Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mức độ kiểm soát đường huyết và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện quận 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.77 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018

MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 5
Đoàn Thị Kim Ngân*, Lê Nguyễn Trung Đức Sơn*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định mức độ kiểm soát đường huyết và mối liên quan với kiến thức - thái độ - thực hành cùng
các yếu tố khác của bệnh nhân đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ2) khám tại Bệnh viện Quận 5.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang với 387 bệnh nhân ĐTĐ2 được chọn thuận tiện vào mẫu trong thời
gian từ 10/2016 đến 06/2017 tại Bệnh viện Quận 5. Kiến thức - thái độ - thực hành (KAP) về bệnh đái tháo
đường được thu thập thông qua bộ câu hỏi cùng với các chỉ số nhân trắc, xét nghiệm đường huyết đói, HbA1c và
bộ mỡ máu.
Kết quả: Thời gian mắc bệnh ĐTĐ2 trung bình của mẫu nghiên cứu là 7,5 năm. Tỷ lệ béo phì 49,1%;
72,9% có rối loạn mỡ máu. Hơn 80% bệnh nhân được điều trị thuốc viên hạ đường huyết. Tỷ lệ kiểm soát đường
huyết tốt là 30,2%. Tỷ lệ kiến thức - thái độ - thực hành ở mức độ thấp lần lượt là 38,2% – 42,6% – 36,7%. Các
yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến mức độ kiểm soát đường huyết bao gồm: thời gian mắc bệnh, sử dụng
thuốc, Triglyceride máu, kiến thức – thực hành của đối tượng nghiên cứu về bệnh đái tháo đường và chế độ dinh
dưỡng, tập luyện. Kiến thức - thực hành vẫn còn liên quan với mức độ kiểm soát đường huyết sau khi hiệu chỉnh
với các yếu tố khác (thời gian mắc bệnh, sử dụng thuốc, trình độ học vấn).
Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân có mức kiểm soát đường huyết tốt thấp. Mức độ kiểm soát đường huyết liên quan
có ý nghĩa thống kê với Kiến thức - thực hành về bệnh ĐTĐ, chế độ dinh dưỡng, tập luyện; thời gian mắc bệnh,
sử dụng thuốc và triglyceride máu.
Từ khóa: đái tháo đường týp 2, mức độ kiểm soát đường huyết, kiến thức - thái độ - thực hành về bệnh đái
tháo đường.

ABSTRACT
INVESTIGATION OF GLYCEMIC CONTROL AND ITS ASSOCIATED FACTORS IN PATIENTS
WITH TYPE 2 DIABETES IN OUTPATIENT UNIT OF DISTRICT 5 HOSPITAL IN HO CHI MINH CITY


Doan Thi Kim Ngan, Le Nguyen Trung Duc Son
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 ‐ No 3‐ 2018: 306 ‐ 312
Objective: To investigate the level of glycemic control and its relationship with knowledge-attitude-practice
on type 2 diabetes and other factors in patients with type 2 diabetes (T2D) examined at District 5 Hospital.
Methods: A cross-sectional study was conducted with 387 type 2 diabetic patients. The participants were
conveniently selected in the patients who had examined in the District 5 Hospital from 10/2016 to 06/2017.
Anthropometric indices, knowledge-attitude-practice on T2D, fasting plasma glucose, HbA1c and blood lipids
were collected.
Results: The average duration of diabetes of the study population is 7.5 years. Proportion of T2D patients
with obesity and dyslipidemia were 49.1% and 72.9% respectively. Over 80% patients are on oral
antihyperglycemia agents. Regarding to the level of glycemic control, only 30% patients has good level. Our study
also indicates that patients have poor knowledge - attitudes – practice on T2D (38.2%, 42.6% and 36.7%
* Bệnh viện Quận 5
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Đoàn Thị Kim Ngân

ĐT: 0913622962

Email:

306 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018

Nghiên cứu Y học

respectively). The associated factors of level of glycemic control are determined as knowledge - practice on T2D;
duration of diabetes, drug use and, blood triglyceride level. After adjusted for duration of diabetes, drug use and
level of education, the association between glycemic control and Knowledge/ Practice on T2D are still significant.
Conclusion: Good glycemic control in our participants is low. The glycemic control is associated

independently with Knowledge and practice on T2D, duration of diabetes, drug use and triglyceridemia.
Keyword: type 2 diabetes mellitus, glycemic control, knowledge-attitude-practice on diabetes mellitus.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là bệnh mạn tính không lây
đang trở thành vấn nạn trên toàn thế giới. Theo
IDF 2015, hiện cả thế giới có hơn 415 triệu
người từ 20 ‐ 79 tuổi mắc đái tháo đường, chiếm
8,8% dân số thế giới và dự báo sẽ tăng lên 642
triệu vào năm 2040 (10,4%), số người tử vong
cao gấp hơn 3 lần so với HIV/AIDS hay lao và
gấp 10 lần so với sốt rét(8). Tại Việt Nam, tỉ lệ
người mắc bệnh đái tháo đường đang gia tăng
nhanh chóng, từ 2,7% (năm 2002) đã tăng lên
gần 5,7% (năm 2012)(2). Mặc dù đã có rất nhiều
tiến bộ trong phương pháp điều trị nhưng
người bệnh đái tháo đường vẫn có nhiều biến
chứng nguy hiểm làm tăng tỉ lệ tử vong và tàn
phế. Rất nhiều người bệnh và gia đình cũng
như các cơ sở y tế trong cả nước đang phải chịu
những gánh nặng về kinh tế do chi phí rất lớn
để điều trị căn bệnh này.
Tăng nồng độ glucose máu là thủ phạm
chính dẫn đến biến chứng mạn tính của đái tháo
đường đặc biệt là biến chứng mạch máu. Điều trị
đái tháo đường nhằm mục đích giảm hoặc mất
các triệu chứng lâm sàng của tăng glucose máu,
duy trì glucose máu càng gần với mức bình
thường càng tốt, nhưng không gây hạ glucose
máu, ngăn ngừa biến chứng cấp tính và mạn

tính duy trì cân nặng lý tưởng nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người bệnh. Do đó điều trị
đái tháo đường là điều trị toàn diện. Để đạt được
mục tiêu này, phương pháp điều trị đái tháo
đường sẽ bao gồm phương pháp dùng thuốc và
không dùng thuốc(1). Phương pháp không dùng
thuốc là điều chỉnh lối sống bao gồm chế độ ăn
hợp lý và vận động thể lực, mà kiến thức ‐ thái
độ ‐ thực hành của bệnh nhân đóng vai trò rất
quan trọng trong phương pháp này.

Các nghiên cứu trong và ngoài nước(1,13,15) đã
chứng minh vai trò của kiến thức ‐ thái độ ‐ thực
hành về việc thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp
lý và tăng cường hoạt động thể lực, thay đổi lối
sống thụ động có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc kiểm soát đường huyết và phòng tránh biến
chứng trong điều trị đái tháo đường týp 2 ở
người trưởng thành. Dinh dưỡng hợp lý và thay
đổi lối sống cũng chính là nội dung truyền tải
chủ yếu trong hoạt động của các Câu lạc bộ Đái
tháo đường tại các bệnh viện.
Tại Bệnh viện Quận 5, nơi cộng đồng người
Hoa chiếm gần 40% dân số trên địa bàn Quận 5,
từ trước đến nay chưa có cuộc khảo sát nào đánh
giá mức độ kiểm soát đường huyết và các yếu tố
liên quan của bệnh nhân đái tháo đường đến
khám. Từ quan điểm đó, việc tiến hành một
nghiên cứu này là điều hết sức cần thiết, kết quả
của nghiên cứu có thể đánh giá mức độ kiểm

soát đường huyết và các yếu tố liên quan, cũng
như kiến thức ‐ thái độ ‐ thực hành về bệnh đái
tháo đường của bệnh nhân, qua đó giúp xây
dựng nội dung giáo dục sức khỏe từ đó phát
triển hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
của Câu lạc bộ Đái tháo đường giúp bệnh nhân
kiểm soát đường huyết, phòng ngừa các biến
chứng hiệu quả hơn.
Mục tiêu
Xác định tỷ lệ mức độ kiến thức ‐ thái độ ‐
thực hành đúng của bệnh nhân đái tháo đường
týp 2 về bệnh đái tháo đường.
Xác định tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường
týp 2 có mức độ kiểm soát đường huyết tốt,
vừa và kém.
Xác định mối liên quan giữa mức độ kiểm
soát đường huyết với kiến thức ‐ thái độ ‐

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 307


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018

thực hành về bệnh đái tháo đường và một số
yếu tố khác.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đang được
quản lý theo dõi điều trị tại Bệnh viện Quận 5.

Tiêu chí chọn mẫu
Bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị
ngoại trú tại Bệnh viện Quận 5 từ tháng 10/2016
đến tháng 6/2017, thỏa điều kiện sau: được điều
trị từ 3 toa thuốc trở lên, trùng thời điểm xét
nghiệm theo dõi đường huyết, HbA1C và bộ mỡ
máu (định kỳ mỗi 3 tháng). ‐ Bệnh nhân đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
Bệnh nhân không có khả năng trả lời câu hỏi
phỏng vấn như bệnh nhân hôn mê, câm, điếc, rối
loạn tâm thần, lú lẫn,...‐ Bệnh nhân đái tháo
đường týp 1, đái tháo đường thai kỳ;‐ Bệnh nhân
đến khám với tình trạng cần cấp cứu.
Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
Cỡ mẫu là 385 được tính theo công thức

biến định tính thứ tự gồm 3 giá trị thấp, trung
bình và cao. Bộ câu hỏi đánh giá kiến thức‐ thái
độ‐ thực hành của bệnh nhân gồm lần lượt là 12,
5 và 11 câu. Số điểm cho mỗi câu hỏi là bằng
nhau (1 điểm nếu chọn đáp án đúng và 0 điểm
nếu không chọn đáp án đúng). Tổng điểm kiến
thức‐ thái độ‐ thực hành sẽ được tính và sử dụng
như là biến định lượng, sau đó sẽ được phân

thành 3 nhóm theo tertile tương ứng với 3 mức
độ kiến thức‐ thái độ‐ thực hành đúng/tích cực là
thấp, trung bình, cao.
Phân tích số liệu
Phân tích số liệu bằng phần mềm IBM SPSS
20.0.
Trước khi tiến hành phân tích, chúng tôi đã
khảo sát các biến số liên tục như kiến thức ‐ thái
độ ‐ thực hành, tuổi, BMI, tỷ lệ mỡ, bộ mỡ, thời
gian mắc bệnh, … để đánh giá mức độ phân
phối chuẩn qua đó sẽ sử dụng phép kiểm thống
kê phù hợp.
Mối liên quan giữa mức độ kiểm soát đường
huyết và các chỉ số nhân trắc (BMI, tỷ lệ mỡ,
vòng eo), bộ mỡ máu của đối tượng nghiên cứu
được xác định bằng phép kiểm Anova (nếu biến
số có phân phối bình thường) hoặc Kruskal‐
Wallis H (nếu biến số có phân phối không bình

(p=0,5; d=0,05; Z=1,96 với α=0,05)

thường), ở mức ý nghĩa α = 0,05. Mối liên quan

Chọn mẫu thuận tiện cho đến khi đủ cỡ mẫu
cần thiết trong thời gian từ tháng 10/2016 đến
tháng 6/2017.

giữa mức độ kiểm soát đường huyết với KAP và

Thu thập số liệu


Kendall’s tau‐b ở mức ý nghĩa α = 0,05. Dùng

Kiến thức ‐ thái độ ‐ thực hành về bệnh
ĐTĐ2, các chỉ số nhân trắc, đường huyết lúc đói,
HbA1C, bộ mỡ máu.

phương pháp phân tích đa biến để tìm mối

Mức độ kiểm soát đường huyết là biến định

đường huyết trên dân số nghiên cứu, hoặc khảo

tính thứ tự gồm 3 giá trị kiểm soát tốt, trung bình

sát mối tương quan giữa các yếu tố nguy cơ đối

và kém; giá trị được xác định như sau: Kiểm soát

với mức độ kiểm soát đường huyết của đối

tốt (HbA1C < 7%), Kiểm soát trung bình (7% ≤

tượng nghiên cứu. Mức p < 0,05 được chọn là

HbA1C < 8%), Kiểm soát kém (HbA1C ≥ 8%).

mức cho thấy sự khác biệt hoặc mối liên quan có

Kiến thức ‐ thái độ ‐ thực hành về ĐTĐ2:


các yếu tố khác (các chỉ số xã hội, tiền sử
bệnh,…) được xác định bằng phép kiểm

tương quan thật sự (nếu có) giữa các biến KAP
về bệnh đái tháo đường với mức độ kiểm soát

ý nghĩa thống kê.

308 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018

Mức độ kiến thức - thái độ - thực hành
đúng/tích cực

KẾT QUẢ
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu được trình
bày dưới dạng Tần suất (tỷ lệ %) hoặc trung
bình (±độ lệch chuẩn) trong bảng 1.
Bảng 1- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm (n = 387)
Tuổi
Giới nữ
Dân tộc Hoa
Trình độ học vấn thấp
Thời gian mắc bệnh < 5 năm
Thừa cân, béo phì

Có rối loạn mỡ máu
Sử dụng Insulin

Tuần suất/
Trung bình
62,4
237
109
153
190
281
282
73

Tỷ lệ (%)/ ±
ĐLC
10,2
61,2%
28,1%
39,5%
49,1%
72,6%
72,9%
18,9%

Tỷ lệ mức độ kiểm soát đường huyết
Tỷ lệ mức độ kiểm soát đường huyết được
trình bày dưới dạng Tần suất và tỷ lệ: n (%)
trong bảng 2. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
tỷ lệ kiểm soát đường huyết tốt (HbA1C < 7)

chiếm 30,2%.
Bảng 2 - Tỷ lệ mức độ kiểm soát đường huyết
Đặc điểm
Kiểm soát kém
Kiểm soát trung bình
Kiểm soát tốt

Nghiên cứu Y học

Tần suất (n = 387)
152
118
117

Tỷ lệ (%)
39,3
30,5
30,2

Tỷ lệ mức độ kiến thức ‐ thái độ ‐ thực hành
đúng/tích cực được trình bày dưới dạng Tần
suất và tỷ lệ: n (%) trong bảng 3.
Bảng 3 - Tỷ lệ mức độ kiến thức - thái độ - thực hành
đúng/tích cực
Đặc điểm
Cao
Trung bình
Thấp
Kiến thức đúng 146 (37,7%) 93 (24%) 148 (38,2%)
Thái độ tích cực 222 (57,4%)

165 (42,6%)
Thực hành đúng 176 (45,5%) 69 (17,8%) 142 (36,7%)

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kiến
thức ‐ thái độ ‐ thực hành chung của đối tượng
nghiên cứu về bệnh đái tháo đường ở mức độ
thấp lần lượt là 38,2% ‐ 42,6% ‐ 45,5%. Kiến thức ‐
thái độ ‐ thực hành của đối tượng nghiên cứu sai
nhiều về các nội dung là việc chia nhỏ bữa ăn
trong ngày, thức ăn cần hạn chế, bệnh nhân điều
trị với insulin nên ăn bữa phụ trước khi đi ngủ,
lợi ích của việc tập thể dục – vận động thể lực
thường xuyên, sử dụng đường ăn kiêng.
Các yếu tố liên quan đến kiểm soát đường
huyết
Các yếu tố liên quan đến kiểm soát đường
huyết được trình bày dưới dạng tần suất (tỷ lệ %)
hoặc trung bình (± độ lệch chuẩn) trong bảng 4.

Bảng 4 - Các yếu tố liên quan đến kiểm soát đường huyết
Đặc điểm
Tuổi
Giới nữ
Dân tộc Hoa
Thời gian bệnh ĐTĐ2 <5 năm
BMI
Vòng eo
Tỷ lệ mỡ
Triglyceride
Cholesterol

Sử dụng thuốc insulin
Kiến thức đúng thấp
Thái độ tích cực thấp
Thực hành đúng thấp
Vận động thể lực <150 phút/tuần

Kiểm soát đường huyết
Tốt
62,7 (±10,9)
68 (58,1%)
25 (21,4%)
79 (67,5%)
25,4 (±3,7)
90,4 (±8,4)
31,2 (±8,0)
2,2 (±1,4)
4,8 (±1,4)
11 (15,1%)
32 (21,6%)
41 (24,8%)
24 (14,8%)
51 (43,6%)

Trung bình
62,4 (±10,0)
70 (59,3%)
36 (30,5%)
57 (48,3%)
25,31 (±4,2)
91,1 (±10,4)

31,2 (±8,1)
2,4 (±1,3)
5,15 (±1,3)
20 (27,4%)
52 (35,1%)
53 (32,1%)
49 (34,5%)
78 (66,1%)

Kém
62,2 (±9,9)
99 (65,1%)
49 (32,2%)
54 (35,5%)
25,5 (±3,7)
91,2 (±8,8)
31,5 (±8,0)
2,8 (±1,9)
5,15 (±1,4)
42 (57,5%)
64 (43,3%)
71 (43,1%)
72 (50,7%)
89 (58,6%)

p
NS**
NS*
NS*
p<0,001*

NS**
NS**
NS**
p<0,01**
NS**
p<0,001*
p<0,05*
NS*
p<0,001*
p<0,001*

Thực hiện phép kiểm *, Kendall’s tau-b; **, Anova

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 309


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018

BÀNLUẬN
Tỷ lệ mức độ kiểm soát đường huyết
Kết quả của chúng tôi tương tự kết quả
nghiên cứu của Hứa Thành Nhân(7) với tỷ lệ
kiểm soát tốt đường huyết là 33,7%; nghiên cứu
của Nguyễn Thị Thu Thảo(13) với HbA1C trung
bình là 7,6 %, tỷ lệ kiểm soát đường huyết tốt là
29,8%, tỷ lệ rối loạn mỡ máu là 73,3%. Các
nghiên cứu của một số nước Châu Á có kết quả
đạt mục tiêu đường huyết tương tự: Tỉ lệ đạt

HbA1C mục tiêu ở Thái Lan là 29,7%(22),
Malaysia 20%(11), ở Trung Quốc là 26,2%(6), ở Hàn
Quốc là 40%(17). Tuy nhiên, ở khu vực Châu Âu,
Bắc Mỹ tình trạng kiểm soát đường huyết tốt
hơn; tỷ lệ HbA1C<7% ở Tây Ban Nha là 50,6%(14),
ở Estonia 50%(16), Na Uy là 65%(9), ở Mỹ là
56,8%(4), ở Canada là 48%(20), Hà Lan là 70,5%(19).
Tỷ lệ kiểm soát tốt đường huyết trong
nghiên cứu của chúng tôi không cao tương tự
các nghiên cứu khác trong nước. Đây là một vấn
đề cần phải được quan tâm vì kiểm soát đường
huyết kém là nguyên nhân đưa đến các biến
chứng nguy hiểm của bệnh đái tháo đường và
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Tỷ lệ mức độ kiến thức - thái độ - thực hành
đúng/tích cực
Nghiên cứu của Vũ Thị Tuyết Mai(21) tại bệnh
viện đa khoa Kiên Giang, tỷ lệ đối tượng có kiến
thức – thái độ ‐ thực hành chưa đạt là 70,2% ‐
3,8% ‐ 55% theo thứ tự. Nghiên cứu của Kaniz
Fatema và cộng sự tại Bangladest(3), tỷ lệ bệnh
nhân có kiến thức kém, trung bình và tốt lần lượt
là 17%, 68% và 15%.
Các yếu tố liên quan đến đường huyết
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến
mức độ kiểm soát đường huyết bao gồm:

Về thời gian mắc bệnh đái tháo đường
Tỷ lệ kiểm soát đường huyết tốt ở nhóm đối

tượng nghiên cứu có thời gian mắc bệnh ĐTĐ2 <
5 năm cao hơn các nhóm còn lại. Tương tự như
trong nghiên cứu của Hứa Thành Nhân, Nguyễn

Thy Khuê(7); nghiên cứu của Alex N.
Goudswaard và cộng sự ở Hà Lan(5) và nghiên
cứu của Yusuf Kayar và cộng sự ở Thổ Nhĩ Kỳ(10):
nhóm bệnh nhân đạt mục tiêu HbA1C<7% có
thời gian mắc bệnh ngắn hơn nhóm chưa đạt.
Điều này có thể giải thích khi thời gian mắc bệnh
càng lâu thì chức năng tiết Insulin của tế bào β
suy giảm làm cho việc kiểm soát đường huyết
thông qua điều chỉnh chế độ ăn uống và điều trị
bằng thuốc viên không còn hiệu quả ở bệnh
nhân ĐTĐ2.
Sự khác biệt về mức đường huyết giữa các
nhóm sử dụng thuốc (tiêm insulin, viên uống
hoặc cả hai) có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Hơn
½ đối tượng nghiên cứu sử dụng insulin có mức
độ kiểm soát đường huyết kém. Tương tự như
trong nghiên cứu của Hứa Thành Nhân, Nguyễn
Thy Khuê(7): nhóm không dùng insulin đạt mục
tiêu HbA1C cao hơn nhóm phải dùng insulin
(p<0,001). Nghiên cứu của Yusuf Kayar và cộng
sự ở Thổ Nhĩ Kỳ(10) cũng cho kết quả tương tự,
nhóm sử dụng insulin và nhóm sử dụng insulin
+ thuốc viên có tỷ lệ kiểm soát đường huyết kém
cao hơn nhóm chỉ sử dụng thuốc viên (p<0,001).
Nghiên cứu của Maysaa Khattab ở Jordan(12):
nhóm sử dụng phối hợp insulin và thuốc viên có

tỷ lệ kiểm soát đường huyết kém cao nhất.
Mối liên quan giữa Triglyceride và mức độ
kiểm soát đường huyết có ý nghĩa thống kê (p <
0,01). Sự tương quan giữa Cholesterol và mức
kiểm soát đường huyết thì không có ý nghĩa
thống kê. Tương tự kết quả nghiên cứu của
Maysaa Khattab ở Jordan(12). Nghiên cứu của
Yusuf Kayar và cộng sự ở Thổ Nhĩ Kỳ(10) cho
thấy toàn bộ bộ mỡ máu đều tương quan có ý
nghĩa thống kê với mức kiểm soát đường huyết.

Về kiến thức - thái độ - thực hành
Ở nhóm mức độ kiểm soát đường huyết
kém, đối tượng nghiên cứu có KAP đúng ở
mức độ thấp chiếm tỷ lệ cao hơn các nhóm
khác, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 (kiến thức) và p<0,001 (thực hành) trừ
sự khác biệt về thái độ thì không có ý nghĩa

310 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
thống kê. Các mối liên quan này vẫn tồn tại
sau khi hiệu chỉnh cho các yếu tố có khả năng
gây nhiễu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu
Thảo, Nguyễn Thanh Minh tại Bệnh viện
Nhân dân Gia Định(13) và nghiên cứu của
Sheikh Mohammed Shariful Islam ở

Bangladest(18).
Chế độ tập luyện thể dục cũng liên quan có ý
nghĩa thống kê với kiểm soát đường huyết
(p<0,05), gần 60% đối tượng nghiên cứu ít tập
luyện thể dục (<150 phút/tuần) có mức độ kiểm
soát đường huyết kém.
Như vậy, kiến thức ‐ thái độ ‐ thực hành về
dinh dưỡng và vận động thể lực trong đái tháo
đường đóng vai trò rất quan trọng trong việc
kiểm soát đường huyết; ADA 2016 đã đưa ra các
khuyến cáo về chế độ dinh dưỡng và tập luyện
trong dự phòng và điều trị đái tháo đường týp
2(1). Việc thực hành không đúng chế độ dinh
dưỡng và tập luyện hàng ngày ở bệnh nhân đái
tháo đường chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt
đến điều trị bệnh, rất khó kiểm soát nồng độ
đường huyết và nhanh xuất hiện các biến chứng
của bệnh đái tháo đường. Vì vậy, trong thực
hành lâm sàng, cần phải tăng cường hơn nữa các
buổi nói chuyện gặp gỡ, trao đổi giữa bác sĩ và
bệnh nhân thông qua các buổi sinh hoạt câu lạc
bộ đái tháo đường trong bệnh viện nhằm đưa
kiến thức, thái độ đúng, cách tiếp cận phù hợp
với lứa tuổi và từ đó giúp bệnh nhân xây dựng
được hành vi đúng về điều trị đái tháo đường.
Các yếu tố khác như tuổi, giới tính, dân
tộc, BMI, vòng eo, tỷ lệ mỡ liên quan không có
ý nghĩa thống kê với mức độ kiểm soát đường
huyết.


KẾT LUẬN
Tỷ lệ bệnh nhân có mức kiểm soát đường
huyết tốt thấp. Mức độ kiểm soát đường huyết
liên quan có ý nghĩa thống kê với Kiến thức ‐
thực hành về bệnh ĐTĐ, chế độ dinh dưỡng, tập
luyện; thời gian mắc bệnh, sử dụng thuốc và
triglyceride máu.

Nghiên cứu Y học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.


11.

12.

13.

14.

15.

16.

American Diabetes Association (2016) "Standards of Medical
Care in Diabetes". The journal of clinical and applied research and
education, 39 (1), p. 1‐112.
Bệnh viện Nội tiết Trung ương (2013) Báo cáo Hội nghị tổng kết
hoạt động của Dự án phòng chống đái tháo đường quốc gia năm
2012 và triển khai kế hoạch năm 2013.
Fatema et al. (2017) "Knowledge attitude and practice
regarding diabetes mellitus among Nondiabetic and diabetic
study participants in Bangladesh". BMC Public Health 364 (17),
p. 10.
Ford ES, Li C, Little RR & Mokdad AH (2008) "Trends in A1C
concentrations among U.S. adults with diagnosed diabetes
from 1999 to 2004". Diabetes Care 31, p., 31, p.102‐104.
Goudswaard AN, Stolk RP, et al (2004) "Patient characteristics
do not predict poor glycaemic control in type 2 diabetes
patients treated in primary care". European Joural of
Epidemiology 19 (6), p.541‐545.

Guo XH, Yuan L, et al (2012) "A nationwide survey of diabetes
education, self‐management and glycemic control in patients
with type 2 diabetes in China". Chinese Medical Journal, 125,
p.4175‐4180.
Hứa Thành Nhân, Nguyễn Thy Khuê (2014) "Tỉ lệ đạt mục
tiêu hba1c và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo
đường típ 2 tại một phòng khám chuyên khoa nội tiết". Tạp chí
Y Học TP. Hồ Chí Minh, 18 (1), tr. 418‐422.
International Diabetes Federation (2015) IDF Diabetes Atlas
Seventh Edition, />edition, 23 june 2016.
Jenssen TG, Tonstad S, et al (2008) "The gap between
guidelines and practice in the treatment of type 2 diabetes A
nationwide survey in Norway”. Diabetes Res Clin Pract, 80,
p.314‐320.
Kayar Y, Ilhan A, Kayar NB et al (2017) "Relationship between
the poor glycemic control and risk factors, life style and
complications". Biomedical Research, 28 (4), p. 1581‐1586.
Mafauzy@ M (2005) "Diabetes control and complications in
private primary healthcare in Malaysia". Med J Malaysia, 60,
p.212‐217.
Maysaa Khattaba, Yousef S. Khaderb, Abdelkarim Al‐
Khawaldehd, Kamel Ajlouni (2010) "Factors associated with
poor glycemic control among patients with Type 2 diabetes".
Journal of Diabetes and Its Complications, 24, p.84–89.
Nguyễn Thị Thu Thảo, Nguyễn Thanh Minh (2009) "Đánh giá
ảnh hưởng truyền thông giáo dục về kiến thức, thái độ thực
hành & các chỉ số kiểm soát trên bệnh nhân đái tháo đường
típ 2". Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 13 (6), tr.78‐79.
Orozco‐Beltran D, Gil‐Guillen VF, et al (2007) "Control of
diabetes and cardiovascular risk factors in patients with type 2

diabetes in primary care. The gap between guidelines and
reality in Spain". Int J Clin Pract 61, p.909‐915.
Qi Li, et al (2014) "A Community‐Based Comprehensive
Intervention Program for 7200 Patients with Type 2 Diabetes
Mellitus in Chongqing (China)". Int. J. Environ. Res. Public
Health, 11, p. 11450‐11463.
Ratsep A, Kalda R, Lember M (2010) "Meeting targets in type
2 diabetes care contributing to good glycaemic control. A
cross‐sectional study from a primary care setting in Estonia".
Eur J Gen Pract, 16, p.85‐91.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 311


Nghiên cứu Y học
17.

18.

19.

20.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018

Rhee SY, Kim YS, Oh S, Choi WH, Park JE, Jeong WJ (2005)
"Diabcare Asia 2001‐‐Korea country report on outcome data
and analysis". Korean J Intern Med 20, p.48‐54.
Sheikh Mohammed Shariful Islam, Louis W Niessen, Jochen
Seissler, Uta Ferrari, Tuhin Biswas, Anwar Islam, and Andreas

Lechner (2015) "Diabetes knowledge and glycemic control
among patients with type 2 diabetes in Bangladesh".
SpringerOpen Journal, 284 (4), p. 1‐7.
Stone MA, Charpentierph (2013) "Quality of Care of People
With Type 2 Diabetes in Eight European ountries ‐Findings
from the Guideline Adherence to Enhance Care (GUIDANCE)
study”. ". Diabetes Care, p.1‐11.
Teoh H, Braga MF, et al (2010) "Patient age, ethnicity, medical
history, and risk factor profile, but not drug insurance
coverage, predict successful attainment of glycemic targets:

21.

22.

Time 2 Do More Quality Enhancement Research Initiative
(T2DM QUERI)". Diabetes Care 33, p.2558‐2560.
Vũ Thị Tuyết Mai (2014) "Kiến thức, thái độ và thực hành về
chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường type 2". Y Học TP.
Hồ Chí Minh, 18 (5), tr. 136‐141.
Worawongprapa O. (2008) "Glycemic control in diabetes with
metabolic syndrome in community hospital". J Med Assoc Thai,
91 (5), p. 641‐7.

Ngày nhận bài báo:

08/01/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:


29/01/2018

Ngày bài báo được đăng:

20/04/2018

312 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018



×