Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.85 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kết cấu hạ tầng là một vấn đề cấp bách của các nước đang phát triển
trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Bởi kết cấu hạ tầng
là tiền đề để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kết cấu hạ tầng luôn
phải đi trước một bước để tạo đà phát triển kinh tế xã hội, tạo sức bật cho
tăng trưởng kinh tế, tăng sức hút vốn đầu tư của nước ngoài. Nhưng thực
tế việc xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi những khoản tiền rất lớn. Do đó
dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển đều rơi vào tình trạng thiếu
vốn. Vì vậy các quốc gia đang phát triển cũng như Việt Nam đều có xu
hướng tìm các nguồn vốn khác nhau để xây dựng kết cấu hạ tầng. Các
nước ngoài việc huy động vốn trong nước, vốn từ ngân sách còn phải
tranh thủ các nguồn vốn nước ngoài: hỗ trợ phát triển chính thức(ODA),
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để xây dựng kết cấu hạ tầng. Mặc
dù nguồn vốn trong nước là quyết định nhưng nguồn vốn nước ngoài là
rất quan trọng trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng của mỗi nước. Việt
Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ sở vật chất còn
nghèo nàn, cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Thì việc thu hút nguồn vốn trong
nước hay trích từ ngân sách của nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng là
một điều hết sức khó khăn. Đứng trước nhu cầu bức thiết hiện nay là phải
phát triển kết cấu hạ tầng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế , đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp trong tương lai. Việc tăng cường
thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài – FDI là một giải pháp
quan trọng đối với nước ta.
Việc tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là con đường ngắn nhất để nhanh chóng
hiện đại hoá đất nước nhằm đáp ứng ngay được sự phát triển kinh tế,
đồng thời tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên
việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việc
1
xây dựng kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập. Vì vậy để đạt được những kết
quả mong muốn chúng ta cần có những chính sách hợp lý và những giải


pháp phù hợp nhằm thu hút nhiều hơn nữa và sử dụng có hiệu quả hơn
nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực xây dựng kết cấu
hạ tầng để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động
hội nhập vào kinh tế khu vực cũng như trên thế giới. Bởi thế em đã chọn
đề tài: “Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ
tầng ở Việt Nam”, Để nghiên cứu nhưng do thời gian và trình độ có hạn
nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Kính mong
được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện
hơn.Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu em đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt và TS Tống Quốc Đạt. Em xin
chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI
VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ FDI VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ TẦNG Ở VIỆT
NAM
1. Khái niệm và đặc điểm đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
1.1. Khái niệm
Theo từ chuẩn Anh – Mỹ thuật ngữ:”Kết cấu hạ tầng ”(Infeatructure)
thể hiện trên 4 bình diện:1) tiện ích công cộng(Public utilities), năng lượng,
viễn thông, nước sạch cung cấp qua hệ thống ống khí, khí đốt truyền tải qua
ống, hệ thống thu gom và xử lý các chất thải trong thành phố ... 2)Công
chánh(public works): đường sá, các công trình xây dựng đập, kênh phục vụ
tưới tiêu... 3)Giao thông (transport): các trục và tuyến đường bộ, đường sắt,
cảng cho tàu và máy bay, đường thuỷ... Ba bình diện trên tạo thành kết cấu
hạ tầng kỹ thuật vì chúng bao gồm hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho
sự phát triển của các ngành các lĩnh vực kinh tế.4) Hạ tầng xã hội (Social
infeastruture): bao gồm các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ cho giáo
dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công nghệ, các cơ
sở y tế, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm xã hội và các công trình phục vụ cho hoạt

động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao.
Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất –kỹ thuật công trình các
phương tiện hiện có tồn tại trên một lãnh thổ nhất định được dùng làm điều
kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo đảm sự vận hành liên
tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, cácluồng thông tin và dịch vụ
nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống. Với sự
cố kết chặt chẽ về mặt đặc điểm không gian, sự kết nối với tất cả các cơ
quan, tổ chức xĩ nghiệp và các hộ gia đình. Kết cấu hạ tầng là một nhân tố
phân bố không gian tác động thường xuyên và lâu đời đối với các ngành,
các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Kết cấu hạ tầng mang tính
3
xã hội, phụ thuộc vào trình độ xã hội nền sản xuất và tổ chức đời sống gắn
liền với từng giai đoạn nhất định trong trình độ phát triển của loài người.
1.2. Đặc điểm của đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
- Được tổ chức hợp thành tổng thể trong một không gian để tạo nên
điều kiện chung cho mọi hoạt động của cả cộng đồng dân cư trên
lãnh thổ. Đặc điểm này đòi hỏi việc triển khai xây dựng kết cấu hạ
tầng phải được bố trí hợp lý và đồng bộ, tránh sự chồng chéo, khắc
phục sự manh mún lệch pha giữa các bộ phận.
- Các công trình kết cấu hạ tầng được sử dụng liên tục trong mọi thời
gian, phải đáp ứng được cả thời kỳ cao điểm hàng ngày và suốt cả
năm.Vì vậy việc đầu tư phải được nghiên cứu kỹ tất cả các vấn đề
xung quanh để công trình thoải mãn được nhu cầu của mọi người.
Và có ý nghĩa cao thiết thực trong cuộc sống hàng ngày của xã hội
đáp ứng được nhu cầu xây dựng đất nước công nghiệp hoá hiện đại
hoá của đất nước.
- Các công trình kết cấu hạ tầng thường xuyên tồn tại lâu dài và có giá
trị lớn, điều này là do yêu cầu kỹ thuật – kinh tế của nó là trải dài
trên một không gian rộng lớn và phục vụ cho mọi đối tượng đông
đảo. Vì vậy khi tiến hành thiết kế xây dựng và đảm bảo nguồn vốn

đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng đáp ứng hài hoà yêu cầu
kinh tế và kỹ thuật của nó.
- Gía trị các công trình kết cấu hạ tầng được chuyển từng phần vào
sản phẩm hay tạo nên một bộ phân của quỹ tiêu dùng thường xuyên.
Điều này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, sử dụng và tái sản xuất các
công trình kết cấu hạ tầng phải được chú ý một cách cụ thể theo tính
chất và vị trí riêng biệt.
- Kết cấu hạ tầng có giá trị rất lớn, việc xây dựng nó rất tốn kém, lại
đòi hỏi nhiều thời gian, và thường là một trong những điều kiện tiên
4
quyết cho việc hình thành môi trường đầu tư năng động và có hiệu
quả, thu hút của các nhà kinh doanh nước ngoài đến làm ăn.
- Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi một khoảng thời
gian dài. Vì vậy khi tiến hành đầu tư phải nghiên cứu rõ điều kiệnvề
môi trường xung quanh để tránh khỏi việc ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh. Ngoài ra cần bố trí vốn, nguyên vật liệu để đủ
cho cả công cuộc đầu tư. Tránh tình trạng đang trong quá trình xây
dựng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu cản trở việc xây dựng. Tính toán
đến giá cả thị trường biến đổi trong quá trình xây dựng để tránh
được việc.
- Các công trình kết cấu hạ tầng có quy mô lớn và chủ yếu ở ngoài
trời, bố trí rải rác trên phạm vi cả nước, chịu ảnh hưởng nhiều của tự
nhiên. Vì vậy khi tiến hành đầu tư phải nghiên cứu khảo sát kỹ
lưỡng. Tránh mọi sự biến đổi của tự nhiên và xem xét kỹ lưỡng vị
trí xây dựng để công trình không bị ảnh hưởng của tự nhiên.
- Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi khối lượng vốn
lớn. Vì vậy việc đòi hỏi trước khi tiến hành xây dựng phải có kế
hoạch về vốn cụ thể tránh tình trạng thiếu thốn và lãng phí về vốn.
Có biện pháp phân bổ vốn một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với
lượng vốn hiện có.

2.Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và
lĩnh vực kết cấu hạ tầng nói riêng.
2.1. Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn quan trọng bổ sung
cho nguồn vốn trong nước để xây dựng kết cấu hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài(FDI) cùng với nguồn vốn trong nước góp phần xây
dựng cơ sở hạ tầng ngày một hoàn thiện và hiện đại hơn. Nước ta là một
nước đang phát triển, kinh tế còn nhiều thấp kém và lạc hậu nguồn dự trữ và
tiết kiệm từ dân cư cũng như các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Vì vậy
5
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta. Do đặc điểm của
đầu tư kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn nên việc huy động
nguồn vốn nước ngoài trong đó có FDI vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng là
vô cùng quan trọng.Vẫn biết rằng nguồn vốn trong nước là quyết định
nhưng nguồn vốn nước ngoài nói chung và nguồn vốn FDI nói riêng là một
trong những nguồn vốn quan trọng giúp nước ta phát triển hơn nữa hệ thống
lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Trong những năm vừa qua các quốc gia đầu tư vào lĩnh vực kết cấu
hạ tầng ở nước ta chủ yếu thông qua nguồn quỹ hỗ trợ phát triển chính thức
ODA. Nhưng nguồn vốn ODA có những nhược điểm đó là: hay có tính ràng
buộc về chính trị và thường gây nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Nên nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp mới một hướng đi mới cho
Việt Nam tiếp cận với những nền khoa học mới trong việc xây dựng kết cấu
hạ tầng. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ta tiếp nhận được công
nghệ tiên tiến từ các nước giúp cho hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta
phát triển hơn và hiện đại hơn. Từ đó thúc đẩy các ngành khác phát triển bởi
kết cấu hạ tầng luôn phải đi trước một bước để tạo tiền đề cho các nước phát
triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá
FDI đã thúc đẩy hình thành hệ thống các KCN, KCX, góp phần công

nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư hôp lý.
2.2. Đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Thông qua FDI các quốc gia đã có được vốn cho đầu tư phát triển
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển y tế giáo dục... Một số lĩnh vực công
nghiệp va khai thác đòi hỏi phải có một khoản đầu tư tương đối lớn mà do
thiếu vốn đầu tư, các chính phủ đã phải kêu gọi nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Trong các hình thái của đầu tư nước ngoài, luồng vốn FDI là tương
đối ổn định so với các luồng vốn khác. Hơn nữa điểm mạnh của FDI là
không tạo ra nợ, lợi nhuận được chuyển về nước đầu tư chỉ khi dự án đã có
6
thu nhập, hay phần lợi nhuận này nhiều khi được tái đầu tư vào nước tiếp
nhận đầu tư. Tuy nhiên FDI được xem là nguồn tài trợ nước ngoài đắt hơn
các nguồn khác.
FDI góp phần nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho người lao
động. Không chỉ ở những nước đang phát triển, ngay cả ở những nước phát
triển thì vấn đề tạo công ăn việc làm cho người lao động luôn luôn là một
trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
mỗi nước. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng, một trong những điều kiện tiên quyết của việc tiếp nhận FDI là phải
tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Các dự án FDI sử dụng nhiều lao
động tại chỗ, như xây dựng, trung tâm thương mại, khách sạn, văn phòng,
các khu du lịch, vui chơi giải trí được khuyến khích và ưu đãi cao. Phần lớn
các lao động được nhận vào làm việc tại các khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài đã được đào tạo lại, nâng cao tay nghề, tiếp cận với trình độ kỹ
thuật và quản lý tiên tiến. Như vậy FDI góp phần hình thành đội ngũ lao
động có đủ năng lực quản lý và kỹ thuật để điều hành sản xuất, kinh doanh
trong một môi trường mang tính cạnh tranh cao.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, sức mạnh của mỗi quốc gia, giá trị
của mỗi dân tộc đang được đo chủ yếu bằng sức mạnh về kinh tế, khoa học
kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thì việc thu hút FDI là chìa khoá để giúp nước

ta tiếp cận được nền khoa học công nghệ và kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm
quản lý, góp phần khắc phục yếu kém về kỹ thuật, tụt hậu về khoa học công
nghệ.
FDI đã góp phần tăng năng suất lao động của nước tiếp nhân đầu tư,
tạo ra những sản phẩm mới dồi dào, thoả mãn đến mức tối đa nhu cầu của
nguời tiêu dùng. FDI có đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà
nước của quốc gia nhận đầu tư.
FDI đóng vai trò to lớn đối với quá trình cho tăng trưởng kinh tế, thay
đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghệ, cung cấp know-how, tăng xuất nhập
7
khẩu và tăng việc làm ở nước ta; có tác động lan tỏa đối với nền kinh tế và
được coi là một trong những đầu tầu của sự tăng trưởng kinh tế.
FDI góp phần chuyển giao công nghệ: Tại các nước đang phát triển nói
chung cũng như Việt Nam nói riêng công nghệ trong nước thường là công
nghệ cổ truyền, lạc hậu năng suất thấp; các công nghệ mới, hiện đại ở các
nước đang phát triển được đưa ra ngoài thông qua các kênh nhập khẩu công
nghệ, viện trợ và trao đổi khoa học, chuyển giao công nghệ.Thực tế cho thấy
rằng khẳ năng tự nhập khẩu công nghệ của các nước đang phát triển là rất
hạn chế, chính vì vậy, đối với các nước này, việc thực hiện một chính sách
đa dạng hoá các kênh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, đặc biệt là
chính sách công nghệ đối với FDI có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá
trình hội nhập. Chính vì vậy thông qua FDI công nghệ hiện đại tiên tiến dần
được chuyển sang các nước tiếp nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Do đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đầu tư nước ngoài
đã góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản
phẩm xã hội, đặc biệt nhiều ngành nghề quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước đã ra đời như: lắp ráp, sản xuất xe máy, viễn thông quốc tế. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài được Đảng và nhà nước ta thu hút theo hướng chú

trọng đầu tư vào những ngành lĩnh vực có tác động lớn cho nền kinh tế,
những ngành nghề tạo ra nhiều công ăn việc làm. Thực tế đã cho thấy đầu tư
trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch nền kinh tế
theo hương công nghiệp hóa hiện đại hoá để đến năm 2020 nước ta trở thành
một nước công nghiệp.
FDI tạo ra cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển bền vững.
Ngày nay phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của các quốc gia
trên toàn thế giới. Phát triển bền vững được hiểu là sự tăng trưởng kinh tế đi
8
liền với cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
độ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo cho Việt Nam chủ động hội nhập với
các nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Khu vực hoá và toàn cầu hoá là
những xu hướng tất yếu mà mọi nền kinh tế đều bị cuốn hút vào.Tuy thế,
tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và các nhân tố khác mà mỗi nước có
chủ trương riêng trong hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tác động đến tiến
trình đó. Với chủ trương Việt Nam muốn làm bạn với các nước không phân
biệt chế độ chính trị, Việt Nam đã tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không những làm cho nền kinh tế
nước ta có tốc độ tăng trưởng cao mà còn tạo ra cơ hội đuổi kịp trình độ
phát triển của các nước trong khu vực; làm cho vị thế chính trị của Việt
Nam trong ASEAN và từ đó ở Châu Á và trên thế giới ngày được nâng cao,
để chủ động và hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Tính tất yếu phải thu hút FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
- Kết cấu hạ tầng là một trong những điều kiện tiên quyết để nước ta
xây dựng được mục tiêu là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
trong tương lai. Vì vậy kết cấu hạ tầng luôn phải đi trước một bước để tạo
tiền đề cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển sau. Muốn đất nước phát
triển được thì hệ thống giao thông, thông tin liên lạc phải thông thoáng
nhanh nhậy. Để có được điều đó không có cách nào khác là phải đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng. Cơ sở vật chất phải phát triển mới thu hút được sự đầu
tư của các nước ngoài vào nước ta từ đó tạo điều kiện phát triển đất nước
một cách hài hoà đồng đều không có sự phân biệt và chênh lệch giữa các
vùng các miền của đất nước.
Nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường lại chịu ảnh hưởng của nhiều năm chiến tranh. Nên cơ sở vật chất
kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu. Vì vậy cần phải được chú trọng đầu tư lĩnh
vực này để thu hút sự đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực khác.
9
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi một khối lượng
vốn lớn. Mà nước ta là một nước đang phát triển việc huy động vốn ngân
sách hay nguồn vốn từ dân cư là một việc khó khăn. Vì vậy cần phải có
những chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong đó một trong
những nguồn vốn quan trong từ các nước trên thế giới là nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để xây dựng hạ tầng cơ sở.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm so vốn
quỹ hỗ trợ phát triển chính thức là: không bị ràng buộc về chính trị, lợi
nhuân thu được tính trên lợi nhuận mà công trình đạt được.Vì vậy khuyên
khích cả những người đầu tư lẫn những người tiếp nhân đầu tư đều phải tính
toán một cách kỹ lưỡng để hai bên cùng có lợi. Từ đó tránh được việc đầu tư
bừa bãi và thất thoát trong đầu tư.
Nước ta là một trong những nước có chiến tranh lâu dài nhất không
những chỉ nền kinh tế bị tàn phá nặng nề mà hệ thống cơ sở hạ tầng cũng bị
tàn phá nghiêm trọng. Để đưa đất nước phát triển đi lên theo hướng công
nghiệp hoá hiện đại hoá không còn con đường nào khác là phải phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng. Để làm được điều đó trong điều kiện hiện nay nguồn
vốn trong nước là có hạn và tích luỹ chưa nhiều thì việc thu hút đầu tư nước
ngoài trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp quan trọng.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bổ sung nguồn vốn trong nước và
tạo điều kiện hơn nữa cho hệ thống kết câú hạ tầng được khôi phục và phát

triển hiện đại hơn nữa.
4. Nội dung đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Theo khái niệm kết cấu hạ tầng ở phần một là:kết cấu hạ tầng bao
gồm bốn phương diện đó là: 1) tiện ích công cộng(Public utilities), năng
lượng, viễn thông, nước sạch cung cấp qua hệ thống ống khí, khí đốt truyền
tải qua ống, hệ thống thu gom và xử lý các chất thải trong thành phố ...
2)Công chánh(public works): đường sá, các công trình xây dựng đập, kênh
phục vụ tưới tiêu... 3)Giao thông (transport): các trục và tuyến đường bộ,
đường sắt, cảng cho tàu và máy bay, đường thuỷ... Ba bình diện trên tạo
10
thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật vì chúng bao gồm hệ thống vật chất kỹ thuật
phục vụ cho sự phát triển của các ngành các lĩnh vực kinh tế.4) Hạ tầng xã
hội (Social infeastruture): bao gồm các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ
cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công
nghệ, các cơ sở y tế, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm xã hội và các công trình
phục vụ cho hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao.Thì nội dung đầu
tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng bao gồm: Đầu tư vào lĩnh vực giao thông vận
tải(Đầu tư vào hệ thống đường bộ, đầu tư vào hệ thống đường sắt, đầu tư
vào hệ thống đường thuỷ, nội địa, cảng hàng không); đầu tư vào lĩnh vực
bưu chính viễn thông(đầu tư mở rộng hệ thống mạng điện thoại, đầu tư xây
dựng các trụ sở bưu điện tại các thôn xã, địa phương…); đầu tư vào lĩnh vực
kết cấu hạ tầng(Cấp thoát nước, vệ sinh môi trường), Đầu tư vào lĩnh vực
khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê.
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng là đầu tư vào hệ thống tổng thể các
cơ sở vật chất –kỹ thuật công trình các phương tiện hiện có tồn tại trên nước
ta được dùng làm điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo
đảm sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, các luồng
thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính phổ biến của sản
xuất và đời sống. Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng là đầu tư Với sự cố kết
chặt chẽ về mặt đặc điểm không gian, sự kết nối với tất cả các cơ quan, tổ

chức xí nghiệp và các hộ gia đình. Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng là
phải đầu tư trên một phạm vi rộng lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ
TẦNG
1. Khái quát chung về tình hình thu hút FDI vào Việt Nam trong
thời gian qua
Tính đến cuối năm 2005, cả nước có trên 7.000 dự án đầu tư nước
ngoài được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký 65.2 tỷ USD (kể cả
vốn tăng thêm mở rộng). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể
trước thời hạn, hiện có hơn 5.800 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư
đăng ký gần 50,6 tỷ USD.
11
Bình quân mỗi năm có 390 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn
đăng ký 3,6 tỷ USD. Tuy nhiên, nhịp độ ĐTNN vào nước ta không đồng đều
qua các năm. Sau giai đoạn mang tính thăm dò từ năm 1988 đến năm 1990,
dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam đã tăng nhanh trong thời kỳ từ năm 1991
đến 1996, bắt đầu suy giảm từ năm 1997 do khủng hoảng tài chính khu vực
và có xu hướng phục hồi từ năm 2000 đến nay, trong đó năm 2004 thể hiện
xu hướng phục hồi rõ rệt nhất.
Bảng1: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
giai đoạn 1991-2005
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000

9000
10000
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Năm
Vốn đăng ký cấp mới Vốn giải thể hoặc hết hạn Vốn thực hiện Vốn tăng thêm
Từ năm 1998 đến 1990, chỉ có 218 dự án được cấp phép với tổng vốn
đăng ký 1,58 tỷ USD, chất lượng dự án còn hạn chế, quy mô nhỏ và chủ yếu
từ các nước và vùng lãnh thổ châu á, nhất là Hồng Kông, Đài Loan.
Thời kỳ 1991 – 1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt
Nam với 1.397 dự án được cấp giấy phép có tổng vốn đăng ký 16,2 tỷ USD.
Đặc biệt năm 1996 đã có 365 dự án được cấp giấy phép có tổng vốn đăng ký
8,8 tỷ USD.
Sau khủng hoảng tài chính khu vực, trong 3 năm từ năm 1997 đến
1999, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu giảm sút. Mặc dù, tính chung
trong 3 năm này đã có 934 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư
10,11 tỷ USD, nhưng vốn đăng ký của năm 1998 chỉ bằng 83,8% của năm
1997, năm 1999 chỉ bằng 40,23% của năm 1998. Đồng thời, nhiều dự án
được cấp phép trong những năm trước đã phại tạm dừng triển khai do nhà
12
đầu tư gặp khó khăn về tài chính. Nhất là các nhà đầu tư châu Á. Từ năm
2000 đến nay, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi
tuy chưa vững chắc. Năm 2000 vốn đăng ký tăng 13,5% so với năm 1999;
năm 2001 tăng 29,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn ĐTNN đăng ký
giảm, bằng 85,5% so với năm 2001, nhưng từ năm 2003 đến nay xu hướng
phục hồi đã trở nên rõ rệt hơn với mức vốn đăng ký trong năm 2003 tăng
9,7% so với năm 2002, năm 2004. Riêng 9 tháng đầu năm 2003 đã tăng
37,5% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt năm 2005 tăng 61.2% so với năm
2004. Riêng 9 tháng đầu năm 2003 đã tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước
và bằng 90,9% mục tiêu đề ra cho cả năm (4,5 tỷ USD).
Tình hình tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất: Cùng với việc thu hút

các dự án đầu tư mới, nhiều dự án đã tăng vốn đầu tư, nhất là tư năm 2001
trở lại đây. Tính đến hết năm 2005 có 1.505 dự án tăng vốn đầu tư với 3057
lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng
thêm là 13,07 tỷ USD. Riêng năm 2001 vốn bổ sung đạt 632 triệu USD,
tăng 33% so với năm 2000 và bằng 24,3% tổng vốn đầu tư đăng ký của các
dự án mới; năm 2002 tăng 2% so với năm 2001 và bằng 70,08% tổng vốn
đầu tư đăng ký của các dự án mới; năm 2003 tăng tăng 2% so vơi năm 2002
và bằng 60,08% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án mới, năm 2004 đạt
2,05 tỷ USD, tăng 80,7% so với năm 2003 và bằng 85,3% tổng vốn đầu tư
đăng ký của các dự án mới. Năm 2005 vốn tăng thêm đạt 1,8 tỷ USD, bằng
87% năm 2004 và chỉ chiếm 45% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án
mới. Xét về số lượng dự án và số vốn đầu tư tăng thêm của các dự án mở
rộng sản xuất cho thấy xu thế tăng dần từ năm 1991 và đạt mức cao vào các
năm 1995 –1997, rồi giảm dần vào năm 1998 -2000 và từ năm 2001 đến
2004 xu thế tăng liên tục. Năm 2005 cho thấy xu thế tăng vốn không mạnh
bằng xu hướng đăng ký mới của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Cơ cấu vốn ĐTNN về cơ cấu ngành, lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 66% về số dự án và 58,1% tổng vốn
13
đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 24.3% về số dự án và
38.5% về số vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp.
Biểu đồ: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài theo ngành(Vốn đăng ký)
34%
8%
58%
Dịch vụ Nông lâm ngư nghiệp Côngnghiệp và xây dựng
Biểu đồ: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài theo ngành(Vốn thực hiện)
14
25%

6%
69%
Dịch vụ Nông lâm ngư nghiệp Côngnghiệp và xây dựng
So với vốn đăng ký, vốn thực hiện trong lĩnh vực cong nghiệp và xây
dựng có tỷ trọng lơn hơn, chiếm 68,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực nông- lâm-
ngư nghiệp chiếm 6,4% vốn thực hiện và lĩnh vực dịch vụ chiếm 25,1%. Từ
đây, có thể thấy rằng tỷ lệ các dự án đã triển khai thực hiện trong lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng cao hơn so với các lĩnh vực khác.
Về cơ cấu vùng lãnh thổ : tính đến năm 2005, vốn ĐTNN tập trung
vào một số tỉnh thuộc khu vực kinh tế trọng điểm phía nam ( Thành phố Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng tầu) và vùng kinh tế
trọng điểm phía bắc ( Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc và Quảng
Ninh), theo thứ tự: TRÁI PHIếU. Hồ Chí Minh 30,7% vế số dự án; 23,9%
tổng vốn đăng ký và 22,9% tổng vốn đầu tư thực hiện; Hà Nội chiếm 10,8%
về số dự án; 18,2% vốn đăng ký và 12,2% tổng vốn thực hiện; Đồng Nai
chiếm 17,9% về số dự án; 9,8% tổng vốn đăng ký và 7,0% tổng vốn đầu tư
thực hiện.
Vùng kinh tế trọng điểm phía bắc chiếm 26% tổng vốn ĐTNN đăng
ký và 28,7% vốn thực hiện của cả nước.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm trên 58% tổng vốn ĐTNN
đăng ký và khoảng 50% vốn thực hiện của cả nước.
15
Vùng bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chiếm 2,9% về số dự
án và 1,8% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó, vốn thực hiện bằng
48,5% tổng vốn đăng ký.
Biểu đồ: Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư
100% vón nước ngoài Hợp đồng hợp tác kinh doanh Liên doanh
Về hình thức đầu tư, Tính đến hết năm 2005, hình thức 100% vốn
nước ngoài (kể cả BOT) chiếm 74.1% về số dự án và 50.1% về tổng vốn
16

đăng ký; hình thức liên doanh chiếm 22,4% về số dự án và 38.3% về tổng
vốn đăng ký; còn lại là hình thức hợp doanh, công ty cổ phần và công ty
quản lý vốn. Đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia
tăng nhanh chóng về số dự án, tuy nhiên do dự án quy mô nhỏ và vừa chiếm
đa số nên mặc dù chiếm đa số vế số dự án nhưng về quy mô đăng ký của các
dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài không cao hơn nhiều so
với hình thức liên doanh.
Về cơ cấu vốn đầu tư theo đối tác, các nước châu Á vẫn là đối tác đầu
tư chính vào Việt Nam, chiếm 70,6% tổng vốn đăng ký, trong đó Nhật Bản,
Đài Loan, Hàn Quốc (3 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam) và Trung Quốc
(kể cả Hồng Kông) chiếm 47,2% tổng vốn đăng ký vào Vịêt Nam, 21,7% là
đầu tư từ các nước ASEAN. Các nhà đầu tư từ EU chiếm 21.8% tổng vốn
đăng ký, châu Mỹ- chiếm 6%, Australia, New Zealand chiếm 1,4% và các
nước khác khoảng gần 2%
2. Thực trạng thu hút và sử dụng FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ
tầng
2.1. FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo một số lĩnh vực.
Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2006 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam có tổng số dự án là 5.606 dự án với tổng vốn đầu tư là
96.167.983.160USD. Trong đó FDI vào ngành công nghiệp là 3755 dự án
với tổng vốn đầu tư là 27.919.867.407USD, ngành nông- lâm- ngư
nghiệp là 732 dự án với tổng vốn đầu tư là 3.341.291.505USD, ngành dịch
vụ là 1119 dự án với tổng vốn đầu tư là 16.822.832.618USD.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo
một số lĩnh vực giai đoạn 1988-2005
ĐƠN VỊ: USD,%
STT Chuyên ngành Số dự Tỷ TVĐT Tỷ trọng
17
án
trọng

I Công nghiệp 3755 67,10 27.919.867.407 29,03
CN dầu khí 28 0,5 1.925.983.340 2
CN nhẹ 1576 28,11 7.484.777.106 7,78
CN nặng 1594 28,26 11.911.695.015 12,39
CN thực phẩm 253 4,51 2.944.302.374 3,1
Xây dựng 314 5,6 3.653.109.572 3,8
II Nông- lâm- Ngư
nghiệp
732 13,06 3.341.291.505 3,47
Nông lâm nghiệp 621 11,07 3.053.290.989 3,2
Thuỷ sản 111 1,98 288.000.516 0,3
III Dịch vụ 1119 19,96 16.822.832.618 17,49
GT- VT- Bưu điện 153 2,73 3.298.290.445 3,4
KS- Du lịch 167 2,98 3.515.089.648 3,6
Tài chính- ngân
hàng
59 1,05 772.550.000 0,8
VH- Y tế- giáo
dục
188 3,35 885.547.849 0,92
XD khu đô thị mới 4 0,07 2.551.674.000 2,65
XD văn phòng-
căn hộ
112 2 3.756.321.244 3,9
XD hạ tầng KCN-
KCX
20 0,36 921.625.046 0,96
Dịch vụ khác 416 7,42 1.121.734.386 1,17
IV Cả nước 5.606 100 96.167.983.160 100
Nguồn: Vụ Kết cấu hạ tầng- Bộ kế hoạch và đầu tư

Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ
yếu tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng là chủ yếu còn lĩnh vực
Nông- Lâm – Ngư nghiệp chiếm tỷ trọng rất ít. Cụ thế là ngành công nghiệp
và xây dựng chiếm 67,10% về số dự án và 29,03% về tổng vốn đầu tư. Tiếp
đến là ngành dịch vụ chiếm 19,96% về số dự án và 17,49% về tổng vốn đầu
18
tư. Cuối cùng là ngành Nông- Lâm- Ngư nghiệp chỉ chiếm 13,06% và
3,47% về tổng vốn đầu tư.
Nhìn chung các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
có tỷ lệ giải ngân cao nhất trên 51%. Các dự án trong lĩnh vực dịch vụ có tỷ
lệ giải ngân tương đối thấp so với các ngành khác, đạt 32% vốn đăng ký nếu
không tính 2 dự án khu đô thị nêu trên thì tỷ lệ này cũng chỉ đạt 38%.
Đầu tư vào lĩnh vực giao thông vận tải bao gồm đầu tư vào:
Hạ tầng đường bộ bao gồm: Hệ thống các loại đường quốc lộ, đường
tỉnh lộ, đường huyện, đường xã, đường đô thị, đường chuyên dùng và hệ
thống các loại cầu: cầu chui, cầu vượt… cùng những cơ sở vật chất khác
phục vụ cho vận chuyển, trên bộ như: bến bãi, đỗ xe tín hiệu, biển báo giao
thông, đèn đường chiếu sáng.
Vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải giai đoạn
2001-2004
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
giao thông vận tải giai đoạn 2001-2005
ĐƠN VỊ :1000Tỷ,%
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
1.Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội
145.6 163.3 170.3 176.8 180
tốc độ gia tăng định gốc 100 12.16 16.96 21.43 24.3
Tốc độ gia tăng liên hoàn 1000 1216 4287 3817 3856
2.VĐT cho ngành GTVT 19 19.16 22.85 28.9 30.1

Tỷ trọng so với tổng VĐT
toàn xã hội
13.05 11.73 13.42 16.35 17.2
Tốc độ gia tăng định gốc 100 0.826 20.28 52.11 54.12
Tốc độ gia tăng liên hoàn 100 0.826 19.29 26.47 27.42
3.Vốn đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng GTVT
6.333 10.77 10.42 14.82 15.23
Tỷ trọng so với VĐT toàn
ngành GTVT
33.33 56.22 45.58 51.27 52.24
Tốc độ gia tăng định gốc 100 70.05 64.49 134 143
19
Tốc độ gia tăng liên hoàn 100 70.05 327 42.23 45.23
Nguồn: Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân- Bộ Kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực
giao thông vận tải chiếm khá lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội.
Chiếm 19.16% trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Điều đó chứng tỏ
định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ta đã đi đúng hướng
theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Phát triển hệ thống
giao thông để tạo điều kiện và tiền đề cho các ngành khác phát triển. Bởi
giao thông đường xá đi lại là một trong những vấn đề rất quan trọng trọng
việc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Giao
thông có thuận lợi thì mọi công việc và thông tin liên lạc mới được thuận
lợi và dễ dàng và nhanh chóng đảm bảo cho mọi thông tin được lưu thông
một cách nhanh chóng.
Trong 50 dự án đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông vận tải
chỉ có 2 dự án được sử dụng đó là:
+ Dự án liên doanh đầu tư xây dựng cảng Vic(công ty tiếp cận số 1)
với tổng vốn đầu tư là 70 triệu USD.55% là vốn Singapore và 45% của

Việt Nam(được tính góp vốn băng đất). Quy mô cảng trung bình chủ yếu
sắp xếp hàng container có thiết bị hiện đại và năng lực bốc dỡ nhanh.
+ Dự án đầu tư liên doanh giữa Việt Nam 40% và Pháp 60% xây
dựng cảng phú mỹ. Quy mô cảng trung bình, chủ yếu nhập hàng khô trang
thiết bị hiện đại, có tốc độ bốc dỡ nhanh. Đi vào hoạt động tư năm 2000,
nhìn chung 2 dự án trên đều đã phát huy tác dụng tốt, giảm được áp lực
cho các Cảng Sài Gòn, hệ thống quản lý cảng tốt, thiết bị bốc dỡ hiện đại
nhưng bị hạn chế vì vị trí cảng không thuận lợi bằng cảng Sài Gòn, là các
cảng chuyên dùng cho các khu công nghiệp hay trung chuyển đi vào các
vùng đồng băng sông cửu long.
20
2.2. FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo hình thức đầu tư
Từ trước đến nay có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam đã được thực hiện trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Đó là 100% vốn
nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
21
Bảng 4: FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo hình thức đầu tư
giai đoạn 1988-2005
ĐƠN VỊ: USD
HTĐT
KS- du lịch Văn phòng- căn hộ Tổng cộng
Số dự
án
Tổng VĐT
Tổng vốn
pháp định
Số dự
án
Tổng VĐT
Tổng vốn

pháp định
Số dự
án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp
định
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)
100% vốn NN 3 18.000.000 6.400.000 0 0 0 3 18.000.000 6.400.000
Hợp đồng hợp
tác kinh doanh
4 48.620.000 27.540.140 5 103.890.559 96.222.391 9 152.510.559 123.762.531
Liên doanh 146 3.172.806.699 1.355.953.401 115 7.110.234.990 2.280.021.007 261 10.283.041.689 3.635.974.487
Tổng cộng 153 3.239.426.699 1.389.893.541 120 7.214.125.549 2.376.234.468 273 10.453.552.243 3.766.173.009
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam
22
Qua bảng số liệu ta có thể thấy rằng các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã chọn đầu tư vào ngành du lịch Việt Nam là doanh nghiệp liên doanh.
Trong tổng số 153 dự án đầu tư vào ngành du lịch thì đã có đến 146 dự án là
loại hình doanh nghiệp liên doanh. Còn hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có rất ít dự án. Điều đó chứng
tỏ ngành du lịch Việt Nam chưa thực sự thu hút đông đảo các nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài với nhiều hình thức. Chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bằng vốn và công nghệ còn các doanh
nghiệp trong nước góp vốn bằng đất đai là chủ yếu.
Cho đến nay đã có 261 dự án liên doanh chiếm 96,5% tổng số dự án
với tổng vốn đầu tư 10,28 tỷ đô la mỹ. Khẳ năng góp vốn của các doanh
nghiệp Việt Nam rất hạn hẹp, bình quân chỉ bằng 20% vốn đầu tư của liên
doanh (trong khi mức tối thiểu phổ biến của các ngành khác là 30%)việc
góp vốn này chủ yếu được thực hiện trong giá trị quyền sử dụng đất.
Khi doanh nghiệp Việt Nam chưa được chia lãi hay liên doanh bị lỗ

thì nhà nước chưa thu được tiền cho thuê đất. Thêm vào đó, với quyết định
hiện hành, doanh nghiệp nào có quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp đó có
quyền liên doanh với bất kể ngành nghề chuyên môn đã đăng ký có phù hợp
với mục tiêu hoạt động của liên doanh hay không. Điều này dẫn đến tình
trạng Việt Nam bị”lép vế” do không nắm được chuyên môn.
Về mặt kinh tế các đối tác nước ngoài tham gia liên doanh trong
ngành du lịch phần lớn là những công ty con trong những tập đoàn Khách
sạn, du lịch lớn hoạt động trên phạm vi toàn thế giới (tập đoàn mẹ). Đây là
điều kiện rất thuận lợi để các đối tác này khai vống các chi phí đầu tư, khai
vống giá trị thiết bị, máy móc dùng để góp vốn, nâng giá đầu vào, hạ giá đầu
ra thông qua việc chuyển giá cho các tập đoàn mẹ để thu lợi nhuận từ đầu và
hạch toán lỗ cho cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không
có khẳ năng kiểm soát.
23
Bảng 5 : FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo hình thức kinh
doanh
ĐƠN VỊ: USD
Loại hình kinh
doanh
Số dự
án
Tổng VĐT Tổng vốn pháp
định
I)Khách sạn du lịch 153 3.239.426.699 1.389.893.541
1)KD dịch vụ du lịch 9 8.424.800 7.160.361
2)KD dịch vụ KS
trong đó:
102 2.583.257.050 978.121.688
2.1)KD khách sạn+
dịch vụ du lịch

96 2.393.957.050 916.056.888
2.2)KD khách sạn 6 189.300.000 62.064.800
3)KD sân golf 12 388.417.000 272.090.000
4)KD khu DL, làng
DL
6 79.052.194 30.221.500
5)KD biệt thự 7 43.784.178 27.427.743
6)KD vận chuyển du
lịch
4 32.007.000 11.870.000
7)KD câu lạc bộ thể
thao- VH- giải trí
9 98.323.225 57.440.997
8)KD nhà hàng 4 6.161.252 5.561.252
II)Văn phòng- căn hộ 120 7.214.125.549 2.376.243.468
Tổng cộng(I+II) 273 10.453.552.248 3.766.137.009
Nguồn: tổng cục đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng nhóm kinh doanh khách sạn
du lịch chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án (102 dự án) lẫn tổng vốn đầu
tư (gần 2.583 triệu USD). Tuy nhiên trong những năm gần đây cũng là
nhóm kinh doanh kém hiệu quả, nhiều công trình bị tạm ngừng hay bên
nước ngoài xin rút vốn cho bên Việt Nam hay liên doanh xin chuyển hướng
hoạt động, bổ sung ngành nghề.
2.3. FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo đối tác đầu tư
Hiện nay nước ta đã thu hút được trên 30 quốc gia đầu tư vào lĩnh
vực kết cấu hạ tầng. Điều đó thể hiện Việt Nam đã và đang đạt được những
24
thành tựu đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh
vực kết cấu hạ tầng. Việc thu hút đã đi đúng hướng và đúng đường lối phát
triển kinh tế của nước ta là phát triển kết cấu hạ tầng đi trước một bước để

tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và phát triển đất nước theo hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước
công nghiệp.
25

×