Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát sự tương quan giữa lâm sàng và siêu âm sinh hiển vi trong chẩn đoán tách khe thể mi do chấn thương đụng dập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.88 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

KHẢO SÁT SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA LÂM SÀNG
VÀ SIÊU ÂM SINH HIỂN VI TRONG CHẨN ĐOÁN TÁCH KHE THỂ MI
DO CHẤN THƯƠNG ĐỤNG DẬP
Nguyễn Hữu Thế*, Võ Thị Hoàng Lan*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự tương quan giữa triệu chứng lâm sàng và kết quả trên siêu âm sinh hiển vi trong
chẩn đoán tách khe thể mi do chấn thương đụng dập.
Phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt ca 13 mắt đối chiếu và phân tích với dữ liệu hồi cứu 31 mắt từ tháng
5/2012 đến tháng 5/2014.
Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi gồm 11 nam và 2 nữ, tuổi trung bình 38,9 ± 7,43. Thị lực ở mức giảm
trung bình và nặng. Có 2 trường hợp nhãn áp bình thường, 11 trường hợp nhãn áp thấp. Đa số có phù giác mạc
và xuất huyết tiền phòng (84,6%). Chỉ có một trường hợp quan sát được khe tách thể mi khi soi góc tiền phòng.
Độ rộng khe tách thể mi trung bình 5,15 ± 2,58 cung giờ và số khe tách thể mi 1,23 ± 0,44 khe. Khe tách ở phía
dưới chiếm tỷ lệ ít nhất (29%). Trung bình độ rộng khe tách thể mi, số khe tách giữa nhóm nhãn áp thấp và nhãn
áp bình thường khác nhau không ý nghĩa (p = 0,635 > 0,05, Independent Samples T Test và p = 0,641 > 0,05,
Mann-Whitney U).
Kết luận: Siêu âm sinh hiển vi là công cụ hữu ích trong chẩn đoán khe tách thể mi do chấn thương đụng
dập. Độ rộng và số khe tách thể mi do chấn thương đụng dập không tương ứng với mức độ hạ nhãn áp.
Từ khóa: Khe tách thể mi do chấn thương đụng dập, siêu âm sinh hiển vi (UBM).

ABSTRACT
THE RESEARCH OF CORRELATION BETWEEN CLINICAL AND ULTRASOUND BIOMICROSCOPIC
CHARACTERISTICS IN DIAGNOSIS OF TRAUMATIC CYCLODIALYSIS CLEFTS
Nguyen Huu The, Vo Thi Hoang Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 – 2016: 156 - 162
Purpose: To investigate the clinical manifestations and imaging characteristics of ultrasound biomicroscopy


(UBM) in patients with traumatic cyclodialysis clefts.
Methods: Case series and retrospective study
Results: Our study included 11 males and 2 females, the average age was 38.9 ± 7.43 years. The BCVA
decreased moderate to severe. There were 2 cases of normal IOP, 11 cases of hypotony. Most of patients had
corneal edema and hyphema (84.6 %). Only 1 case was detected cyclodialysis cleft on gonioscopy. The
cyclodialysis clefts extended for 5.15 ± 2.58 clock hours (range, 1 - 10 clock hours). The mean number of
cyclodialysis clefts was 1.23 ± 0.44 (range, 1–2). The inferior cleft is fewest (in 29% of eyes). There was no
significant difference between the mean extent or number of cyclodialysis clefts and IOP (p = 0.635 > 0.05,
Independent Samples T Test and p = 0.641 > 0.05, Mann-Whitney U).
Conclusion: UBM is a useful tool in the diagnosis of traumatic cyclodialysis clefts. There was no association
between the extent, the number of the cleft and the magnitude of hypotony.
*

Bộ môn Mắt Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hữu Thế.

156

ĐT: 01674560056

Email:

Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

Key words: Traumatic cyclodialysis cleft, Ultrasound Biomicroscopy (UBM).


MỞ ĐẦU
Khe tách thể mi (cyclodialysis cleft) là một
dạng tổn thương không thường gặp- xảy ra khi
những sợi cơ dọc của cơ thể mi bị rách ra khỏi
cựa củng mạc. Sự bất thường này sẽ tạo nên một
đường thoát thủy dịch thứ phát từ tiền phòng
vào khoang thượng hắc mạc(2). Nguyên nhân
thường gặp nhất của khe tách thể mi là do chấn
thương đụng dập nhãn cầu. Những trường hợp
này nếu không được phát hiện và điều trị kịp
thời sẽ gây ra nhiều biến chứng, thậm chí có thể
gây mất thị lực vĩnh viễn(7). Soi góc tiền phòng là
cách truyền thống để chẩn đoán khe tách thể mi.
Nhưng kỹ thuật này thường gặp nhiều khó khăn
khi bệnh nhân có khe tách nhỏ hoặc kèm các tình
trạng: xuất huyết tiền phòng, phù giác mạc, tiền
phòng nông, mắt mềm(7). Siêu âm sinh hiển vi
(Ultrasound Biomicroscopy: UBM) là một
phương tiện không xâm lấn và tương đối rẻ cho
phép thấy được cấu trúc góc tiền phòng, mống
mắt, thể mi với độ phân giải cao. Năm 1996,
Gentile và cộng sự(5) đã báo cáo 6 trường hợp khe
tách thể mi không phát hiện được bằng soi góc
tiền phòng và chẩn đoán được nhờ UBM. Tiếp
theo đó, nghiên cứu của Jeong-Min Hwang năm
2008()6 đã cho thấy vai trò quan trọng của
phương pháp này.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về UBM đều
dùng phương pháp 4 kinh tuyến để khảo sát tại

4 vị trí là 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ. Trong khi
đó, những nghiên cứu trên thế giới về khe tách
thể mi đều khảo sát tất cả 12 kinh tuyến(6,9). Hơn
nữa, chưa có nghiên cứu nào về khe tách thể mi
do chấn thương đụng dập. Do vậy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu: “Khảo sát sự tương quan giữa
lâm sàng và UBM trong chẩn đoán khe tách thể
mi do chấn thương đụng dập”.

Mục tiêu
1. Khảo sát đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của
nhóm bệnh nhân được chẩn đoán khe tách thể
mi do chấn thương đụng dập.

Mắt

2. Xác định đặc điểm hình ảnh khe tách thể
mi trên siêu âm sinh hiển vi của nhóm loạt ca và
nhóm hồi cứu.
3. Kiểm định sự tương quan giữa lâm sàng
và siêu âm sinh hiển vi ở nhóm loạt ca.

PHƯƠNG PHÁP
Đây là nghiên cứu báo cáo loạt ca có đối
chiếu và phân tích với dữ liệu hồi cứu từ tháng
5/2012 đến tháng 5/2014. Chọn tất cả các bệnh
nhân khe tách thể mi do chấn thương đụng dập
tại Bệnh Viện Mắt Tp.HCM từ 12/2014 đến
05/2015. Bệnh nhân có khả năng hợp tác để UBM
và đồng ý tham gia nghiên cứu. Trên UBM: xác

định được cấu trúc tiền phòng, cựa củng mạc,
khe tách thể mi. Những bệnh nhân có phẫu
thuật nội nhãn trước đó như phẫu thuật glôcôm,
thay thể thủy tinh, phẫu thuật võng mạc - dịch
kính, vỡ nhãn cầu, đa chấn thương không được
chọn vào nhóm nghiên cứu. Đối với nhóm hồi
cứu từ dữ liệu trong máy UBM: dữ liệu có đầy
đủ các lát cắt gồm 1 lát cắt khảo sát tiền phòng, 4
lát cắt tại các vị trí 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ.
Chất lượng hình ảnh rõ ràng, thấy được cựa
củng mạc, thấy được khe tách thể mi.

Hình 1: Khe tách thể mi trên siêu âm sinh hiển vi
(mũi tên) Nguồn: Duane (2006)
Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu được
giải thích, hiểu và đồng ý tham gia. Sau đó bệnh
nhân được khai thác bệnh sử, tiền căn, đo thị lực,
nhãn áp, khám đèn khe, siêu âm B để loại trừ vỡ
nhãn cầu cực sau, soi góc tiền phòng và UBM.
Bệnh nhân tiến hành UBM: chế độ “Sulcus to
sulcus” để khảo sát tiền phòng, bề dày giác mạc

157


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

và chế độ “Angle mode” để phát hiện bất

thường ở góc tiền phòng, thể mi. Vị trí góc khảo
sát theo thứ tự kinh tuyến từ 1 giờ đến 12 giờ. Đo
các thông số trên máy UBM ở lát cắt khảo sát
tiền phòng và 12 lát cắt góc tiền phòng.
Biến số nghiên cứu: Dịch tễ và lâm sàng:
tuổi, giới, địa chỉ, mắt chấn thương, thị lực tốt
nhất sau chỉnh kính (BCVA), nhãn áp, phù giác
mạc, xuất huyết tiền phòng, khe tách thể mi xác
định khi soi góc tiền phòng. Biến số trên UBM:
xuất huyết tiền phòng, bề dày giác mạc trung
tâm (mm), vùng có khe tách thể mi, độ rộng khe
tách thể mi, số khe tách thể mi.

KẾT QUẢ
Có 13 bệnh nhân (gồm 11 nam và 2 nữ)
được đưa vào mẫu nghiên cứu (mẫu 1) để
đánh giá lâm sàng và sự tương quan giữa lâm
sàng với UBM. Có 31 bệnh nhân ở nhóm hồi
cứu (mẫu 2) được phân tích đối chiếu kết quả
trên UBM với mẫu 1.
Tuổi trung bình 38,9 ± 7,43. Thị lực giảm
trung bình và nặng. Có 2 trường hợp nhãn áp
bình thường, 11 trường hợp nhãn áp thấp. Đa số
có phù giác mạc và xuất huyết tiền phòng
(84,6%). Chỉ có một trường quan sát được khe
tách thể mi khi soi góc tiền phòng. Nguyên nhân
không soi được góc tiền phòng là: mắt mềm, giác
mạc phù và xuất huyết tiền phòng.

Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ lâm sàng của bệnh nhân khe tách thể mi do chấn thương đụng dập

Đặc điểm
Giới tính

Nam
Nữ

Tuổi trung bình (năm)
Thành phố
Địa chỉ
Nông thôn
ĐNT 4,75m – ĐNT 0,25m
Thị lực
ĐNT 0,25m – sáng tối dương (ST+)
Thấp (≤ 6 mmHg)
Nhãn áp
Bình thường (> 6 đến ≤ 21 mmHg)
Được
Quan sát được góc tiền
phòng
Không

Số lượng
11
2
38,9 ± 7,43
1
12
6
7
11

2
1
12

Tỉ lệ (%)
84,6
15,4
7,7
92,3
46,2
53,8
84,6
15,4
7,7
92,3

Trị số p
p < 0,05

p < 0,01
p > 0,05
p < 0,05
p < 0,01

(p: phép kiểm chính xác Fisher)

Sự khác biệt giữa có và không có xuất huyết
tiền phòng là có ý nghĩa thống kê (mẫu 1: p =
0,022 < 0,05 Fisher; mẫu 2: p = 0,002 < 0,05 χ2).


Biểu đồ 2: Đặc điểm bề dày giác mạc trung tâm
Biểu đồ 1: Đặc điểm xuất huyết tiền phòng trên
UBM

158

Trung bình bề dầy giác mạc trung tâm của
hai nhóm tương đương nhau. Bề dày giác mạc
trung tâm ở mẫu 1 là 0,641 ± 0,166 mm, mẫu 2 là
0,573 ± 0,064 mm.

Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

Biểu đồ 4: Số khe tách thể mi của mẫu 1
Mẫu 1: 76,9 % (10 mắt) tách thể mi chỉ có 1
khe tách và 23,1% (3 mắt) tách thể mi có 2 khe
tách, khác nhau không ý nghĩa (p = 0,092 > 0,05,
phép kiểm Fisher). Số khe tách thể mi trung bình
là 1,23 ± 0,439 khe.
Bảng 3: Tương quan về xuất huyết tiền phòng
XHTP trên lâm sàng
Tổng
Không

Không

2
0
2
XHTP trên UBM

0
11
11
Đặc điểm (Số mắt)

Tổng

2

11

13

Tất cả các bệnh nhân xuất huyết tiền phòng
đều được phát hiện trên UBM. UBM chẩn đoán
xuất huyết tiền phòng chỉ kết luận được có tổn
thương này hay không. Đối với từng mức độ
xuất huyết trên lâm sàng, UBM không có hình
ảnh tương ứng do bệnh nhân ở tư thế nằm.
Biểu đồ 3: Vùng có khe tách thể mi
Khe tách thể mi do chấn thương đụng dập có
vị trí tổn thương ở vùng phía dưới chiếm tỷ lệ ít
nhất (mẫu 1: 38,5% và mẫu 2: 29%).
Trung
bình


Độ lệch
chuẩn

Độ rộng khe

5,15

2,58

Giá trị
Giá trị
nhỏ nhất lớn nhất
1

10

Mẫu 1: Độ rộng khe tách thể mi trung bình là
5,15 ± 2,58 cung giờ, phạm vi từ 1 đến 10 cung
giờ. Mẫu 2: Phương pháp 4 kinh tuyến không có
giá trị của biến số độ rộng khe tách thể mi.

Mắt

Độ rộng khe tách (cung giờ)
Nhóm nhãn áp

Bảng 2: Độ rộng khe tách thể mi
Biến số
(cung giờ)


Bảng 4: Tương quan về nhãn áp và độ rộng khe tách
thể mi
Trung Độ lệch Giá trị Giá trị
bình chuẩn nhỏ nhất lớn nhất

Thấp (11 mắt) 5,00
Bình thường
6,00
(2 mắt)

2,76

1

10

1,41

5

7

p
0,635

Trung bình độ rộng khe tách giữa nhóm
nhãn áp thấp và nhãn áp bình thường khác
nhau không ý nghĩa (p = 0,635 > 0,05, phép
kiểm Independent Samples T Test). Mức độ hạ

nhãn áp không tương ứng với độ rộng khe
tách thể mi.

159


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

Bảng 5: Tương quan về nhãn áp và số khe tách thể mi
Số khe tách
Nhóm nhãn Trung Độ lệch Giá trị
Giá trị
áp
bình chuẩn nhỏ nhất lớn nhất
Thấp
Bình thường

1,27
1,00

0,467
0,00

1
1

2
1


p
0,641

Số khe tách thể mi giữa nhóm nhãn áp thấp
và nhãn áp bình thường khác nhau không ý
nghĩa (p = 0,641 > 0,05, phép kiểm MannWhitney U). Mức độ hạ nhãn áp không tương
ứng với số khe tách thể mi.

BÀN LUẬN
Khe tách thể mi do chấn thương đụng dập là
một tổn thương không thường gặp. Trên thế giới
đã có nhiều tác giả thực hiện báo cáo một ca
nhưng có rất ít những nghiên cứu có cỡ mẫu lớn
về loại tổn thương này. Số lượng bệnh nhân lớn
nhất trong các nghiên cứu là 32 mắt (31 bệnh
nhân), do tác giả Hwang và cộng sự thực hiện
trong 9 năm(6). Nghiên cứu có số bệnh nhân
nhiều thứ 2 là của Kuchle và Naumann trong 13
năm với 29 bệnh nhân(9).
Về đặc điểm dịch tễ và lâm sàng, nghiên cứu
hiện tại cho kết quả tương tự với các nghiên cứu
trên thế giới. Nam giới bị khe tách thể mi do
chấn thương mắt luôn nhiều hơn nữ giới. Theo
Deborah Pavan-Langston: nam giới là nguồn lao
động chính nhiều hơn nữ giới; nam giới liên
quan đến ẩu đả nhiều hơn nữ(11). Khe tách thể mi
do chấn thương đụng dập thường xảy ra ở nhóm
người trẻ tuổi. Thị lực tốt nhất sau chỉnh kính
của bệnh nhân tại thời điểm vào viện hầu hết ở

mức giảm trung bình đến giảm nặng(1,6). Theo
Ioannidis, thị lực giảm trong khe tách thể mi do
chấn thương đụng dập do nhiều nguyên nhân:
phù giác mạc, xuất huyết tiền phòng, xếp nếp
hắc võng mạc, phù đĩa thị(7).
Bệnh nhân có khe tách thể mi do chấn
thương đụng dập nhãn cầu thường có nhãn áp
thấp(1). Nghiên cứu hiện tại cũng cho kết quả
tương tự, nhãn áp thấp chiếm 11 mắt so với
nhãn áp bình thường là 2 mắt (nhãn áp lần lượt
là 6,5 mmHg và 12,2 mmHg). Vì chúng tôi dùng

160

nhãn áp kế Schiötz nên giá trị nhãn áp thấp nhất
mà chúng tôi ghi nhận được là 4 mmHg. Những
bệnh nhân có nhãn áp thấp hơn mức đó thì
không đo được giá trị nhãn áp cụ thể. Đối với
những trường hợp này, chúng tôi chỉ có thể ghi
nhận nhãn áp là < 4 mmHg. Do vậy, chúng tôi
không có giá trị nhãn áp trung bình để so với các
nghiên cứu trên thế giới.
Bảng 6: Trung bình nhãn áp trong các nghiên cứu
Tác giả

(6)

Hwang và cộng sự
(9)
Kuchle và Naumann

(1)
Agrawal và Shah
(8)
Ioannidis
Nguyễn Hữu Thế và
cs.

Nhãn áp (mmHg)
Trung
Độ lệch
Phạm vi
bình
chuẩn
3,2
2,6
0 – 10
3,1
2,3
0–8
6,9
4,0
2 – 14
2,0
0,0
0–7
<4

<4 – 12

Tình trạng nhãn áp thấp (< 6 mmHg) sẽ làm

cho mắt bệnh nhân mềm, tiền phòng nông. Do
đó việc soi được góc tiền phòng sẽ gặp khó khăn.
Trong những tình huống này, UBM là công cụ
hữu ích để quan sát góc tiền phòng và để chẩn
đoán khe tách thể mi(6,8,10).
Các nghiên cứu hiện nay đều cho thấy, soi
góc tiền phòng theo phương pháp truyền thống
sẽ khó quan sát được khe tách thể mi do chấn
thương đụng dập(5). Trong nghiên cứu của
Ioannidis, tác giả lặp lại soi góc sau khi bơm
nhầy vào tiền phòng và quan sát được khe tách
thể mi ở tất cả các trường hợp. Trong nghiên cứu
hiện tại, chúng tôi chỉ quan sát được góc tiền
phòng ở một bệnh nhân. Trường hợp này, bệnh
nhân đã chấn thương mắt 1 tháng, không phù
giác mạc và không xuất huyết tiền phòng.
Những trường hợp còn lại trong mẫu nghiên
cứu không quan sát được góc tiền phòng.
Nguyên nhân không soi được góc tiền phòng:
phù giác mạc, xuất huyết tiền phòng, tiền phòng
nông, nhãn áp thấp.
Hầu hết các nghiên cứu về khe tách thể mi
do chấn thương đụng dập đều ghi nhận độ rộng
trung bình của khe tách là 3 - 4 cung giờ(1,6).
Nghiên cứu hiện tại cũng cho kết quả tương tự,

Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

ở mẫu 1: độ rộng trung bình khe tách thể mi là
5,15 ± 2,58 cung giờ (phạm vi, 1 – 10 cung giờ).
Trong nghiên cứu của Kuchle - Naumann và
nghiên cứu của Agrawal - Shah, độ rộng khe
tách thể mi được ghi nhận với độ chính xác là 0,5
cung giờ. Trong khi nghiên cứu của Hwang và
nghiên cứu của chúng tôi chỉ ở mức 1 cung giờ.
Nguyên nhân của sự khác biệt này là do UBM
khảo sát từng vị trí theo 12 cung giờ nên độ rộng
tối thiểu của khe tách là 1 cung giờ. Soi góc tiền
phòng sau khi bơm nhầy sẽ quan sát được khe
tách thể mi chính xác hơn UBM, độ rộng tối
thiểu là 0,5 cung giờ(1,9).
Siêu âm sinh hiển vi theo phương pháp 4
kinh tuyến, bệnh nhân được khảo sát 1 lát cắt
tiền phòng và 4 vị trí khảo sát góc tiền phòng lần
lượt là là 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ. Phương
pháp này xác định có hay không có khe tách thể
mi tại 4 vị trí được khảo sát, không xác định
được kích thước khe tách. Đối với những vị trí
không khảo sát, nếu có tổn thương khe tách nhỏ
kèm theo thì chúng đã bị bỏ sót.
Nghiên cứu của Kuchle và Naumman ghi
nhận 86,9 % bệnh nhân có 1 khe tách thể mi, số
lượng khe tách trung bình là 1,13 ± 0,34 (phạm
vi, 1 – 2 khe)(9). Nghiên cứu của Agrawal và Shah
cho thấy 64,7 % bệnh nhân có 1 khe tách thể mitrung bình số lượng khe tách thể mi là 1,47 ± 0,72
(phạm vi, 1 – 3 khe)(1). Nghiên cứu hiện tại cũng
có kết quả tương tự, ở mẫu 1: 76,9% bệnh nhân
tách thể mi do chấn thương đụng dập với 1 khe,

số lượng khe tách trung bình 1,23 ± 0,44 khe
(phạm vi, 1 – 2 khe). Do vậy, trong quá trình
khám bệnh nhân chấn thương đụng dập, nếu
phát hiện có 1 khe tách thì vẫn phải tiếp tục tìm
những khe tách khác. Những khe tách nhỏ nằm
ở hai đầu của khe tách lớn dễ bị bỏ sót trong quá
trình soi góc tiền phòng(8).
Các nghiên cứu về khe tách thể mi do chấn
thương đụng dập có nhận xét không tương đồng
với nhau về vị trí của tổn thương. Trong nghiên
cứu của Agrawal và Shah với 17 trường hợp, có
48% số mắt có khe tách thể mi ở phía dưới, 29%

Mắt

Nghiên cứu Y học

số mắt có tổn thương ở phía trên, hai phía mũi
và thái dương có tỷ lệ bằng nhau là 14%(1). Theo
Kuchle và Naumann thì thứ tự vùng tổn thương
khe tách thể mi là ở phía trên (66% số mắt), tiếp
đến là phía mũi (chiếm 52% số mắt), thái dương
(chiếm 41 % số mắt) và sau cùng là phía dưới
(chiếm 31 % số mắt)(9). Theo nghiên cứu của
Ioannidis thì không có sự khác nhau giữa 4 vùng
ở bệnh nhân khe tách thể mi do chấn thương
đụng dập(8). Nghiên cứu hiện tại cho kết quả
biểu đồ 4: Khe tách thể mi ở phía dưới chiếm tỷ
lệ ít nhất mẫu 1 là 38,5%, ở mẫu 2 là 29%; tương
đồng với Kuchle và Naumann.

Tuy không có sự thống nhất giữa các kết quả
nghiên cứu về vị trí thường gặp của khe tách thể
mi, tác giả Ioannidis nhận định rằng vị trí tổn
thương khe tách thể mi có ảnh hưởng đến kết
quả điều trị(8).
Khe tách thể mi do chấn thương đụng dập
thường có tình trạng hạ nhãn áp, nhưng không
có sự liên quan giữa mức hạ nhãn áp và độ rộng
khe tách thể mi(1,3,7,10). Nghiên cứu của chúng tôi:
11 bệnh nhân với khe tách thể mi có độ rộng dao
động trong phạm vi từ 1 đến 10 cung giờ đều có
mức nhãn áp là < 4 mmHg; 1 bệnh nhân với khe
tách thể mi rộng 5 cung giờ có mức nhãn áp là
6,5 mmHg; bệnh nhân có nhãn áp cao nhất trong
nhóm nghiên cứu là 12,2 mmHg với độ rộng khe
tách là 7 cung giờ.
Mặc dù nguyên nhân hạ nhãn áp là do khe
tách thể mi làm thủy dịch tăng thoát, nhưng
điều này vẫn chưa giải thích được hết mức hạ
nhãn áp. Một nguyên nhân nữa được Rebika
đưa ra để giải thích cho tình trạng hạ nhãn áp
là sự giảm tưới máu thể mi(3). Tình trạng này
gây tổn thương thể mi từ đó làm giảm sự sản
xuất thủy dịch. Hiện tại chưa có nghiên cứu
nào đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán hoặc sử dụng
siêu âm sinh hiển vi hay bất kỳ một phương
pháp nào khác để chẩn đoán được tình trạng
giảm tưới máu thể mi.
Trong nghiên cứu của Agrawal - Shah số khe
tách thể mi của bệnh nhân dao động trong phạm


161


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016

vi từ 1 đến 3 khe và số khe tách này không có
tương quan với mức hạ nhãn áp của bệnh
nhân(1). Nghiên cứu của chúng tôi cũng có kết
quả tương tự, 10 bệnh nhân với 1 khe tách thể mi
có mức nhãn áp là < 4 mmHg – 12,2 mmHg, 3
bệnh nhân với 2 khe tách thể mi có mức nhãn áp
<4 mmHg; đa số bệnh nhân có nhãn áp < 4
mmHg cho dù số khe tách khác nhau. Do đó,
việc điều trị đóng hết các khe tách thể mi thì mới
có thể hồi phục được nhãn áp của bệnh nhân về
mức bình thường.

KẾT LUẬN
Siêu âm sinh hiển vi là công cụ hữu ích trong
chẩn đoán khe tách thể mi do chấn thương đụng
dập. Nên sử dụng công cụ này nếu khám lâm
sang nghi ngờ có khe tách thể mi. Độ rộng và số
khe tách thể mi do chấn thương đụng dập không
tương ứng với mức độ hạ nhãn áp.

3.


Dhiman R, Sobti A, Khandjuja S, Garg SP (2011-),
"Management of cyclodialysis cleft". Journal of Current
Glaucoma Practice, 5 (2), pp. 3.

4.

Firat PG, Doğanay S (2012), "Anterior Segment
Complications in Ocular Contusion". J Trauma Treatment
Journal of Trauma & Treatment, 01 (01), pp. 3-9.
Gentile RC, Pavlin CJ, Liebmann JM, Easterbrook M, Tello
C, et al. (1996), "Diagnosis of traumatic cyclodialysis by
ultrasound biomicroscopy". Ophthalmic Surg Lasers, 27 (2),
pp. 97-105.
Hwang J, Ahn K, Kim C, Park K, Kee C (2008), "Ultrasonic
biomicroscopic evaluation of cyclodialysis before and after
direct cyclopexy". Archives of Ophthalmology, 126 (9), pp.
1222-1225.
Ioannidis AS, Barton K (2010), "Cyclodialysis cleft: causes
and repair". Curr Opin Ophthalmol, 21 (2), pp. 150-4.
Ioannidis AS, Bunce C, Barton K (2014), "The evaluation and
surgical management of cyclodialysis clefts that have failed
to respond to conservative management". British Journal of
Ophthalmology, 98 (4), pp. 544-549.
Kuchle M, Naumann GO (1995), "Direct cyclopexy for
traumatic cyclodialysis with persisting hypotony. Report in
29 consecutive patients". Ophthalmology, 102 (2), pp. 322-33.
Murta F, Mitne S, Allemann N, Paranhos Junior A. (2014),
"Direct cyclopexy surgery for post-traumatic cyclodialysis
with persistent hypotony: ultrasound biomicroscopic
evaluation". Arq Bras Oftalmol, 77 (1), pp. 50-3.

Pavan-Langston D (2007), "Burns and Trauma", In: Manual
of Ocular Diagnosis and Therapy, Lippincott Williams &
Wilkins, Sixth, pp. 14-17.

5.

6.

7.
8.

9.

10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

162

Agrawal P, Shah P (2013), "Long-term outcomes following
the surgical repair of traumatic cyclodialysis clefts". Eye, 27
(12), pp. 1347-1352.
Bhende M, Lekha T, Vijaya L, Gopal L, Sharma T, et al.
(1999), "Ultrasound Biomiscroscopy in the diagnosis and
management of cyclodialysis clefts". Indian J Ophthalmol, 47
(1), pp. 19-23.


11.

Ngày nhận bài báo:

24/11/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

27/11/2015

Ngày bài báo được đăng:

01/02/2016

Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt



×