1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực, các số liệu trong luận văn có nguồn
gốc rõ ràng.
Tác giả
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Stt
1
2
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
3
UNCTAD
4
5
6
7
8
9
10
11
12
OECD
13
IESF
14
BOI
NSNN
ODA
CNMT
BVMT
AFTA
SX
KCN
KKT
Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp
quốc
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Ngân sách nhà nước
Hỗ trợ phát triển chính thức
Công nghệ môi trường
Bảo vệ môi trường
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Sản xuất
Khu công nghiệp
Khu kinh tế
Quỹ Hỗ trợ sáng kiến vì sự bền vững về môi
trường
Ủy ban xúc tiến luật đầu tư
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
BẢNG
BIỂU
5
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Qua trinh h
́ ̀ ội nhập kinh tế quốc tế ngay cang đ
̀ ̀ ược mở rông thi vi
̣
̀ ệc mở
cửa thi tr
̣ ương nganh dich vu môi tr
̀
̀
̣
̣
ương (DMVT) tr
̀
ở thành một trong những nội
dung quan trọng trong các đàm phán thương mại song phương va đa ph
̀
ương,
cũng như các khuôn khổ hợp tác quốc tế.
Hiện trạng DVMT của Việt Nam được nhận định còn rất sơ khai, chi m
̉ ới
định hình rõ và phát triển ở lĩnh vực chất thải va n
̀ ươc thai v
́
̉ ới tham gia cua các
̉
doanh nghiệp Nhà nước. Về năng lực cung ứng dịch vụ: Hiện nay các doanh
nghiệp DVMT của Việt Nam hoạt động tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nước
thải và rác thải. Mặc dù có sự gia tăng đáng kể về số lượng và quy mô các tổ
chức DVMT nhưng về cơ bản mới chỉ xử lý được một phần rất nhỏ chủ yếu là
hoạt động thu gom và xử lý sơ bộ so với nhu cầu của ngành, nhiều dịch vụ đòi
hỏi công nghệ cao như xử lý khí thải… thì các doanh nghiệp DVMT hầu như
chưa đáp ứng được. Cho đến nay, năng lực nganh DVMT m
̀
ơi đap
́ ́ ưng đ
́ ược 2
3% nhu câu x
̀ ử ly n
́ ươc thai đô thi, 15% nhu câu x
́
̉
̣
̀ ử ly chât thai răn, khoang 14%
́ ́ ̉ ́
̉
nhu câu x
̀ ử ly chât thai nguy hai; nhiêu linh v
́ ́
̉
̣
̀ ̃
ực như tai chê dâu thai, nh
́
́ ̀
̉
ựa phế
liêu, chât thai điên, điên t
̣
́ ̉
̣
̣ ử chưa phat triên.
́
̉
Trong quá trình phát triển, đặc biệt cần đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động
bảo vệ môi trường, bao gồm từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, chế tạo
thiết bị đến cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng tài
nguyên. Đặc biệt cần khuyến khích, hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ
bảo vệ môi trường.
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với những nước đang phát triển và tích lũy vốn nội bộ trong nền kinh
tế còn thấp như Việt Nam thì cần phải thu hút vốn từ bên ngoài cho đầu tư phát
triển, trong đó việc thu hút vốn FDI là một tất yếu khách quan. Đây được coi là
“cú huých” nhằm giúp đất nước thoát khỏi “cái vòng luẩn quẩn” về kinh tế.
Thực tế cho thấy, thời gian vừa qua vốn FDI đã và đang là một kênh bổ sung
vốn rất quan trọng cho nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển và tăng
trưởng kinh tế. Những thành tựu đạt được trong việc thu hút nguồn vốn FDI
thời gian qua đã tạo cho đất nước nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường
năng lực cho các ngành công nghiệp như dầu khí, hóa chất, lắp ráp ô tô, công
nghệ thông tin…Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI cũng góp phần hình thành và phát
triển hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc biệt gần đây là khu
công nghệ cao.
Thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Đời sống của
nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các thành công thì Việt
Nam cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt là sự xuống cấp
của chất lượng môi trường. Ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đang diễn
ra gay gắt với mức độ phức tạp ngày càng gia tăng, làm thiệt hại lớn về kinh tế
và gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng khác. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về xử lý
chất thải và cải thiện môi trường ngày càng cao, đòi hỏi cần có những bước
phát triển mới trong lĩnh vực dịch vụ môi trường (DVMT). Thực tế cho thấy,
năng lực cung ứng DVMT và chất lượng DVMT còn thấp, khu vực tư nhân tham
gia chưa nhiều, chỉ mới phát triển ở các thành phố lớn. Trước đây, các hoạt
động làm sạch, khôi phục môi trường và bảo vệ tài nguyên được xem là những
dịch vụ công, do các chính phủ cung cấp. Nhưng hiện nay, do gánh nặng đối với
ngân sách ngày càng lớn, cộng với một thực tế là các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động không hiệu quả, các chính phủ đã tìm cách xã hội hoá lĩnh vực dịch
7
vụ môi trường và tạo ra các cơ chế khuyến khích tư nhân cũng như doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.
Xuất phát từ thực tiễn quan trọng đó, đề tài “ Giải pháp thu hút FDI vào
dịch vụ môi trường tại Việt Nam” được thực hiện, giúp ta có một công trình
nghiên cứu sâu và toàn diện về thực trạng thu hút và sử dụng FDI, cũng như hệ
thống chính sách FDI của Việt Nam đối với dịch vụ môi trường trong thời gian
vừa qua. Đồng thời xác định mức độ thu hút FDI phù hợp để tối ưu hóa lợi ích
thu được từ nguồn vốn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này là nhằm:
Hiểu rõ lý luận chung về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào dịch
vụ môi trường tại Việt Nam.
Vận dụng những lý thuyết nghiên cứu được để tìm hiểu về thực trạng thu
hút vốn đầu tư vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Rút ra những hạn chế còn tồn tại trong công tác thu hút vốn đầu tư FDI
vào các dịch vụ môi trường của Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, đề xuất các giải pháp và kiến nghị để tăng cường thu
hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Thu hút FDI vào dịch vụ môi trường tại Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Giải pháp thu hút FDI vào các dịch vụ môi trường tại Việt Nam.
Phạm vi không gian: Dịch vụ môi trường tại Việt Nam
Phạm vi thời gian: Khoảng thời gian nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2016.
8
Dữ liệu được tập hợp từ Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, Cục Đầu tư
nước ngoài (Bộ Kế hoạch và đầu tư), Phòng Thương mại và công nghiệp Việt
Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế chính trị Mác
Lênin để nghiên cứu những dấu hiệu, thuộc tính đặc trưng của các hoạt động
dịch vụ môi trường để đi đến quan niệm khoa học về dịch vụ môi trường, đặc
điểm và phân ngành hoạt động dịch vụ môi trường.
Sử dụng phương pháp thu thập thông tin, tài liệu liên quan về hoạt động
đầu tư vào dịch vụ môi trường của các doanh nghiệp.
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh trên cơ sở
thông tin đã có để đánh giá thực trạng đầu tư vào dịch vụ môi trường tại Việt
Nam.
Sử dụng các phương pháp kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, để xác định
quan điểm, giải pháp phát thu hút đầu tư vào hoạt động dịch vụ môi trường thời
gian tới.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Để bảo vệ môi trường, ngày nay quan điểm phát triển kinh tế môi
trường, trong đó có dịch vụ môi trường với vai trò của một ngành kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân được các quốc gia nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn
hơn. Từ thực tiễn đó đã có nhiều công trình nghiên cứu về dịch vụ môi trường.
Dự án:“Điều tra đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ môi trường ở
Việt Nam. Đề xuất chính sách phát triển dịch vụ môi trường phù hợp với các
cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Viện nghiên cứu
Thương mại, Bộ Công thương . Dự án đã hệ thống các quan niệm và cách phân
loại khác nhau về dịch vụ môi trường trên thế giới; nghiên cứu kinh nghiệm
phát triển dịch vụ môi trường và thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch
vụ môi trường của một số nước trên thế giới (Liên minh châu Âu, Trung Quốc,
9
Thái Lan) và rút ra bài học đối với Việt Nam; khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt
động dịch vụ môi trường của Việt Nam và mức độ đáp ứng yêu cầu thực hiện
các cam kết quốc tế và đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động dịch vụ môi
trường.
Công trình nghiên cứu: Ngành hàng hóa và dịch vụ môi trường toàn cầu.
Công trình đề cập thực trạng, giải pháp phát triển ngành hành hóa và dịch vụ
môi trường trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Cuốn sách: Chính sách quản lý tài nguyên và môi trường. Trong cuốn sách
này, tác giả đã đề cập nhiều nội dung liên quan đến đề tài luận án, như: Sự cần
thiết của công cụ chính sách trong quản lý tài nguyên và môi trường; một số
hình thức dịch vụ bảo vệ hệ sinh thái môi trường; nghiên cứu quy định về tiêu
chuẩn môi trường, giảm ô nhiễm; cấp phép phát thải ô nhiễm; thuế, lệ phí, quỹ
và trợ cấp cho môi trường; hiệp ước quốc tế về môi trường; chính sách quốc
gia và hoạch định chính sách quốc gia về môi trường v.v..
Đề án: “Dự án xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường đến năm
2030”, của Bộ Tài nguyên và Môi trường . Đề án đã xác định quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển các hoạt động dịch vụ môi trường.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn đã phân
tích quan niệm, phân ngành và vai trò dịch vụ môi trường.
Về quan niệm dịch vụ môi trường: Qua các công trình nghiên cứu cho thấy
hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất. Các khái niệm về dịch
vụ môi trường được hình thành từ thực tiễn hoạt động kinh doanh cũng như bảo
vệ môi trường của các tổ chức và mỗi quốc gia. Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) định nghĩa về dịch vụ môi trường như sau: “Dịch vụ môi trường là
những dịch vụ được cung cấp nhằm quản lý, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu
hoặc khắc phục những thiệt hại về môi trường nước, không khí, đất, cũng như
giải quyết những vấn đề liên quan đến chất thải, tiếng ồn và hệ sinh thái”.
Về phân ngành dịch vụ môi trường: Qua các công trình nghiên cứu cho thấy,
10
do còn tồn tại những quan niệm khác nhau về dịch vụ môi trường nên hiện nay trên
thế giới cũng tồn tại những cách phân ngành khác nhau về dịch vụ môi trường,
trong đó nổi lên là cách phân ngành của WTO (GATS), OECD và EU.
Phân ngành của WTO (GATS): phân loại dịch vụ môi trường bao gồm 4
phân ngành
Mặc dù liên quan đến đề tài của luận văn đã có nhiều công trình nghiên
cứu; nhiều kết quả nghiên cứu của các công trình này sẽ được kế thừa trong
thực hiện đề tài luận văn, song đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn
diện, hệ thống về giải pháp thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường
tại Việt Nam.
6.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu của luận văn được bố cục làm 3
chương.
Chương 1. Tổng quan về vốn đâu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ
môi trường tại Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi trường tại
Việt Nam từ năm 2012 đến năm 2016.
Chương 3. Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường tại Việt Nam giai đoạn tới (tính đến năm 2020).
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ FDI
VÀO CÁC DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG
1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư FDI vào các
dịch vụ môi trường.
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a)Đầu tư
Đầu tư là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm
biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong tương lai. Tuy nhiên, trong phạm
vi xem xét khác nhau, khái niệm về đầu tư cũng có những điểm khác nhau.
Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ
vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành
các hoạt động đầu tư theo quy định của luật đầu tư và các quy định khác của
pháp luật có liên quan”. Theo khái niệm này, đã là đầu tư thì phải bỏ vốn, chính
là các tài sản hữu hình và vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư được pháp
luật cho phép, như vậy tất cả các nhà đầu tư đều được tham gia đầu tư vào tất
các lĩnh vực trong nền kinh tế mà không vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, quan niệm này lại chưa phản ánh được mục tiêu của các nhà đầu tư là
phải sinh lợi.
Cũng có quan điểm cho rằng đầu tư là “việc sử dụng các nguồn lực hiện
tại nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong tương lai", với quan
niệm này đã nhấn mạnh đến mục đích của đầu tư là thu được lợi ích trong tương
lai nhưng lại chưa phản ánh chủ thể mong muốn thu được lợi ích trong tương lai.
Xét trên góc độ kinh tế, đầu tư là hy sinh tiêu dùng hiện tại để hy vọng có được
thu nhập cao hơn trong tương lai. Đối với từng chủ thể trong nền kinh tế, đó là
tạo ra hoặc tăng thêm lợi ích, những giá trị riêng biệt cho các chủ thể. Đối với
toàn bộ nền kinh tế, chính là tạo ra hoặc gia tăng giá trị tổng thể cho toàn xã hội.
12
Đầu tư là phải ứng ra một lượng vốn nhất định và được sử dụng trong tương lai,
do đó đầu tư luôn gắn với rủi ro.
Với phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả xin đưa ra quan điểm về đầu
tư như như sau: Đầu tư là quá trình ứng ra một lượng vốn nhất định (bằng tiền
mặt, tài sản) ở hiện tại với mục đích là làm tăng thêm giá trị trong tương lai cho
chủ thể bỏ vốn.
b).Vốn đầu tư
Vốn đầu tư là giá trị bằng tiền của các nguồn lực được huy động và sử
dụng vào thực hiện đầu tư qua đó hình thành vốn sản xuất của nền kinh tế. Hay
nói cách khác vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu
tư.
c).Dịch vụ môi trường
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản
xuất kinh doanh, sinh hoạt của con người ngày càng sử dụng nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên và thải ra môi trường các chất thải với khối lượng ngày càng
lớn đã làm gia tăng nhu cầu xử lý ô nhiễm môi trường, nên dịch vụ môi trường đã
trở thành một phân ngành trong khu vực kinh tế dịch vụ ở nhiều nhiều quốc gia.
Đồng thời, thuật ngữ "dịch vụ môi trường" (environmental service) cũng đã xuất
hiện trong hệ thống phân ngành kinh tế của nhiều tổ chức quốc tế, như Liên
Hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) v.v..
Mặc dù dịch vụ môi trường đã trở thành một ngành kinh tế ở nhiều quốc
gia và trong thương mại dịch vụ quốc tế, song hiện nay trên thế giới chưa có một
định nghĩa thống nhất về dịch vụ môi trường. Các khái niệm về dịch vụ môi
trường được hình thành từ thực tiễn hoạt động dịch vụ môi trường của các tổ
chức và mỗi quốc gia.
Trong phần nghiên cứu tổng quan của luận văn đã đề cập một số quan
niệm về dịch vụ môi trường trên thế giới. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
13
(OECD) định nghĩa về dịch vụ môi trường như sau: Dịch vụ môi trường là những
dịch vụ được cung cấp nhằm quản lý, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu hoặc
khắc phục những thiệt hại về môi trường nước, không khí, đất, cũng như giải
quyết những vấn đề liên quan đến chất thải, tiếng ồn và hệ sinh thái. [9, tr.32.]
Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) quan
niệm dịch vụ môi trường bao hàm 4 nhóm chính: Dịch vụ hạ tầng môi trường
(cốt lõi), gồm quản lý nước và quản lý chất thải; các dịch vụ như thiết kế, xây
dựng, lắp đặt, vận hành; Phục hồi gồm làm sạch địa điểm, phản ứng khẩn cấp
đối với các sự cố, phục hồi, đánh giá; dịch vụ hỗ trợ môi trường gồm phân tích,
luật pháp, tham vấn, kiểm toán, nghiên cứu và phát triển.
Cách định nghĩa và phân loại DVMT theo Hiệp định chung về thương
mại và dịch vụ ( GATS).
DVMT trong WTO và đàm phán gia nhập của Việt Nam: Nhiều khái niệm
khác nhau về DVMT, tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm tự do hóa thương mại thì
khái niệm của WTO được coi là đơn giản hơn cả, theo đó, DVMT gồm các loại
hình dịch vụ có thể mang lại lợi ích môi trường. Một điều đặc biệt là do chưa có
một định nghĩa thống nhất về DVMT nên khi đàm phán WTO không bắt buộc
tuân theo một danh mục nào. Các nước có thể tự do sử dụng hoặc xây dựng cho
mình một danh mục riêng để phục vụ cho mục đích đàm phán và cam kết thương
mại. Quá trình đàm phán vẫn đang tiếp diễn kể từ sau Hội nghị Bộ trưởng WTO
tại Doha năm 2001. DVMT, hiện nay được phân loại theo 2 quan điểm:
Phân loại của WTO (GATS): Dựa trên quan điểm tự do hóa thương mại, các
DVMT trong GATS, bao gồm 4 phân ngành:
Các dịch vụ về nước thải (CPC 9401);
Các dịch vụ về rác thải (CPC 9402) hay còn được gọi là dịch vụ chất thải
rắn.
Dịch vụ vệ sinh và các dịch vụ tương tự (CPC 9403).
14
Các DVMT khác (CPC 9404), gồm: làm sạch không khí bị ô nhiễm, hạn
chế tiếng ồn, bảo vệ thiên nhiên và cảnh quan môi trường.
Cách phân loại này hạn chế, tập trung nhiều hơn vào những dịch vụ liên
quan tới việc xử lý các hậu quả về môi trường (cách tiếp cận cuối đường ống);
chỉ bao gồm các loại hình dịch vụ được cung cấp trong quá trình hoạt động của
các trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng và cũng chỉ quan tâm dịch vụ cung cấp
cho cộng đồng. Cách phân loại của OECD và EU: Dựa trên quan điểm lợi ích môi
trường, đàm phán về DVMT sẽ dựa trên danh mục mới gồm 7 phân ngành: nước
sinh hoạt và quản lý nước thải; quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; bảo
vệ khí quyển và khí hậu; khôi phục và làm sạch đất, nước; giảm độ rung và
tiếng ồn; bảo vệ đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường; các dịch vụ hỗ trợ
và DVMT khác.
Với cách phân loại này, trước hết, DVMT được đặt trong ngành công
nghiệp môi trường có tính linh hoạt và gắn kết cao (các hoạt động liên quan tới
quản lý ô nhiễm, xây dựng và lắp đặt trang thiết bị nhằm phục vụ cho mục đích
trên bao gồm cả việc vận hành các công nghệ và sản phẩm sạch hơn); Hai là, các
công nghệ và sản phẩm nhằm làm giảm rủi ro và giảm thiểu sự ô nhiễm lãng phí
các nguồn lực; Ba là, DVMT được xác định là những dịch vụ được cung cấp để
xác định, ngăn chặn, hạn chế, giảm thiểu hoặc khắc phục những thiệt hại môi
trường xảy ra đối với đất, nước, không khí, cũng như những vấn đề liên quan tới
chất thải, tiếng ồn và hệ sinh thái...
BVMT và phát triển bền vững đã trở thành quan điểm của Đảng, đường lối
chính sách của Nhà nước và được khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
BVMT” (Nghị quyết ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX). Phát triển kinh tế, xã hội
gắn chặt với bảo vệ, cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường
nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học, với nguyên tắc
“kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội” (Chương trình nghị sự 21),
15
thể hiện rõ môi trường là một trong 3 trụ cột chính (Kinh tế Xã hội Môi
trường) của phát triển bền vững và có mối quan hệ hữu cơ.
Cam kết của Việt Nam liên quan đến tài nguyên và môi trường trong WTO:
Theo các nguyên tắc của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), cam
kết liên quan đến tài nguyên và môi trường của Việt Nam, bao gồm: Một cam
kết đa phương “tất cả các văn bản, nếu được chỉnh sửa hoặc bổ sung, phải tuân
theo các quy định của WTO”, hành động thực hiện của ta là“Phát triển kinh tế thị
trường thị trường đất đai và bất động sản” (một trong 10 chủ trương, chính
sách lớn của Chương trình hành động của Chính phủ); và cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ, gồm 11 ngành, trong đó, DVMT gồm 5 nhóm (xử lý rác thải, xử
lý nước thải, làm sạch khí thải, xử lý tiếng ồn và đánh giá tác động môi trường),
cụ thể:
Phạm vi mở cửa thị trường, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung
cấp các dịch vụ: xử lý nước thải CPC 9401 (thu gom, xử lý, tẩy rửa cống rãnh,
các ống nước thải, bể phốt...); xử lý rác thải CPC 9402 (thu gom và xử lý chất
thải, dịch vụ chuyên chở và xử lý chất thải...); Làm sạch khí thải CPC 94040
(quan trắc, kiểm soát việc thải các chất bẩn và giảm thiểu các chất gây ô nhiễm
không khí); xử lý tiếng ồn CPC 94050 (quan trắc, kiểm tra và làm giảm tiếng
ồn); đánh giá tác động của môi trường CPC 94090 (các hoạt động thu thập dữ
liệu, phân tích, dự báo các tác động môi trường của một dự án cụ thể). Ta cho
phép bên nước ngoài thành lập liên doanh với các đối tác Việt Nam được cấp
phép trong các lĩnh vực dịch vụ nước thải, xử lý rác thải, xử lý tiếng ồn, làm
sạch khí thải và đánh giá tác động của môi trường… kể từ khi gia nhập với phần
vốn góp tối đa là 49% hoặc 50%, và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và chỉ
được phép thành lập trong khoảng 4, 5 năm sau khi gia nhập.
Mặc dù trên thế giới chưa thống nhất trong quan niệm về dịch vụ môi
trường, song có thể thấy những điểm chung của các quan niệm là: Dịch vụ môi
trường thuộc khu vực kinh tế dịch vụ, nên có đầy đủ đặc điểm của ngành kinh tế
16
dịch vụ; ngoài ra, dịch vụ môi trường có những đặc điểm riêng, gắn liền với
việc bảo vệ, tái tạo, bảo đảm môi trường cho phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Sự cần thiết khi thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ môi
trường
Hiện nay dịch vụ môi trường ngày càng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh
vực kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường hướng tới xu thế chung là phát
triển bền vững của các quốc gia. Dịch vụ môi trường góp phần ngăn ngừa và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo ra môi trường xanh, sạch cho xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng thì việc mở
cửa thị trường ngành dịch vụ môi trường (DMVT) trở thành một trong những nội
dung quan trọng trong các đàm phán thương mại song phương và đa phương,
cũng như các khuôn khổ hợp tác quốc tế. Đây được xem là một ngành kinh tế
mới không chỉ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, mà quan trọng
hơn là đóng góp vào cung cấp hàng hóa và dịch vụ giải quyết các vấn đề ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu và suy giảm tài nguyên. Trong khi các doanh nghiệp
đang gặp phải những thách thức trong việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường
trong xuất khẩu sang các thị trường của các nước phát triển thì việc mở cửa thị
trường DVMT sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu này
với chi phí thấp hơn.
Đối với Việt Nam, dịch vụ môi trường đang ngày càng trở thành một nhu
cầu hết sức bức thiết. Bởi lẽ, nước ta đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm
môi trường do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đồng thời, thu nhập của
người dân ngày càng được nâng cao, do đó, nhu cầu về chất lượng cuộc sống
thân thiện với môi trường cũng ngày càng cao. Mặt khác, nhu cầu bảo đảm dịch
vụ môi trường cho các doanh nghiệp cũng ngày càng tăng do yêu cầu về hàng hoá
và dịch vụ thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải cam kết
thực hiện ngày càng nhiều hơn các hiệp định quốc tế về môi trường, đặc biệt là
17
các cam kết về dịch vụ môi trường sau khi nước ta chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngoài ra, với quá trình tự do hoá
thương mại và sự phát triển nhanh của các hoạt động công nghiệp, mức chi ngân
sách cho các dịch vụ công về bảo vệ môi trường ngày càng tăng, tạo ra gánh
nặng lớn cho ngân sách nhà nước. Do đó, cần phải đẩy mạnh các hoạt động dịch
vụ môi trường. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 249/QĐTTg, ngày 10/2/2011 về việc phê duyệt "Đề án phát
triển dịch vụ môi trường đến năm 2020", với mục tiêu phát triển dịch vụ môi
trường nhằm cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường cho các ngành, lĩnh vực, địa
phương; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế, tạo thêm
việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ môi trường, huy động tối đa sự tham
gia của xã hội vào công tác bảo vệ môi trường, Nghị quyết 41NQ/TW, ngày
15/11/2004 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đề ra
chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích cá nhân, tổ chức và mọi thành
phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý
chất thải và các dịch vụ khác về bảo vệ môi trường. Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng xác định một trong những nội dung trọng tâm trong Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2011 2020 là: "Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường,
phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải" . Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7, khóa XI, về "Chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường" (số 24
NQ/TW) cũng xác định: "Phát triển ngành kinh tế môi trường trên cơ sở ngành
công nghiệp môi trường, dịch vụ bảo vệ môi trường và tái chế chất thải".
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào
các dịch vụ môi trường
a).Sự ổn định của môi trường chính trị
18
Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội
là điều kiện hết sức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ rất hạn chế khi tham gia đầu tư vào những nước có môi
trường kinh tế vĩ mô kém ổn định vì khi đầu tư vào những nơi này sẽ tạo ra
những rủi ro kinh doanh mà các nhà đầu tư không thể lường trước được.
Khi có sự bất ổn về môi trường kinh tế vĩ mô, rủi ro tăng cao thì các dòng
vốn FDI trên thế giới sẽ chững lại và vốn đầu tư sẽ di chuyển đến những nơi an
toàn và có mức sinh lời cao hơn, ngay cả khi đã đầu tư rồi mà có sự bất ổn nhất
là bất ổn về chính trị thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tìm mọi cách để rút lui
vốn.
Vì vậy, môi trường kinh tế vĩ mô có tác động trực tiếp tạo điều kiện hoặc
cản trở việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và muốn thu hút được
vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài thì các nước phải ổn định được môi trường
kinh tế vĩ mô trước.
b).Hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế liên quan đến dịch vụ môi
trường
Hệ thống pháp luật của nước sở tại bao gồm các luật liên quan đến hoạt
động đầu tư như Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường…
và các văn bản hướng dẫn luật, các quy định về hoạt động đầu tư đối với người
nước ngoài, các văn bản về quản lý Nhà nước trong hoạt động đầu tư…Đây
chính là hành lang pháp lý đảm bảo sự an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ
thống pháp luật được xây dựng theo hướng thông thoáng, đầy đủ chặt chẽ là cơ
sở tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Hoạt động FDI liên quan đến nhiều chủ thể
tham gia và có yếu tố nước ngoài vì vậy các văn bản ngoài yếu tố đồng bộ, chặt
chẽ, tránh chồng chéo gây khó hiểu, còn phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Các
nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một nước nào đó thì họ sẽ quan tâm đến
cá nhân họ khi đầu tư được bảo vệ như thế nào, tài sản của họ có được đảm
bảo không, các quy định chuyển phần lợi nhuận về nước họ ra làm sao…đây
19
cũng chính là nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài. Mặt khác, hệ thống pháp luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài mà còn có chức năng ngăn cản những tác động tiêu cực
mà các nhà đầu tư cố tình vi phạm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, an ninh
quốc gia và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư. đồng thời với
việc xây dựng hệ thống pháp luật, phải xây hệ thống chính sách kinh tế liên quan
đến đầu tư nước ngoài thực sự mềm dẻo, hấp dẫn cũng là điều kiện quan trọng
để thu hút vốn FDI như:
Chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây cũng là một
trong những chính sách mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi xem xét
quyết định đầu tư vào một địa điểm nào đó, một chính sách khuyến khích phù
hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, ngược lại một chính sách khuyến
khích đầu tư bất hợp lý sẽ tạo rào cản lớn, tạo ra một môi trường đầu tư không
thuận lợi đối với các chủ đầu tư.
Chính sách quản lý ngoại tệ: Chính sách này tác động trực tiếp đến tâm lý
của nhà đầu tư nước ngoài, một quốc gia quản lý ngoại hối theo nguyên tắc thả
nổi theo thị trường sẽ dẫn đến sự thay đổi liên tục trong tỷ giá hối đoái theo nhu
cầu thị trường, do đó các nhà đầu tư có tâm lý rụt rè, lo sợ trong đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại quốc gia đó. Một quốc gia quản lý theo nguyên tắc thả nổi có
điều tiết hoặc cố định sẽ tạo tâm lý yên tâm hơn cho các nhà đầu tư.
Chính sách thương mại: Chính sách này liên quan đến hoạt động xuất nhập
khẩu của các dự án FDI, hạn ngạch xuất nhập khẩu thấp và các rào cản thương
mại khác sẽ gây khó khăn cho các dự án đó bởi vì các dự án FDI khi đi vào hoạt
động đều liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu: nhập khẩu máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu, sản phẩm…chính sách thương mại bất hợp lý sẽ là rào cản đối
với hoạt động của FDI.
Các chính sách ưu đãi về tài chính: Muốn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào quốc gia, vào địa phương, vào ngành, lĩnh vực ưu tiên thì phải dành cho nhà
20
đầu tư nước ngoài những ưu đãi, hỗ trợ nhất định về tài chính nhằm tạo điều
kiện tốt nhất để các nhà đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận.
Chính sách ưu đãi về thuế: Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, các quốc
gia phải có chính sách miễn giảm thuế nhất định, thông thường trong những năm
đầu triển khai dự án các nhà đầu tư được giảm thuế, thậm chí miễn thuế và
tăng dần ở những năm sau nó khi các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận. Để
đảm bảo lợi ích cho cả nước nhận đầu tư và cả nhà đầu tư nước ngoài, mức
thuế được ưu đãi phụ thuộc vào chính sách ưu tiên về ngành, lĩnh vực, vùng kinh
tế mà quốc gia khuyến khích đầu tư như ưu đãi về thuế đối với những dự án sử
dụng công nghệ hiện đại, thời gian đầu tư dài, quy mô lớn, hướng về xuất khẩu,
sử dụng nhiều lao động, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, sử dụng lợi
nhuận để tái đầu tư. Hệ thống thuế sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn
giản, dễ áp dụng và mức thuế phù hợp (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so
với mức thuế ở các nước trong khu vực…) các thủ tục thuế, cũng như các thủ
tục quản lý FDI khác phải được tinh giảm hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu
trung gian, công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế.
c).Sự phát triển cơ sở hạ tầng về dịch vụ môi trường tại địa phương
Sự phát triển cơ sở hạ tầng là một điều kiện vật chất hàng đầu để các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vốn FDI. Cơ sở hạ tầng bao gồm mạng lưới giao
thông, mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp năng lượng, cấp thoát
nước, các công trình công cộng phục vụ sản xuất kinh doanh như cảng biển, sân
bay,…cơ sở hạ tầng tốt là một trong các yếu tố quan trọng giúp các nhà đầu tư
nước ngoài giảm các chi phí gián tiếp trong sản xuất kinh doanh và có thể triển
khai các hoạt động đầu tư. Thực tế thu hút tại các địa phương trong cả nước cho
thấy các dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có hạ tầng phát triển, đủ khả năng phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Mạng lưới giao thông
cũng đóng góp một phần quan trọng vào thu hút vốn FDI, là cơ sở để vận chuyển
vật liệu, đi tiêu thụ sản phẩm và quan trọng nhất là các đầu mối giao thông tiếp
21
giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không… Các tuyến đường giao thông
trọng yếu cũng làm cầu nối sự giao lưu phát triển kinh tế giữa các địa phương
của một quốc gia. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện và hiện đại sẽ giúp
các nhà đầu tư giảm được chi phí vận chuyển không cần thiết.
Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng trong bối cảnh bùng nổ
thông tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động trên thị trường ở
mọi nơi được truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong thông tin liên lạc
sẽ đánh mất cơ hội kinh doanh. Môi trường đầu tư hấp dẫn dưới con mắt của
nhà đầu tư đó phải có hệ thống thông tin liên lạc rộng lớn và cước phí rẻ. Ngoài
ra, hệ thống các ngành dịch vụ như: tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, tư
vấn hay cung cấp năng lượng và nước sạch… đảm bảo cho việc sản xuất quy
mô lớn và liên tục, các dịch vụ này nếu không đáp ứng được nhu cầu sản xuất thì
sẽ gây rất nhiều trở ngại cho nhà đầu tư.
d).Đặc điểm thị trường của nước nhận vốn
Địa phương muốn phát triển kinh tế cần có nhiều yếu tố và điều kiện khác
nhau, ngoài các yếu tố về cơ sở hạ tầng được xây dựng cần có thêm các điều
kiện khác như: vị trí địa lý thuận lợi, địa chất nơi đó ổn định, quy mô thị trường
rộng lớn, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên phong
phú…
Với vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo ra khả năng phát triển du lịch, xuất khẩu,
vận chuyển khẩu hàng hóa qua các vùng, các khu vực trên thế giới. Những địa
phương biết phát huy lợi thế vị trí địa lý của từng vùng kinh tế của đất nước sẽ
có cơ hội thu hút được nhiều vốn FDI. Những địa phương biết phát huy lợi thế
vị trí địa lý bằng việc hiện đại hóa hệ thống cảng biển, miễn lệ phí cảng biển,
cảng hàng không làm giảm và tạo các tiện ích cho các nhà đầu tư sẽ tạo ra sức
hấp dẫn tối đa vốn FDI.
Với tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cho phép phát triển kinh tế
tại địa phương đó theo hướng đa ngành và tham gia tích cực vào phân công lao
22
động quốc gia và quốc tế. Địa phương có tài nguyên thiên nhiên phong phú, gần
nguồn nguyên liệu sẽ làm cho chi phí sản xuất trở nên rẻ hơn, thu hút được
nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn.
Nguồn lực dồi dào, giá nhân công rẻ là lợi thế so sánh của địa phương trong
hoạt động thu hút vốn FDI. Xu hướng đầu tư ngày nay của các nhà đầu tư nước
ngoài trong việc lựa chọn địa điểm đang chuyển từ việc xem xét gần thị trường
tiêu thụ sang ưu tiên tiêu chí trình độ, giá cả sức lao động của công nhân, trình độ
ngoại ngữ của dân bản địa bởi vì công nghệ thông tin phát triển sẽ giúp cho các
nhà sản xuất dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các thị trường ở xa.
Một trong những yếu tố xã hội quan trọng của thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào địa phương là chất lượng nguồn nhân lực và giá cả sức lao động.
Đây là một trong những yếu tố rất cần thiết để các nhà đầu tư lập kế hoạch
kinh doanh. Một nhà đầu tư muốn mở một nhà máy thì trên phương diện nguồn
nhân lực nhà đầu tư sẽ chọn khu vực có thể đáp ứng được cả về số lượng và
chất lượng của lao động, ngoài ra giá cả sức lao động là một trong những chỉ tiêu
đánh giá của các nhà đầu tư. Chất lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối
với các nhà đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao hay có sử dụng
nhiều công nghệ hiện đại. Ngoài ra, yếu tố văn hoá cũng ảnh hưởng tới yếu tố
lao động như sự cần cù, tính kỷ luật, ý thức trong lao động…
Vì vậy, yếu tố lao động là một trong những điều kiện tác động tới các nhà
đầu tư nước ngoài khi tiến hành kinh doanh. Tuy nhiên, để có lực lượng lao động
tốt thì lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục, đào tạo, chất lượng đào tạo nghề…
e).Hướng dịch chuyển của các dòng vốn FDI quốc tế về dịch vụ môi
trường
Đây là nhân tố bên ngoài có ý nghĩa quyết định đến khả năng thu hút vốn
FDI của quốc gia nói chung và địa phương nói riêng. Mức độ tăng, giảm của việc
thu hút vốn FDI chịu sự chi phối của xu hướng vận động của các dòng vốn FDI
trên thế giới. Nếu quốc gia nằm trong khu vực mà dòng vốn FDI đang hướng tới
23
thì khả năng tiếp nhận vốn FDI của quốc gia hay địa phương đó là thuận lợi và
ngược lại khi các quốc gia nằm ngoài vùng dịch chuyển của dòng vốn FDI thì sẽ
rất khó cho các quốc gia thu hút được nguồn vốn này.
Đón bắt được xu hướng chuyển dịch vốn FDI trên thế giới là một yếu tố
quan trọng để chính quyền Trung ương và địa phương đưa ra các chính sách phù
hợp để tiếp nhận dòng vốn FDI chuyển về. Nằm trong vùng kinh tế phát triển
năng động của thế giới, trong những năm gần đây khu vực Đông Nam Á đã trở
thành khu vực hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này là do so với các
nước phát triển thì khu vực này có mức độ cạnh tranh thấp hơn, hơn nữa giá
nhân công của khu vực này tương đối rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải
thiện. Là một quốc gia nằm trong khu vực hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài,
nước ta có cơ hội đón dòng chảy FDI đổ về nếu biết tận dụng lợi thế so sánh
của mình và cải thiện tốt hơn nữa về môi trường đầu tư. Khi vốn FDI vào quốc
gia thì việc thu hút vốn FDI vào vùng kinh tế nào đó của đất nước sẽ dễ dàng
hơn bằng các chính sách thích hợp riêng cho từng vùng.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào các dịch vụ
môi trường
Hoạt động thu hút và sử dụng FDI có thể được đánh giá trên nhiều góc độ
khác nhau. Trong phạm vi luận văn, việc đánh giá hoạt động thu hút và sử dụng
FDI trên các phương diện sau đây: (1) kết quả thu hút và thực hiện vốn FDI thể
hiện thông qua quy mô và cơ cấu dòng vốn; (2) hiệu quả kinh tế của khu vực
FDI đối với phát triển kinh tế xã hội; (3) chất lượng FDI thể hiện qua tác động
xã hội, môi trường và tác động lan tỏa của khu vực FDI; (4) chỉ số ngưỡng quy
mô FDI.
a).Hệ thống chỉ tiêu về kết quả thu hút và thực hiện FDI
Hệ thống chỉ tiêu này cho phép đánh giá trực tiếp kết quả thu hút và thực
hiện FDI tại nước chủ nhà. Đây là nhóm chỉ tiêu truyền thống với các tiêu chí
đánh giá bao gồm:
24
(1) Quy mô vốn đăng ký: là tổng số vốn góp bằng tiền hoặc tài sản hợp
pháp, lợi nhuận để lại và các hình thức vốn khác do nhà đầu tư nước ngoài cam
kết đưa vào nước chủ nhà để tiến hành các hoạt động đầu tư trực tiếp3 (World
Bank, 2016). Vốn đăng ký bao gồm vốn cam kết của nhà đầu tư nước ngoài theo
giấy phép cấp mới (đối với các dự án thực hiện lần đầu hoặc dự án độc lập với
các dự án đang hoạt động mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong kỳ); và
cấp bổ sung (đối với các dự án đầu tư nhằm mở rộng quy mô, nâng cao công
suất, năng lực sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm ô nhiễm môi trường của dự án đầu tư hiện có đã được cấp giấy
chứng nhận đầu tư trong các năm trước).
Quy mô vốn đăng ký cho thấy sức hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng
như mức độ tin cậy của nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư trong
nước.
(2) Quy mô vốn thực hiện: là số vốn đầu tư thực tế do các nhà đầu tư
nước ngoài đã chi ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước sở tại, bao gồm
chi phí xây dựng các công trình, nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị… Quy mô
vốn thực hiện thể hiện hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư, cơ chế quản lý
nhà nước, cũng như hiệu lực thực thi của các văn bản pháp luật. Về mặt lý
thuyết, vốn FDI thực hiện thường nhỏ hơn vốn FDI đăng ký của dự án. Quy mô
vốn FDI đăng ký và thực hiện càng lớn càng thể hiện quốc gia đó thành công
trong công cuộc thu hút vốn FDI. Theo UNCTAD (2016), FDI ngày càng được
quan tâm thu hút hơn ở các nước đang phát triển. Năm 2015, FDI toàn cầu chảy
vào các nước đang phát triển (không tính các trung tâm tài chính Caribe) đã tăng
9%, đạt kỷ lục mới 765 tỷ USD. Bên cạnh đó, khi xem xét khoảng cách giữa quy
mô vốn đăng ký và vốn thực hiện có thể đánh giá được mức độ thực hiện của
hoạt động đầu tư trong năm đó. Khoảng cách giữa được thể hiện thông qua tỷ
lệ giải ngân. Đây là tỷ lệ phần trăm của vốn FDI thực hiện trên tổng vốn FDI
đăng ký theo thời gian, được tính bằng công thức:
25
Quy mô vốn thực hiện
Tỷ lệ giải ngân =
×100
Quy mô vốn đăng ký
Tỷ lệ giải ngân lớn thể hiện sự thống nhất giữa cam kết và thực hiện của
hoạt động đầu tư. Ngược lại, tỷ lệ nhỏ hàm ý những vấn đề nảy sinh trong quá
trình giải ngân vốn như thủ tục hành chính, sự lưỡng lự của nhà đầu tư khi bắt
tay vào hoạt động đầu tư, hay điều kiện toàn cầu và khu vực có biến động…
(3) Cơ cấu FDI: là chỉ tiêu thể hiện sự cân bằng hay mất cân bằng trong
xu thế phát triển của dòng vốn FDI. Cơ cấu FDI có thể được phân theo các tiêu
chí khác nhau: hình thức đầu tư, ngành kinh tế, vùng kinh tế. Nhóm chỉ tiêu này
cho phép đánh giá sự thay đổi về mẫu hình (pattern) của dòng vốn tại quốc gia
tiếp nhận vốn. Nhìn chung trên thế giới, xét theo hình thức đầu tư, FDI thông qua
các thương vụ M&A xuyên quốc gia chiếm ưu thế và có xu hướng tăng lên, trong
khi các dự án đầu tư mới giảm xuống. Xét theo ngành, dòng vốn FDI toàn cầu có
xu hướng chảy nhiều nhất vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm đến 64% tổng FDI toàn
cầu (năm 2015), gấp hơn 2 lần lĩnh vực công nghệ.
b. Hệ thống chỉ tiêu về chất lượng FDI
Nhóm chỉ tiêu này bao hàm các tác động trực tiếp của FDI đối với xã hội và
môi trường, cũng như tác động gián tiếp (tác động lan tỏa) của khu vực này đối
với hoạt động đầu tư trong nước. Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: (1) Khả năng
tạo việc làm: được thể hiện thông qua số lượng việc làm mà khu vực FDI tạo ra
trong tương quan với các khu vực kinh tế khác, thông thường được xác định bằng
tỷ lệ phần trăm trong tổng lao động có việc làm trong các ngành kinh tế.
Tỷ lệ lao động tạo ra của khu vực FDI cao cho biết dòng vốn FDI có chất
lượng tốt trong việc tạo công ăn việc làm tại nước sở tại, và ngược lại. (2) Tác
động của khu vực FDI đến môi trường: Đây là một chỉ tiêu rất khó để chuẩn hóa.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả sử dụng một số tiêu chí sau đây: