Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vai trò của Procalcitonin trong tiên lượng bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng tại Bệnh viện Trưng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.11 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016

Nghiên cứu Y học

VAI TRÒ CỦA PROCALCITONIN TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH VIÊM PHỔI MẮC PHẢI
CỘNG ĐỒNG TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG
Từ Quốc Thanh*, Cao Thị Bích Ngân*, Võ Thị Vân*, Nguyễn Thị Bạch Tuyết*,
Đoàn Thị Minh Liên*, Nguyễn Thị Phương Thảo**

TÓM TẮT
Mở đầu và Mục tiêu: Vai trò của Procalcitonin (PCT) trong tiên lượng mức độ nặng, biến chứng và tử
vong của viêm phổi mắc phải cộng đồng (VPMPCĐ) là chưa rõ ràng. Mục tiêu nghiên cứu là khảo sát vai trò của
PCT trong việc đánh giá mức độ nặng và tiên lượng biến chứng, tử vong ở bệnh nhân VPMPCĐ nhập viện điều
trị tại bệnh viện Trưng Vương.
Đối tượng và Phương pháp: Mô tả hàng loạt ca có phân tích. Tất cả các ca VPMPCĐ được làm xét nghiệm
PCT lúc nhập viện và sau 48-72 giờ. Các bệnh nhân được phân nhóm mức độ nặng theo thang điểm PSI và
CURB-65, được điều trị và theo dõi các biến chứng cho đến khi khỏi bệnh hoặc tử vong.
Kết quả: Chúng tôi thu thập được 131 bệnh nhân. Có mối tương quan giữa nồng độ PCT lúc nhập viện và
mức độ nặng của VPMPCĐ theo thang điểm PSI và theo thang điểm CURB-65 với hệ số tương quan Spearman
lần lượt là Rs= 0,228 (p= 0,009) và Rs= 0,233 (p= 0,007). Nồng độ PCT lúc nhập viện không có khác biệt giữa
nhóm có biến chứng và nhóm không biến chứng (p= 0,051), giữa nhóm tử vong và sống còn (p= 0,581). Nồng độ
PCT lần 2 có khác biệt giữa nhóm có biến chứng và nhóm không biến chứng (p= 0,002), cũng như giữa nhóm tử
vong và nhóm sống còn (p< 0,001).
Kết luận: Nồng độ PCT lúc nhập viện có tương quan với mức độ nặng của VPMPCĐ nhưng chỉ ở mức
trung bình và không có ý nghĩa tiên lượng biến chứng và tử vong của VPMPCĐ. Nồng độ PCT lần 2 và động
học PCT có ý nghĩa tiên lượng biến chứng và tử vong.
Từ khóa: Viêm phổi mắc phải cộng đồng, Nồng độ Procalcitonin.
THE ROLE OF PROCALCITONIN IN PROGNOSIS OF COMMUNITY ACQUIRED PNEUMONIA
IN TRUNG VUONG HOSPITAL
Tu Quoc Thanh, Cao Thi Bich Ngan, Vo Thi Van, Nguyen Thi Bach Tuyet, Đoan Thi Minh Lien,
Nguyen Thi Phuong Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 5 - 2016: 1- 9



ABSTRACT
Background & Objectives: The role of procalcitonin (PCT) in the prognosis of severity, complications and
mortality of community acquired pneumonia (CAP) is unclear. Objectives of the study were to investigate the role
of PCT in assessing severity and prognosis of complications and mortality in patients hospitalized CAP at Trung
Vuong Hospital.
Method: Descriptive case series study. All the cases of CAD were measured for PCT levels at admission and
48-72 hours later (2nd PCT levels). The patients were classified according to the severe scale of PSI and CURB-65,
were treated and followed up until recovery or death.
Results: 131 patients with CAP were enrolled in the study. There is a correlation between PCT levels at
admission and severities of CAP according PSI scale and CURB-65 scale with Spearman’s correlation coefficient
R = 0.228 (p= 0.009) and R = 0.233 (p= 0.007) respectively. There was no significant difference in PCT levels at
admission between complicated and uncomplicated group (p= 0.051), between death and survival group (p=
* Khoa Điều trị theo yêu cầu Bệnh viện Trưng Vương ** Khoa Xét nghiệm Bệnh viện Trưng Vương
Tác giả liên lạc: BS.CK2 Từ Quốc Thanh
ĐT: 0903 968 892
Email:

1


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016

0.581). There was significant difference in 2nd PCT levels between complicated and uncomplicated group (p=
0.002), as well as between the group of death and survival (p< 0.001).
Conclusion: The PCT levels at admission have a correlation with the severity of CAP, but have no role in
prognosis of the complications and death of CAD. 2nd PCT levels and PCT kinetics have a role in prognosis of
complications and death of CAD.

Key words: Community acquired pneumonia (CAP), Procalcitonin (PCT) level.
đánh giá mức độ nặng và tiên lượng biến
ĐẶT VẤN ĐỀ
chứng, tử vong ở bệnh nhân viêm phổi mắc
Viêm phổi mắc phải cộng đồng là một bệnh
phải cộng đồng nhập viện điều trị tại Bệnh viện
lý nhiễm trùng có tỷ lệ mắc và tử vong cao trên
Trưng Vương.
thế giới cũng như ở Việt Nam.
Trong thực hành lâm sàng, việc đánh giá
mức độ nặng, tiên lượng bệnh viêm phổi là rất
quan trọng. Trong y văn đã ghi nhận nhiều
thang điểm để đánh giá mức độ nặng trong
viêm phổi như thang điểm của Hội Lồng ngực
Mỹ ATS, của Hội Lồng ngực Anh BTS, thang
điểm PSI, CURB-65, A-DROP… Tuy nhiên các
thang điểm này chưa tiên lượng đầy đủ cho các
bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng đồng.
Hiện tại có nhiều chất đánh dấu được sử
dụng để tiên lượng trong bệnh viêm phổi, trong
đó nổi bật là Procalcitonin. Ở người bình
thường, Procalcitonin có nồng độ rất thấp trong
huyết thanh. Nồng độ Procalcitonin tăng cao
trong các bệnh lý nhiễm trùng do nguyên nhân
vi khuẩn, các bệnh lý nhiễm trùng toàn thân
nặng. Vì thế, trong viêm phổi, đã có nhiều
nghiên cứu khảo sát vai trò của Procalcitonin
trong việc xác định tác nhân gây bệnh là do vi
khuẩn hay virus, giúp chỉ định kháng sinh, theo
dõi diễn tiến điều trị, tiên lượng mức độ nặng

của bệnh, tiên lượng biến chứng, tử vong và
quyết định thời gian điều trị kháng sinh. Tuy
nhiên các nghiên cứu này có kết quả chưa rõ
ràng và thống nhất(2,7,8,12). Hiện nay, ở Việt Nam
vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Vì
thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để khảo
sát vai trò của Procalcitonin trong việc đánh giá
mức độ nặng và tiên lượng ở bệnh nhân viêm
phổi mắc phải cộng đồng.

Mục tiêu
Khảo sát vai trò của Procalcitonin trong việc

2

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu

Các trường hợp VPMPCĐ nhập viện tại
khoa Điều trị theo yêu cầu của Bệnh viện Trưng
Vương từ tháng 12/2014 đến tháng 5/2016.

Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu kế
tiếp, lần lượt cho đến hết thời gian nghiên cứu là
17 tháng.

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả hàng loạt ca có
phân tích.


Phương pháp tiến hành
Các bệnh nhân khi được chọn vào nghiên
cứu sẽ được hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng,
thực hiện các xét nghiệm máu, vi sinh, chẩn
đoán hình ảnh, xét nghiệm PCT lúc nhập viện
và 24-48 giờ sau. Nồng độ PCT được định lượng
bằng phương pháp miễn dịch hóa phát quang
trực tiếp tự động (Automated direct
chemiluminescent Immunoassay) trên máy
Advia Centaur XP do hãng Siemens- Đức chế
tạo năm 2013. Các bệnh nhân được theo dõi cho
đến khi xuất viện hoặc xảy ra tử vong.

KẾT QUẢ
Đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm
sàng của các ca VPMPCĐ trong nghiên cứu
Chúng tôi thu thập được 131 bệnh nhân
bao gồm 61 nam (46,6%) và 70 nữ (53,4%),
tuổi trung bình ± độ lệch chuẩn là 74,97 ±


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
14,93; nhỏ nhất là 28 tuổi, lớn nhất là 102 tuổi.
Chiếm đa số là các bệnh nhân >70 tuổi
(69,4%). Có 124/131 bệnh nhân (94,7%) là có
bệnh lý phối hợp, chiếm tỷ lệ cao nhất 106 ca
(80,9%) là các bệnh lý tim mạch, kế đến là các
bệnh phổi mạn chiếm 40 ca (30,5%).
Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện là 0,23

ng/mL (0,12- 0,63); nhỏ nhất là 0,01 ng/mL, lớn
nhất là 36,29 ng/mL. Có 73 ca được làm PCT lần
2 sau 48-72 giờ. Trung vị nồng độ PCT lần 2 là
0,28 ng/mL (0,16-0,81); nhỏ nhất là 0,01 ng/mL,
lớn nhất là 20,66 ng/mL.
Kết quả điều trị có 117 ca (89,3%) sống còn,
có 25 ca (19,1%) có biến chứng, trong số đó có 16
ca (12,2%) phải thở máy và 14 ca (10,7%) tử
vong. Có 5 ca (3,8%) phải chuyển khoa Hồi sức
tích cực, 14 ca tử vong đều xảy ra trong 30 ngày
kể từ lúc nhập viện, trong đó có 3 ca tử vong vì
biến chứng suy hô hấp và sốc nhiễm trùng, 10
ca vì suy hô hấp và 1 ca vì sốc nhiễm trùng,
không có ca tử vong vì nguyên nhân khác.
Chúng tôi dùng thang điểm PSI theo hướng
dẫn của Hội Lồng ngực Mỹ để chia các bệnh
nhân lúc nhập viện ra làm 5 nhóm I, II, III, IV, V.
Kết quả các bệnh nhân thuộc nhóm IV chiếm
nhiều nhất 56/131 ca (42,7%), ít nhất là nhóm I
chỉ có 3 ca (2,3%). Tỷ lệ có biến chứng tăng dần
theo thang điểm PSI, thấp nhất là ở nhóm I
không có ca nào có biến chứng, cao nhất là ở
nhóm V có 7/13 ca (53,8%) có biến chứng. Tỷ lệ
biến chứng giữa các nhóm PSI khác biệt có ý
nghĩa (p< 0,001). Tỷ lệ tử vong cũng tăng dần
theo thang điểm PSI (trừ nhóm III thấp hơn ở
nhóm II), thấp nhất là ở nhóm I không có ca nào
tử vong, cao nhất là ở nhóm V có 6/13 ca (46,1%)
tử vong. Tỷ lệ tử vong giữa các nhóm PSI khác
biệt có ý nghĩa (p= 0,003).

Chúng tôi dùng thang điểm CURB-65 theo
hướng dẫn của Hội Lồng ngực Anh để chia các
bệnh nhân lúc nhập viện ra làm 6 nhóm: 0 điểm,
1 điểm, 2 điểm, 3 điểm, 4 điểm và 5 điểm. Kết
quả các bệnh nhân thuộc nhóm 1 điểm là chiếm
nhiều nhất 53/131 ca (40,5%), ít nhất là nhóm 4

Nghiên cứu Y học
điểm 7/131 ca (5,3%) và không có bệnh nhân nào
thuộc nhóm 5 điểm. Tỷ lệ có biến chứng tăng
dần theo thang điểm CURB-65, thấp nhất là ở
nhóm 0 điểm có 1/15 ca (6,7%), cao nhất là ở
nhóm 4 điểm có 4/7 ca (57,1%) có biến chứng. Tỷ
lệ biến chứng giữa các nhóm CURB-65 khác biệt
có ý nghĩa (p= 0,049). Tỷ lệ tử vong cũng tăng
dần theo thang điểm CURB-65, thấp nhất là ở
nhóm 0 điểm không có ca nào tử vong, cao nhất
là ở nhóm 4 điểm có 3/7 ca (42,9%) tử vong. Tỷ
lệ tử vong giữa các nhóm CURB-65 khác biệt có
ý nghĩa (p= 0,038).

Xác định mối tương quan của nồng độ PCT
máu lúc nhập viện và độ nặng của
VPMPCĐ
Khi phân độ nặng theo PSI, kết quả cho thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa về trung vị nồng độ
PCT máu lúc nhập viện giữa các nhóm độ nặng
theo PSI (p= 0,03). Phân tích mối tương quan
giữa nồng độ PCT và mức độ nặng của
VPMPCĐ phân loại theo thang điểm PSI ta thấy

có tương quan, với hệ số tương quan Spearman
Rs= 0,228 (p= 0,009). So sánh nồng độ PCT lúc
nhập viện ở nhóm VPMPCĐ có nguy cơ thấptrung bình (I, II, III) và nhóm nguy cơ cao (IV, V)
phân loại theo PSI cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa giữa 2 nhóm nguy cơ thấp- trung bình và
nguy cơ cao theo PSI (p= 0,03).
Khi phân độ nặng theo CURB-65, kết quả
cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng
độ PCT máu lúc nhập viện giữa các nhóm độ
nặng theo CURB-65 (p= 0,005). Phân tích mối
tương quan giữa nồng độ PCT và mức độ
nặng của VPMPCĐ phân loại theo thang
điểm CURB-65 ta cũng thấy có tương quan,
với hệ số Spearman Rs= 0,233 (p= 0,007). So
sánh nồng độ PCT lúc nhập viện ở nhóm
VPMPCĐ có nguy cơ thấp-trung bình (0, 1, 2
điểm) và nhóm nguy cơ cao (3, 4 điểm) phân
loại theo CURB-65 cho thấy không có sự khác
biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm nguy cơ thấptrung bình và nguy cơ cao theo CURB-65.
Diện tích dưới đường cong (AUC) giúp

3


Nghiên cứu Y học
tiên lượng nguy cơ cao theo PSI của nồng độ
PCT lúc nhập viện là 61%, KTC 95% là 51,3%70,8%, p= 0,03 với điểm cắt PCT= 0,135 ng/mL
có độ nhạy= 84,1%, độ chuyên= 40,3%, giá trị
tiên đoán dương (PPV)= 61,1%, giá trị tiên
đoán âm (NPV)= 69,4%.


Vai trò của nồng độ PCT trong việc tiên
lượng biến chứng của VPMPCĐ
Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện ở
nhóm có biến chứng là 0,42ng/mL (0,16-0,87)
(trung vị- tứ phân vị) và không biến chứng là
0,215 ng/mL (0,09-0,58) không có khác nhau có ý
nghĩa (p= 0,051).
Trong nghiên cứu có 73 ca được làm xét
nghiệm PCT lần 2 sau 48-72 giờ. Đây là mốc thời
gian mà các nhà lâm sàng thường áp dụng để
khảo sát lại các xét nghiệm, chụp lại X quang
phổi, nhằm đánh giá đáp ứng điều trị. Nồng độ
PCT lần 2 ở nhóm có biến chứng và không biến
chứng khác nhau có ý nghĩa (0,76 ng/mL so với
0,22 ng/mL, p= 0,002). AUC của nồng độ PCT
lần 2 giúp phân phân biệt có biến chứng hay
không trong VPMPCĐ là 72,6%, KTC 95% là
59,7%- 85,6%, p= 0,002 với điểm cắt PCT lần 2=
0,7 ng/mL có độ nhạy= 54,5%, độ chuyên=
84,3%, giá trị tiên đoán dương (PPV)= 60%, giá
trị tiên đoán âm (NPV)= 81,1%.
Kết quả khảo sát động học PCT cho thấy tỷ
lệ có biến chứng ở nhóm động học PCT giảm
(nồng độ PCT lần 2 thấp hơn lúc nhập viện)
khác biệt có ý nghĩa với nhóm động học PCT
tăng hoặc không thay đổi (21,3% so với 46,2%,
p= 0,035).

Vai trò của nồng độ PCT trong việc tiên

lượng tử vong của VPMPCĐ
Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện ở
nhóm tử vong là 0,185 ng/mL (0,16-0,8) và sống
còn là 0,23 ng/mL (0,11-0,62) không có khác
nhau có ý nghĩa (p= 0,581).
Nồng độ PCT lần 2 ở nhóm tử vong và
sống còn khác nhau có ý nghĩa (1,62 ng/mL so
với 0,23ng/mL, p< 0,001). AUC của nồng độ
PCT lần 2 giúp phân biệt có tử vong hay

4

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
không trong VPMPCĐ là 89,2%, KTC 95% là
81,1%- 97,3%, p< 0,001 với điểm cắt PCT lần
2= 0,7 ng/mL có độ nhạy= 83,3 %, độ chuyên=
83,6%, giá trị tiên đoán dương (PPV)= 50%,
giá trị tiên đoán âm (NPV)= 96,2.
Kết quả khảo sát động học của PCT cho
thấy tỷ lệ tử vong ở nhóm động học PCT giảm
khác biệt có ý nghĩa với nhóm động học PCT
tăng hoặc không thay đổi (2,1% so với 42,3%,
p< 0,001).

BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm
sàng của các ca VPMPCĐ trong nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
nam chiếm tỷ lệ ít hơn nữ, không như các
nghiên cứu khác(5,7,17,18,19), tuy nhiên ít hơn không

đáng kể (61 nam so với 70 nữ). Kết quả này lại
tương đồng với nghiên cứu của Kaplan(8) . Về
nhóm tuổi mắc bệnh thì cũng tương tự các
nghiên cứu khác, đó là VPMPCĐ thường gặp ở
những người trên 50 tuổi. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, có 124/131 bệnh nhân (94,7%) là có
bệnh lý phối hợp. Những bệnh này tạo điều
kiện dễ mắc viêm phổi và làm cho bệnh viêm
phổi nặng hơn, khó điều trị hơn. Kết quả này
phù hợp với các nghiên cứu khác.
Nồng độ PCT trung bình lúc nhập viện là
1,63 ng/mL, trung vị là 0,23 ng/mL. Kết quả này
thấp hơn trong nghiên cứu của Đào Bạch Quế
Anh(5) có nồng độ trung bình PCT lúc nhập viện
là 1,73 ng/mL và của Vũ Nguyễn Nhân Ái(19) có
trung vị PCT lúc nhập viện là 2,02 ng/mL. Tuy
nhiên, kết quả của chúng tôi lại tương đương
với Horie(7) có trung vị PCT lúc nhập viện là 0,2
ng/mL và cao hơn của Niu(14) (2013) trên 113 ca
VPMPCĐ có trung bình PCT lúc nhập viện là
0,35 ng/mL. Sự khác biệt này có thể do độ nhạy
của kỹ thuật xét nghiệm ở mỗi nơi khác nhau,
tác nhân gây bệnh (nồng độ PCT cao hơn nếu
tác nhân gây bệnh là vi khuẩn điển hình so với
vi khuẩn không điển hình hay virus), độ nặng
của bệnh, các bệnh phối hợp.
Tỷ lệ biến chứng và tử vong trong nghiên


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016

cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Vũ
Nguyễn Nhân Ái(19) làm ở Bệnh viện Chợ Rẫy và
của Đào Bạch Quế Anh(5) làm ở Bệnh viện
Nguyễn Trãi, nhưng cao hơn các nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài(7,17,18). Việc so sánh này
thường không chính xác vì tùy thuộc vào nhiều
yếu tố: tuổi bệnh nhân, các bệnh phối hợp, thời
gian từ lúc khởi phát bệnh đến khi nhập viện,
tác nhân gây bệnh, điều kiện chăm sóc ở từng
nơi. Các biến chứng trong nghiên cứu của
chúng tôi là suy hô hấp, sốc nhiễm trùng/nhiễm
trùng huyết, tổn thương thận cấp cũng tương tự
như các nghiên cứu khác(5,6,17,19).

Xác định mối tương quan của nồng độ PCT
máu lúc nhập viện và độ nặng của
VPMPCĐ
Kết quả của chúng tôi cho thấy trung vị
nồng độ PCT máu lúc nhập viện có sự khác biệt
có ý nghĩa giữa các nhóm độ nặng theo PSI (p=
0,03) và các nhóm độ nặng theo CURB-65 (p=
0,005). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên
cứu của Đào Bạch Quế Anh(5), Vũ Nguyễn Nhân
Ái(19), Kim(9), Kruger(11), Menendez(13), Park(15).
Phân tích mối tương quan giữa nồng độ
PCT lúc nhập viện và mức độ nặng của
VPMPCĐ theo thang điểm PSI ta thấy có
tương quan, với hệ số tương quan Spearman
Rs= 0,228 (p= 0,009). Kết quả này cũng phù
hợp với nghiên cứu của Đào Bạch Quế Anh(5)

với hệ số Spearman Rs= 0,52 (p< 0,001), của
Kim(9) với hệ số Spearman Rs= 0,306 (p= 0,01).
Tương tự, khi phân tích mối tương quan giữa
nồng độ PCT lúc nhập viện và mức độ nặng
của VPMPCĐ theo thang điểm CURB-65 ta
cũng thấy có tương quan, với hệ số tương
quan Spearman Rs= 0,233 (p= 0,007). Kết quả
này cũng phù hợp với nghiên cứu của Kim(9)
với hệ số Spearman Rs= 0,309 (p= 0,01).
Chúng tôi dựa trên PSI chia các bệnh nhân
ra làm 2 nhóm: nhóm nguy cơ thấp-trung bình
(PSI I, II, III) và nhóm nguy cơ cao (PSI IV, V) để
khảo sát ý nghĩa mức độ nặng của nồng độ PCT
lúc nhập viện. Kết quả cho thấy có sự khác biệt

Nghiên cứu Y học
có ý nghĩa thống kê về nồng độ PCT máu lúc
nhập viện giữa 2 nhóm nguy cơ thấp-trung bình
và nguy cơ cao theo PSI (p= 0,03). Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Đào Bạch Quế
Anh(5), Masia(12), Mennendez(13).
Chúng tôi cũng dựa trên CURB-65 để chia
các bệnh nhân ra làm 2 nhóm: nhóm nguy cơ
thấp-trung bình (CURB-65 0, 1, 2 điểm) và
nhóm nguy cơ cao (3, 4 điểm). Kết quả cho
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về nồng độ PCT máu lúc nhập viện giữa 2
nhóm nguy cơ thấp- trung bình và nguy cơ
cao theo CURB-65. Ngược lại, trong nghiên
cứu của Menendez(13) trên 480 bệnh nhân

VPMPCĐ, nồng độ PCT tăng đáng kể theo độ
nặng của CURB-65. Trong nghiên cứu của
Park(15) (2012) trên 126 bệnh nhân VPMPCĐ,
trung vị PCT khác nhau có ý nghĩa thống kê
giữa các phân nhóm PSI (p< 0,01) và CURB-65
(p< 0,01).
Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi,
nồng độ PCT lúc nhập viện có giá trị tiên lượng
mức độ nặng của viêm phổi phân loại theo PSI
tốt hơn là phân loại theo CURB-65. Nồng độ
PCT tăng cao hơn ở nhóm có nguy cơ cao hơn,
tăng theo sự đáp ứng viêm đối với nhiễm trùng.
Sự gia tăng PCT thay đổi phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: vị trí nhiễm trùng, mức độ lan rộng của
nhiễm trùng (nhiễm trùng khu trú hay toàn
thân), mức độ nặng của bệnh. Nồng độ PCT cao
thường xảy ra ở những bệnh nhân có đáp ứng
viêm toàn thân, có nhiễm trùng huyết nặng, sốc
nhiễm trùng và đặc biệt khi có rối loạn chức
năng đa cơ quan kèm theo.
Trong nghiên cứu, AUC giúp tiên lượng
nguy cơ cao theo PSI của nồng độ PCT lúc
nhập viện là 61%. Kết quả này cho thấy nồng
độ PCT lúc nhập viện chỉ có giá trị ở mức độ
trung bình trong việc tiên lượng nguy cơ cao
theo PSI của VPMPCĐ.
Theo Schuetz(17) (2011) trên 925 bệnh nhân
VPMPCĐ, AUC của PCT lúc nhập viện trong
việc tiên lượng bệnh nhân nhập khoa Hồi sức


5


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016

tích cực là 69% (64%-75%). Theo Vũ Nguyễn
Nhân Ái(19) (2011), AUC của PCT lúc nhập
viện trong việc tiên lượng viêm phổi nặng
phân loại theo IDSA/ATS 2007 là 77,5%. Kết
quả của chúng tôi là thấp hơn, có lẽ do cách
phân độ nặng trong nghiên cứu chúng tôi là
theo PSI, khác với phân độ nặng của tác giả
Vũ Nguyễn Nhân Ái(19).
Kết quả của chúng tôi khác với nghiên cứu
của Raz(16) trên 31 bệnh nhân VPMPCĐ cho thấy
không có mối liên quan giữa nồng độ PCT với
mức độ nặng của bệnh. Tương tự, trong nghiên
cứu của Beovic(2) trên 99 bệnh nhân VPMPCĐ
cũng không thấy có sự khác biệt nồng độ PCT
giữa các nhóm độ nặng phân loại theo PSI.

Vai trò của nồng độ PCT trong việc tiên
lượng biến chứng của VPMPCĐ
Bảng 1. Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện ở 2
nhóm có biến chứng và không biến chứng
Có biến Không biến
chứng
chứng

Chúng tôi (n=131)
0,42
0,215
Vũ Nguyễn Nhân Ái (n=136) 2,43
0,7
Đào Bạch Quế Anh (n=57)
34
0,3
Masia (n= 185)
2,44
0,1
Schuetz (n=925)
1,3
0,39
Nghiên cứu

p
0,051
0,002
<0,001
0,03
<0,001

*Số liệu trình bày bằng trung vị, phép kiểm Mann
Whitney U.

Bảng 1 cho thấy PCT lúc nhập viện trong
nghiên cứu của chúng tôi không có vai trò trong
tiên lượng biến chứng của VPMPCĐ và có sự
khác biệt với các tác giả Đào Bạch Quế Anh(5),

Vũ Nguyễn Nhân Ái(19), Masia(12) và Schuetz(17).
Sự khác biệt giữa kết quả của chúng tôi với các
tác giả khác có thể là do cỡ mẫu, mức độ nặng
của các bệnh nhân, các bệnh phối hợp, tỷ lệ biến
chứng, thời gian từ lúc có triệu chứng đến khi
được nhập viện, các yếu tố khác tác động đến
kết quả PCT, độ nhạy của xét nghiệm PCT tại
nơi nghiên cứu… Nghiên cứu của Vũ Nguyễn
Nhân Ái(19) được thực hiện tại Bệnh viện Chợ
Rẫy, đây là bệnh viện tuyến cuối, nhận nhiều
bệnh nặng từ các bệnh viện tuyến trước chuyển
đến sau khi họ đã điều trị với kết quả không ổn,

6

do đó tỷ lệ bệnh nhân có biến chứng là rất cao
102/136 ca (75%). Lúc này tình trạng nhiễm
trùng của bệnh nhân đã diễn tiến nặng, nhiều
bệnh nhân được đưa vào khoa Hồi sức tích cực
ngay, điều này có thể lý giải việc trung vị PCT
lúc nhập viện ở nhóm bệnh nhân có biến chứng
là 2,43 ng/mL cao hơn rất nhiều trong nghiên
cứu của chúng tôi (trung vị PCT lúc nhập viện ở
nhóm biến chứng là 0,42 ng/mL). Các bệnh
nhân của chúng tôi có thể nhập viện sớm hơn,
thời điểm này tình trạng nhiễm trùng chưa diễn
tiến nặng nên nồng độ PCT lúc nhập viện chưa
tăng nhiều. Ngoài ra do đặc thù của khoa Điều
trị theo yêu cầu tại bệnh viện chúng tôi, các
bệnh nhân bệnh đã nặng ở thời điểm nhập viện

thì ít được chuyển vào khoa. Tương tự, các bệnh
nhân trong nghiên cứu của Đào Bạch Quế Anh(5)
cũng nặng hơn các bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi, với tỷ lệ có biến chứng là 43,9%,
trung vị PCT lúc nhập viện ở nhóm có biến
chứng lên tới 34 ng/mL. Nghiên cứu của
Masia(12) thì chỉ có 5 ca (2,7%) có biến chứng, còn
nghiên cứu của Schuetz(17) thì có cỡ mẫu (n= 925)
lớn hơn của chúng tôi (n= 131) rất nhiều. Sự
khác biệt lớn về cỡ mẫu có thể dẫn đến kết quả
so sánh không chính xác.
Ngoài ra, trong nghiên cứu của Đào Bạch
Quế Anh(5), AUC của nồng độ PCT lúc nhập
viện trong việc phân biệt viêm phổi có biến
chứng và không biến chứng là 83,7%, tức là có
giá trị khá tốt trong việc tiên lượng biến
chứng của VPMPCĐ. Ngược lại, trong nghiên
cứu của Vũ Nguyễn Nhân Ái(19), AUC của
nồng độ PCT lúc nhập viện trong việc tiên
lượng biến chứng của VPMPCĐ chỉ là 67,5 %.
Trong nghiên cứu của Schuetz(17) thì giá trị
này cũng chỉ là 66%. Điều này cho thấy vai trò
của PCT lúc nhập viện trong việc tiên lượng
biến chứng của VPMPCĐ là không rõ ràng và
cũng chỉ ở mức độ trung bình.
Trung vị nồng độ PCT lần 2 ở nhóm có biến
chứng khác biệt có ý nghĩa với nhóm không có
biến chứng (p= 0,002). Trong khi đó nồng độ
PCT lúc nhập viện lại không khác biệt giữa 2



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
nhóm. Kết quả này có thể là do trong nghiên
cứu của chúng tôi ở thời điểm nhập viện các
bệnh nhân chưa có tình trạng nhiễm trùng nặng
nên PCT chưa tăng nhiều và chưa có sự khác
biệt giữa 2 nhóm. Sau 48-72 giờ, ở nhóm bệnh
nhân không đáp ứng tốt với điều trị, tình trạng
nhiễm trùng sẽ diễn tiến nặng hơn, nồng độ
PCT lúc này đã bắt đầu tăng, và các bệnh nhân
này thường dễ có biến chứng. Động học PCT
cũng có ý nghĩa tương tự.
Trong nghiên cứu của chúng tôi AUC của
nồng độ PCT lần 2 giúp phân biệt viêm phổi có
biến chứng hay không là 72,6% (p= 0,002). Trong
nghiên cứu của Schuetz(17), nồng độ PCT được
khảo sát thêm vào ngày thử 3, 5 và 7; AUC của
nồng độ PCT đỉnh trong việc tiên lượng biến
chứng là 69% (khoảng tin cậy 65%-74%), tuy có
cao hơn nồng độ PCT lúc nhập viện (66%)
nhưng giá trị tiên lượng cũng chỉ ở mức độ
trung bình.

Vai trò của nồng độ PCT trong việc tiên
lượng tử vong của VPMPCĐ
Bảng 2. Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện ở 2
nhóm tử vong và sống còn
Nghiên cứu
Tử vong Sống còn
p

Chúng tôi (n= 131)
0,185
0,23
0,581
Hà Tấn Đức(n= 39)
4,96
3,33
0,63
Vũ Nguyễn Nhân Ái (n= 136)
2,3
1,9
0,096
Đào Bạch Quế Anh (n= 57)
6,15
0,36
<0,001
Masia (n= 185)
0,5
0,1
<0,0001
Schuetz (n= 925)
0,83
0,44
0,02
Boussekey (n= 100)
6,4
4,5
0,03
Charles (n= 180)
43

21,7
0,3
Kruger (n= 1546)
0,88
0,13
<0,001
Park (n= 126)
1,96
0,18
<0,01

*Số liệu trình bày bằng trung vị, Phép kiểm Mann
Whitney U.

Bảng 2 cho thấy nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với các tác giả Hà Tấn Đức(6), Vũ
Nguyễn Nhân Ái(19), Charles(4) nhưng lại khác
với các tác giả Đào Bạch Quế Anh(5),
Boussekey(3), Kruger(11), Masia(12), Park(15) và
Schuetz(17). Sự khác biệt này chứng tỏ giá trị tiên
lượng tử vong của nồng độ PCT lúc nhập viện
là không rõ ràng và thống nhất. Nghiên cứu của

Nghiên cứu Y học
Kruger(11) (2008) tiến hành trên 1546 bệnh nhân
cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ
PCT lúc nhập viện ở nhóm tử vong và nhóm
sống còn, và AUC của PCT lúc nhập viện trong
việc tiên đoán tử vong là 80%, tức giá trị tiên
đoán tử vong là khá tốt. Tương tự, nghiên cứu

của Horie(7) (2012) trên 102 bệnh nhân thì AUC
của PCT lúc nhập viện trong việc tiên lượng tử
vong là 82%, cao hơn nồng độ CRP (AUC 77%).
Nghiên cứu của Park(15) (2012) trên 126 bệnh
nhân VPMPCĐ nhập khoa cấp cứu, AUC của
PCT lúc nhập viện trong tiên lượng tử vong là
82,8%. Trong nghiên cứu của Đào Bạch Quế
Anh(5) (2008) trên 57 bệnh nhân thì giá trị AUC
này là rất cao 95,9%.
Ngược lại, trong nghiên cứu của Schuetz(17)
(2011) trên 925 bệnh nhân, thì AUC của PCT lúc
nhập viện trong tiên lượng tử vong chỉ là 60%.
Các giá trị điểm cắt của PCT trong tiên lượng tử
vong của viêm phổi có độ nhạy, độ chuyên,
Likelihood Ratio (LR) dương và LR âm chỉ ở
mức trung bình. Điều này chứng tỏ nó có giá trị
tiên đoán chỉ ở mức độ trung bình. Nghiên cứu
của Ugajin(18) (2014) trên 213 bệnh nhân
VPMPCĐ có AUC của PCT lúc nhập viện trong
tiên lượng tử vong chỉ là 57%. Trong nghiên cứu
của Andrijevic(1) (2014) trên 101 bệnh nhân
VPMPCĐ, giá trị AUC này cũng chỉ là 66,7% và
giá trị tiên lượng tử vong của PCT tại điểm cắt
2,56 ng/mL có độ nhạy chỉ là 76% và độ chuyên
là 61,8%. Trong nghiên cứu của Huang(8) (2008)
trên 1651 bệnh nhân, nồng độ PCT trong tiên
lượng tử vong 30 ngày có độ nhạy 92% nhưng
độ chuyên chỉ là 35% và tác giả cũng nhấn
mạnh rằng không bao giờ sử dụng giá trị PCT
đơn thuần trong việc đưa ra những quyết định

lâm sàng, cũng như thay thế sự đánh giá của
người thầy thuốc.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trung vị
nồng độ PCT lần 2 ở nhóm tử vong khác biệt có
ý nghĩa thống kê với nhóm sống (p< 0,001). Tỷ lệ
tử vong ở nhóm động học PCT tăng/không thay
đổi (42,3%) cao hơn tỷ lệ tử vong ở nhóm động
học PCT giảm (2,1%) (p< 0,001). Kết quả này

7


Nghiên cứu Y học
phù hợp với nghiên cứu của Schuetz(17) (2011)
trên 925 bệnh nhân VPMPCĐ, trung vị nồng độ
PCT ngày 3, ngày 5 và ngày 7 ở nhóm tử vong
đều cao hơn nhóm sống còn có ý nghĩa. Kết quả
của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của
Boussekey(3) (2006) trên 100 bệnh nhân
VPMPCĐ nặng có trung vị nồng độ PCT ngày 3
ở nhóm tử vong là 8,2 khác biệt có ý nghĩa
thống kê với nhóm sống còn là 1,6 (p< 0,001).
Động học PCT tăng ở nhóm bệnh nhân tử vong
và giảm ở nhóm bệnh nhân sống còn (p= 0,01).
Nghiên cứu của Vũ Nguyễn Nhân Ái(19) (2011)
cũng có kết quả tương tự.
Tuy nhiên nghiên cứu của Hà Tấn Đức(6)
(2007) ở bệnh viện Chợ Rẫy trên 39 bệnh nhân
VPMPCĐ nặng lại có kết quả không tương
xứng, trung vị nồng độ PCT ngày 3 ở nhóm tử

vong là 2,225 không khác biệt có ý nghĩa thống
kê với nhóm sống còn là 1,28 (p= 0,199). Động
học PCT ở nhóm tử vong và sống còn cũng
không khác biệt có ý nghĩa (p= 0,331). Trong
nghiên cứu của Charles(4) (2009) trên 180 bệnh
nhân nhiễm trùng huyết nặng, trong đó có
51,7% bệnh nhân là viêm phổi, trung vị nồng độ
PCT ngày 2 và động học PCT ngày 2 - ngày 1
không có khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm tử
vong và sống còn (tương ứng p= 0,13 và p=
0,44); nhưng trung vị nồng độ PCT ngày 3 và
động học PCT ngày 3- ngày 2 thì lại có khác biệt
có ý nghĩa giữa 2 nhóm tử vong và sống còn
(tương ứng p= 0,04 và p< 0,01).
Trong nghiên cứu của chúng tôi AUC của
nồng độ PCT lần 2 giúp phân biệt giữa tử vong
và sống còn trong viêm phổi là 89,2%. Kết quả
này chứng tỏ giá trị tiên lượng tử vong trong
VPMPCĐ của PCT đo lần 2 là khá tốt. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu của Schuetz(17), nồng độ
PCT được khảo sát thêm vào ngày thứ 3, 5 và 7
và AUC của nồng độ PCT đỉnh trong việc tiên
lượng tử vong chỉ là 65% (khoảng tin cậy 57%72%), tuy có cao hơn nồng độ PCT lúc nhập viện
(60%) nhưng giá trị tiên lượng của nó cũng chỉ
là ở mức độ trung bình.

8

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
Nồng độ PCT có liên quan đến tình trạng

nhiễm trùng, PCT cao khi có nhiễm trùng
nặng nhưng có nhiều ca tử vong trong các
nghiên cứu lại không liên quan đến nhiễm
trùng nặng. Trong nghiên cứu của chúng tôi
và của các tác giả khác, có nhiều ca VPMPCĐ
kèm đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính, và trong số này có những bệnh nhân tử
vong nhiều khả năng là vì đợt cấp của bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính hơn là vì tình trạng
nhiễm trùng nặng ở phổi. Điều này góp phần
giải thích cho các trường hợp tử vong trong
nhóm các bệnh nhân có PCT lần 2 thấp hoặc
động học PCT giảm. Trong nghiên cứu của
chúng tôi có 2 ca tử vong ở nhóm bệnh nhân
có PCT lần 2< 0,7 ng/mL và 1 ca tử vong ở
nhóm bệnh nhân có động học PCT giảm.

KẾT LUẬN
Có mối tương quan giữa nồng độ PCT lúc
nhập viện và mức độ nặng của VPMPCĐ theo
thang điểm PSI và theo thang điểm CURB-65
với hệ số tương quan Spearman lần lượt là Rs=
0,228 (p= 0,009) và Rs= 0,233 (p= 0,007). AUC của
nồng độ PCT lúc nhập viện trong tiên lượng
nguy cơ cao trong VPMPCĐ là 61%; với điểm
cắt là 0,135 ng/mL. Kết quả này cho thấy nồng
độ PCT trong tiên lượng nguy cơ cao theo PSI
của VPMPCĐ chỉ có giá trị ở mức độ trung bình.
Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện không
có khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm có biến

chứng và nhóm không biến chứng (p= 0,051),
ngược lại trung vị nồng độ PCT lần 2 khác biệt
có ý nghĩa (p= 0,002). Tỷ lệ biến chứng ở nhóm
động học PCT tăng/không thay đổi cao hơn ở
nhóm động học PCT giảm có ý nghĩa (p= 0,035).
AUC nồng độ PCT lần 2 trong việc tiên lượng
biến chứng của VPMPCĐ là 72,6%, với điểm cắt
PC = 0,7 ng/mL. Như vậy, giá trị tiên lượng biến
chứng của PCT lần 2 chỉ ở mức trung bình.
Trung vị nồng độ PCT lúc nhập viện không
có khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm tử vong và
nhóm sống còn (p= 0,581), ngược lại trung vị
nồng độ PCT lần 2 khác biệt có ý nghĩa (p<


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016

Nghiên cứu Y học

0,001). Tỷ lệ tử vong ở nhóm động học PCT
tăng/không thay đổi cao hơn ở nhóm động học
PCT giảm có ý nghĩa (p< 0,001). AUC nồng độ
PCT lần 2 trong việc tiên lượng tử vong của
VPMPCĐ là 89,2%, với điểm cắt PCT= 0,7
ng/mL. Như vậy, giá trị tiên lượng tử vong của
PCT lần 2 là tốt.

10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


13.

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Andrijevic I et al (2014). Interleukin-6 and procalcitonin as
biomarkers in mortality prediction of hospitalized patients
with community acquired pneumonia. Ann Thorac Med.,
9(3):162-167.
Beovic B, Kreft S, Osredkar J et al (2005). Serum procalcitonin
levels in patients with mild community-acquired pneumonia.
Clin Microbiol Infect., 11:1050-1051.
Boussekey N et al (2006). Procalcitonin kinetics in the
prognosis of severe community-acquired pneumonia. Intensive

Care Med, 32:469-472.
Charles PE, Tinel C et al (2009). Procalcitonin kinetics within
the first days of sepsis: relationship with the appropriateness
of antibiotic therapy and the outcome. Critical Care, 13(2):R38.
Đào Bạch Quế Anh, Quang Văn Trí (2008). Giá trị của
Procalcitonin trong viêm phổi mắc phải cộng đồng. Y học TP
Hồ Chí Minh, 12(4):184-188.
Hà Tấn Đức (2007). Giá trị tiên lượng của nồng độ
Procalcitonin máu trong 72 giờ đầu nhập viện trên bệnh nhân
viêm phổi nặng, Luận văn cao học, Đại học Y Dược TP Hồ
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
Horie M, Ugajin M, Suzuki M et al (2012). Diagnostic and
prognotic value of procalcitonin in community-acquired
pneumonia. Am J of the Medical Sciences, 343(1):30-35.
Huang DT, Weissfeld LA, Kellum JA et al (2008). Risk
prediction with procalcitonin and clinical rules in communityacquired pneumonia. Ann of Emerg Med, 52(1):48-58.
Kaplan V, Angus DC (2002). Hospitalized communityaccquired pneumonia in the elderly: age and sex-related
patterns of care and outcome in the United States.
Am.J.Respir.Crit/Care.Med., 165:766-772.

11.

12.

14.

15.

16.


17.
18.

19.

Kim JH et al (2013). Usefulness of plasma procalcitonin to
predict severity in elderly patients with community-acquired
pneumonia. Tuberc Respir Dis, 74(5):207-214.
Kruger S, Ewig S (2008). Procalcitonin predicts patients at low
risk of death from community-acquired pneumonia across all
CURB-65. Eur Res J, 31(2):349-355.
Masia M, Gutierrez F, Shum C et al (2005). Usefulness of
procalcitonin levels in community-acquired pneumonia
according to the Patients Outcome Research Team Pneumonia
Severe Index. Chest, 128:2223-2229.
Menendez R, Martinez R, Reyes R et al (2009). Biomarkers
improve mortality prediction by prognostic scales in
community acquired pneumonia. Thorax, 64(7):587-591.
Niu WY et al (2013). The diagnostic value of serum
procalcitonin, IL-10 and C-reactive protein in community
acquired pneumonia and tuberculosis. Eur Rev Med
Pharmacol Sci, 17:3329-3333.
Park JH et al (2012). The value of procalcitonin level in
community-acquired pneumonia in the ED. Am J Emerg
Med., 30(7):1248-1254.
Raz R, Mines M et al (2000). Correlation between Procalcitonin
and C-reactive protein serum levels and prognosis of patients
with
community-acquired
pneumonia.

Interscience
Conference on Antimicrobial Agents and Chemotherapy,
40:141.
Schuetz P et al (2011). Prognostic value of procalcitonin in
community-acquired pneumonia. Eur Respir J, 37(2):384-392.
Ugajin M et al (2014). Predictive values of semi-quantitative
Procalcitonin test and common biomarkers for the clinical
outcomes of community-acquired pneumonia. Respiratory
Care, 59(4):564-573.
Vũ Nguyễn Nhân Ái (2011). Nghiên cứu vai trò của
Procalcitonin trong chẩn đoán, tiên lượng, đánh giá điều trị
viêm phổi, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược
TP Hồ Chí Minh.

Ngày nhận bài báo:

08/8/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

12/8/2016

Ngày bài báo được đăng:

10/10/2016

9




×