mạch chủ,
tăng nguy cơ dò máu vào túi phình(6).
Như vậy, cho đến hiện tại, phương pháp tái
tạo các nhánh của động mạch chủ bằng can
thiệp nội mạch vẫn còn đang được nghiên cứu
và được khuyến cáo sử dụng trên những bệnh
nhân có nguy cơ phẫu thuật rất cao, khi không
còn lựa chọn khác. Chưa có khuyến cáo về loại
giá đỡ phù hợp để sử dụng cho kỹ thuật này
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nhằm giảm tối thiểu hiện tượng mỏi của kim
loại. Cần phải có các nghiên cứu đa trung tâm
trong thời gian dài để đánh giá tốt hơn hiệu quả
của phương pháp tái tạo toàn bộ quai động
mạch chủ bằng giá đỡ nhỏ qua các nhánh động
mạch của quai kết hợp với việc đặt giá đỡ chính
trong động mạch chủ.
KẾT LUẬN
Tái tạo toàn bộ quai động mạch chủ không
qua mở ngực phối hợp với đặt giá đỡ có phủ
trong điều trị bệnh lý phình động mạch chủ có
giới hạn an toàn cho giá đỡ ở vùng 0 và vùng 1
là một phương pháp mới, có nhiều hứa hẹn vì ít
gây ra biến chứng, tỉ lệ tử vong ngắn hạn thấp
hơn trên những bệnh nhân có nguy cơ phẫu
thuật cao. Tuy vậy, cần phải có những nghiên
cứu mẫu lớn, đa trung tâm trong thời gian dài
hạn để đánh giá tốt hơn hiệu quả của phương
pháp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Choi BK, et al (2011). Successful treatment of a ruptured aortic
arch aneurysm using a hybrid procedure. Korean Circ J, 41(8):
469‐73.
De Rango P, et al (2013), Aortic arch debranching and thoracic
endovascular repair. J Vasc Surg. 59(1):107‐14.
Cooley D, Sundt T (2008). Surgical anatomy. Aortic arch
surgery, Blackwell Publishing Ltd: 12 ‐ 18.
Desai ND, et al (2012). Long‐term comparison of thoracic
endovascular aortic repair (TEVAR) to open surgery for the
treatment of thoracic aortic aneurysms. J Thorac Cardiovasc
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim – Mạch máu
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
Nghiên cứu Y học
Surg, 144(3): 604‐9; discussion 609‐11.
Goodney PP, et al (2011). Survival after open versus
endovascular thoracic aortic aneurysm repair in an
observational study of the Medicare population. Circulation,
124(24): 2661‐9.
Kolvenbach RR, et al (2011). Urgent endovascular treatment
of thoraco‐abdominal aneurysms using a sandwich technique
and chimney grafts‐‐a technical description. Eur J Vasc
Endovasc Surg, 41(1): 54‐60.
Melissano G, et al (2005). Endovascular treatment of aortic
arch aneurysms. Eur J Vasc Endovasc Surg, 29(2): 131‐8.
Milewski RK, et al (2010). Have hybrid procedures replaced
open aortic arch reconstruction in high‐risk patients? A
comparative study of elective open arch debranching with
endovascular stent graft placement and conventional elective
open total and distal aortic arch reconstruction. J Thorac
Cardiovasc Surg, 140(3): 590‐7.
Moulakakis KG, et al (2013). A systematic review and meta‐
analysis of hybrid aortic arch replacement. Ann Cardiothorac
Surg, 2(3): 247‐60.
Saleh HM and Inglese L (2006). Combined surgical and
endovascular treatment of aortic arch aneurysms. J Vasc Surg,
44(3): 460‐466.
Sugiura K, et al (2009). The applicability of chimney grafts in
the aortic arch. J Cardiovasc Surg, 50(4): 475‐81.
Vallejo N, et al (2012). Hybrid repair of thoracic aortic lesions
for zone 0 and 1 in high‐risk patients. J Vasc Surg, 55(2): 318‐
25.
Yoshida RA, et al (2011). Total endovascular debranching of
the aortic arch. Eur J Vasc Endovasc Surg, 42(5): 627‐30.
Zhou W and Qiu J (2013). Endovascular repair of an aortic
arch pseudoaneurysm with double chimney stent grafts: a
case report. J Cardiothorac Surg, 8: 80.
Ngày nhận bài báo: 27/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/012014
161