Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá các yếu tố tiên lượng liên quan kháng Methotrexate ở bệnh nhân u nguyên bào nuôi nguy cơ thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.99 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG LIÊN QUAN KHÁNG
METHOTREXATE Ở BỆNH NHÂN U NGUYÊN BÀO
NUÔI NGUY CƠ THẤP
Nguyễn Thái Giang
Trường Đại học Y Hà Nội
Nhiều yếu tố tiên lượng có thể ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh u nguyên bào nuôi. Mục tiêu nghiên
cứu này đánh giá các yếu tố tiên lượng liên quan kháng Methotrexate (MTX) ở bệnh nhân u nguyên bào nuôi
nguy cơ thấp (UNBN-NCT). Nghiên cứu thuần tập tiến cứu được thực hiện trên 204 bệnh nhân UNBN-NCT
(điểm FIGO 0 - 6) điều trị bằng MTX tại Bệnh viện Phụ sản trung ương từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2017.
Các yếu tố có ý nghĩa liên quan kháng MTX ở UNBN-NCT là nồng độ βhCG trước điều trị và kích thước
khối u lớn nhất. Nhóm đối tượng có βhCG trước điều trị từ 104 - 105 IU/l (OR = 2,42, 95%CI: 1,11 - 5,26),
có khối u ≥ 5 cm (OR = 5,16, 95%CI: 1,43 - 18,56) có tăng nguy cơ kháng MTX, so với các nhóm bệnh
nhân không có đặc điểm này. Bảng điểm FIGO có giá trị tiên lượng kháng hóa trị liệu MTX tốt trên nhóm
bệnh nhân UNGN-NCT, đặc biệt hai yếu tố là nồng độ βhCG trước điều trị và kích thước khối u lớn nhất.
Từ khóa: u nguyên bào nuôi nguy cơ thấp, yếu tố tiên lượng, kháng Methotrexate.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U nguyên bào nuôi là nhóm bệnh lý do tân
sản ác tính hoặc có tiềm năng ác tính của các
nguyên bào nuôi. Bệnh thường gặp ở Châu Á,
liên quan đến điều kiện kinh tế xã hội thấp và
dinh dưỡng kém. Bệnh có tiên lượng tốt với
tỷ lệ điều trị khỏi lên đến 98% nếu phát hiện
sớm, nhưng chỉ 87% nếu phát hiện và điều trị
muộn. Năm 1956, Li và cộng sự điều trị thành
công UNBN bằng Methotrexate (MTX) đã mở
ra một kỷ nguyên mới trong điều trị UNBN [1].
Năm 2002, Hiệp hội Sản Phụ khoa thế giới
(FIGO) đã thống nhất phân loại UNBN thành


các nhóm nguy cơ thấp và cao mục đích là để
điều trị phù hợp. Với bệnh nhân nguy cơ thấp,
chỉ cần điều trị đơn hóa trị liệu với MTX hoặc
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thái Giang,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email:
Ngày nhận: 20/12/2018
Ngày được chấp nhận: 02/01/2019

TCNCYH 119 (3) - 2019

Dactinomycin. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ
ra rằng khoảng 30% bệnh nhân UNBN nguy
cơ thấp sẽ kháng đơn hóa trị liệu và phải dùng
đa hóa trị liệu. Theo bảng điểm tiên lượng của
FIGO, có tám yếu tố có giá trị tiên lượng trong
UNBN bao gồm: tuổi, tiền sử sản khoa, loại
thai nghén chỉ điểm, thời gian tiềm tàng, vị trí
nhân di căn, số lượng nhân di căn, tiền sử điều
trị trước đó và nồng độ βhCG trước điều trị.
Năm 2012, Phan Chí Thành có nghiên cứu về
các yếu tố ảnh hưởng việc kháng hóa trị liệu
MTX ở các bệnh nhân UNBN nguy cơ thấp, tuy
nhiên nhóm đối tượng nghiên cứu không thực
sự thuần nhất do một số bệnh nhân được phẫu
thuật cắt tử cung và loại bỏ tổ chức UNBN
nguyên phát. Trong nghiên cứu này chúng tôi
lựa chọn nhóm đối tượng nghiên cứu thuần
nhất là bệnh nhân UNBN nguy cơ thấp và bảo
tồn tử cung. Trên đối tượng nghiên cứu này,

chúng tôi muốn kiểm định giá trị của các yếu
tố tiên lượng theo FIGO và tìm ra những yếu
57


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tố thực sự ảnh hưởng đến kháng hóa trị liệu MTX. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục
tiêu: Đánh giá các yếu tố tiên lượng liên quan kháng Methotrexate ở bệnh nhân u nguyên bào nuôi
nguy cơ thấp.
Bảng 1. Bảng điểm tiên lượng của FIGO năm 2002 [2]
Điểm
Yếu tố tiên lượng

Điểm
0

1

Tuổi (năm)

< 40

≥ 40

Tiền sử sản khoa

Chửa
trứng

Sẩy thai

Nạo thai

Thai đủ
tháng

<4

4-6

7 - 12

>12

< 103

103 - 104

104 - 105

> 105

Kích thước khối u (cm)

<3

3-4

≥5

Vị trí di căn


Phổi

Lách, thận

Ruột

Gan, não

1-4

5-8

>8

Đơn hoá
chất

≥ Hai hoá
chất

Số tháng từ lần có thai cuối đến lúc điều trị
(tháng)
βhCG (IU/1)

Số lượng nhân di căn

2

Điều trị hoá chất trước đó


4

Điểm nguy cơ 0 - 6: Nguy cơ thấp Khởi phát điều trị đơn hóa chất.
Điểm nguy cơ > 7: Nguy cơ cao Khởi phát điều trị đa hóa chất

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu

Tất cả BN chẩn đoán là UNBN nguy cơ thấp
theo phân loại FIGO năm 2002, được điều trị
đơn hóa trị liệu MTX và bảo tồn tử cung tại
Khoa phụ ung thư, Bệnh viện Phụ sản Trung
ương từ 01/01/2015 đến 30/9/2017.
Tiêu chuẩn lựa chọn:

- Có chẩn đoán xác định UNBN sau chửa
trứng theo các tiêu chuẩn của FIGO 2002:
Nồng độ βhCG tăng > 20% trong vòng 2 tuần
liên tiếp, βhCG bình nguyên (± 10%) ba tuần
liên tiếp, nồng độ βhCG còn cao sau 6 tháng
kể từ nạo chửa trứng (> 5 IU/l).

Nghiên cứu thuần tập tiến cứu.
Cỡ mẫu:

n= z

2
1- a 2


p.q
(f.p)

2

α = 0,05, ứng với Z = 1,96, chọn ε = 0,25.
p: tỷ lệ bệnh nhân UNBN kháng MTX là
24,5 % [3].
Cỡ mẫu tối thiểu phải lấy là 186 bệnh nhân
lấy thêm 10%, cỡ mẫu cuối cùng là 204.
Thiết kế nghiên cứu:

- Lập phiếu thu thập thông tin về bệnh nhân
- Tính điểm tiên lượng theo FIGO (chọn
những BN có điểm tử 0 - 6).

- U nguyên bào nuôi sau các thai nghén khác.

- Sau đó bệnh nhân được sử dụng phác đồ
MTX/FA: MTX 50mg tiêm bắp sâu vào ngày 1,
3, 5, 7 xen kẽ với 5mg acid folic tiêm bắp vào
ngày 2, 4, 6, 8. Phác đồ lặp lại theo chu kỳ 14
ngày.

2. Phương pháp nghiên cứu

- Theo dõi sự đáp ứng với điều trị bằng MTX

- Kết quả giải phẫu bệnh lý khi nạo buồng tử

cung là ung thư nguyên bào nuôi.
- Điểm tiên lượng theo FIGO từ 0 đến 6.

58

TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
đến khi bệnh nhân khỏi hoặc kháng MTX.

3. Xử lý số liệu

- Tiêu chuẩn kháng thuốc:[4]

Dùng phần mềm Stata 13, phân tích các
yếu tố tiên lượng theo FIGO theo phương
pháp hồi qui đơn biến để tìm ra yếu tố tiên
lượng có giá trị.

+ Sau mỗi đợt điều trị nồng độ βhCG: tăng
lên, không giảm, giảm dưới 10% sau 2 tuần.
+ Xuất hiện nhân di căn mới cần phải thay
phác đồ hóa trị liệu.
- Những bệnh nhân kháng MTX sẽ được
chuyển phác đồ đa hóa trị liệu.

4. Đạo đức nghiên cứu
Đề tài được thông qua hội đồng đạo
đức Bệnh viện Phụ sản Trung ương ngày

25/01/2015.

III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm bệnh nhân
Nghiên cứu 204 bệnh nhân UNBN nguy cơ thấp cho thấy tuổi trung bình là 26 ( từ 16 - 39 tuổi),
84,3% có ≤ 1 con, thai nghén chỉ điểm chủ yếu là thai trứng (81,4% trường hợp), thời gian tiềm ẩn
trung bình là 2,1 tháng (1 - 14 tháng), 1,5 % trường hợp có tiền sử điều trị MTX, 4,4% có di căn
phổi hoặc âm đạo, nồng độ βhCG trung bình là 11 667,21 UI/l (9,00 – 213 180,00 UI/l), 33,3% có
nhân tại tử cung với đường kính trung bình 33,5 mm (13,00 - 69,00 mm), 9,8% có điểm tiên lượng
theo FIGO ≥ 4.
2. Tỷ lệ và thời điểm kháng đơn hóa trị liệu MTX
Bảng 2. Tỷ lệ kháng MTX của đối tượng nghiên cứu
Kết quả MTX

n

%

Không kháng MTX

148

72,55

Kháng MTX

56

27,45


Tổng

204

100

Có 56/204 (27,5%) bệnh nhân kháng MTX cần phải nâng bậc điều trị bằng đa hóa trị liệu
(EMACO). Thời điểm kháng có thể xuất hiện sau 1 đến 12 chu kì điều trị MTX ( mỗi chu kì khoảng
15 ngày).
3. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kháng MTX
Bảng 3. Phân tích hồi quy đơn biến một số yếu tố liên quan đến kháng MTX ở bệnh nhân
UNBN nguy cơ thấp (N = 204)
Yếu tố nguy cơ
Tuổi

TCNCYH 119 (3) - 2019

OR

95% CI

p

< 20

1

20 - 30

0,90


0,37 - 2,17

0,82

> 30

0,75

0,27 - 2,09

0,59

59


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Yếu tố nguy cơ
Tiền sử sản khoa

Thời gian tiềm ẩn (tháng)

Nồng độ βhCG trước điều trị

Kích thước khối u lớn nhất

Di căn

Số lượng nhân di căn ở phổi và
âm đạo


Tiền sử điều trị MTX trước đó

Kích thước tử cung

OR

95% CI

p

0,34 - 1,78

0,56

Chửa trứng

1

Khác chửa trứng

0,78

< 4 tháng

1

4 - <7 tháng

1,10


0,40 - 3,01

0,84

7 - <13 tháng

1,84

0,29 - 11,38

0,51

≥ 13 tháng

-

-

-

< 1000 IU/l

1

1000 - < 10000 IU/l

1,38

0,64 - 2,96


0,39

10000 - < 100000 IU/l

2,42

1,11 - 5,26

0,025*

> 100000 IU/l

3,83

0,50 - 29,11

0,19

< 3 cm

1

3 - 4 cm

1,02

0,44 - 2,36

0,96


≥ 5 cm

5,16

1,43 - 18,56

0,012*

Không

1



1,33

0,32 - 5,54

0,68

0

1

1

1,07

0,20 - 5,69


0,93

-

-

-

-

-

-

2
3

-

Chưa điều trị MTX

1

Đã điều trị MTX

-

< 120 cm3


1

120-240 cm3

0,98

0,50 - 1,90

0,95

> 240 cm3

1,05

0,30 - 3,59

0,93

Các yếu tố có ý nghĩa thống kê với việc tăng kháng đơn hóa trị liệu MTX trên bệnh nhân UNBN
nguy cơ thấp là nồng độ βhCG trước điều trị trong khoảng 104 – 105 IU/l và kích thước khối u lớn
nhất ≥ 5 cm.

60

TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3. Tỷ lệ kháng hóa trị liệu MTX theo điểm FIGO
Bảng 4. Tỷ lệ kháng hóa trị liệu MTX theo điểm FIGO

FIGO

Không kháng MTX (n = 148)

Kháng MTX (n = 56)

n

%

n

%

0

44

88,00

6

12,00

1

44

74,58


15

25,42

2

29

69,05

13

30,95

3

21

63,64

12

36,36

4

6

46,15


7

53,85

5

3

75,00

1

25,00

6

1

33,33

2

66,67

p

0,01

Điểm FIGO tăng thì tỷ lệ kháng MTX cũng tăng. Sự khác biệt về tỷ lệ kháng theo điểm FIGO có
ý nghĩa thống kê (p = 0,01).


IV. BÀN LUẬN
Phân tích hồi quy đơn biến một số yếu tố
liên quan với kháng MTX ở bệnh nhân UNBN
nguy cơ thấp (bảng 3), chúng tôi thấy: tuổi;
tiền sử sản khoa; thời gian tiềm ẩn; vị trí di
căn; số lượng nhân di căn; tiền sử điều trị MTX
trước đó; kích thước tử cung không liên quan
với kháng đơn hóa trị liệu MTX (p > 0,05). Các
yếu tố có ý nghĩa thống kê với việc tăng kháng
đơn hóa trị liệu MTX trên bệnh nhân UNBN là
nồng độ βhCG trước điều trị và kích thước khối
u lớn nhất.
Bệnh nhân UNBN có nồng độ βhCG trước
điều trị từ 104 - 105 IU/l có nguy cơ kháng MTX
cao gấp 2,42 lần (95% CI: 1,11 - 5,26) bệnh
nhân UNBN có nồng độ βhCG < 103 IU/l (p
< 0,05). Khi phân nhóm với điểm cắt βhCG là
10000UI/l, chúng tôi thấy tỷ lệ kháng hóa trị
liệu MTX tăng 2,17 lần khi nồng độ βhCG trước
điều trị ≥ 10000 IU/l. Kết quả này của chúng
tôi phù hợp với nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước. Taylor thấy những bệnh
nhân có nồng độ βhCG > 100000 UI/l có tỷ lệ
kháng hóa trị liệu MTX cao hơn so với những
TCNCYH 119 (3) - 2019

bệnh nhân có βhCG < 100000 UI/l (84% so với
34%, p < 0,0001) [5]. Mousavi thấy khi nồng
độ βhCG > 100000 UI/l tỷ lệ kháng hóa trị liệu

MTX tăng lên 5,86 lần so với những bệnh nhân
có βhCG < 100000 UI/l [6]. Phan Chí Thành
thấy tại điểm cắt βhCG = 40000 UI/l tỷ lệ kháng
thuốc tăng gấp 2,4 lần (OR = 2,42, 95% CI:
1,3 - 4,2) [3]. Cũng tại điểm cắt này Kiều Thanh
Vân thấy tỷ kệ kháng MTX tăng gấp 3,75 lần.
Lê Sỹ Phương thấy nồng độ βhCG trước điều
trị có liên quan đến kháng MTX, tại điểm cắt
17609 IU/l, nguy cơ kháng thuốc tăng gấp 10
lần, dự báo với độ nhạy 57,1% và độ đặc hiệu
90% [7].
Bệnh nhân UNBN có kích thước khối u lớn
nhất ≥ 5 cm có nguy cơ kháng MTX cao gấp
5,16 lần (95% CI: 1,43 - 18,56) bệnh nhân có
kích thước u < 3 cm (p < 0,05). Nhân tại tử
cung thường có kích thước tổn thương lớn
nhất trong UNBN và là một thành phần quan
trọng trong tính điểm tiên lượng của FIGO. Từ
năm 1976, kích thước lớn nhất của khối u đã
được đưa vào trong bảng điểm tiên lượng của
Bagshawe và là một trong những yếu tố chủ

61


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
đạo của các bảng điểm tiên lượng sau này như
của WHO năm 1983 và của FIGO năm 2002.
Trong những trường hợp UNBN nguy cơ thấp,
thường không có di căn ở các cơ quan khác

như đường tiêu hóa, thận, gan, não nên nhân
tại tử cung thường là khối u có đường kính lớn
nhất. Do vậy vai trò tiên lượng của nhân tại tử
cung, thường là khối u có đường kính lớn nhất,
lại càng nổi bật. Lurain (1991) thấy đường kính
của khối u lớn nhất (bao gồm cả u tại tử cung)
ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đến cơ hội
sống của bệnh nhân UNBN có di căn [8]. Tỷ lệ
sống sót là 92% với bệnh nhân có khối u nhỏ
hơn 3 cm, khi khối u từ 3 - 5 cm tỷ lệ này là
73%, còn khi khối u lớn hơn 5 cm, tỷ lệ sống
sót chỉ là 52% (p < 0,0001). Mousavi nhận thấy
nguy cơ kháng tăng lên 7,73 lần ở những bệnh
nhân có đường kính nhân tại tử cung ≥ 3cm
so với nhóm không nhân [6]. Lê Sỹ Phương
nghiên cứu 92 bệnh nhân UNBN nguy cơ thấp
điều trị bằng đơn hóa trị liệu MTX và nhận thấy
khi kích thước nhân tại tử cung tăng lên thì tỷ lệ
kháng MTX tăng lên. Nhóm không có nhân tại
tử cung, nhân < 3 cm, nhân 3 - 4 cm và nhân
≥ 5cm có tỷ lệ kháng MTX lần lượt là 11,1%,
17,4%, 42,9% và 50%) tuy nhiên sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê do mẫu nghiên cứu
còn nhỏ [7]. Phan Chí Thành nhận thấy nhân
tại tử cung làm tăng nguy cơ kháng thuốc 1,9
lần (OR = 1,905; CI-95: 1,1 - 3,1) nhưng không
thấy sự khác biệt về tỷ lệ kháng hóa trị liệu khi
đường kính nhân tăng.
Bảng 4 cho thấy xu hướng khi điểm FIGO
càng tăng thì tỷ lệ kháng MTX cũng càng tăng.

Sự khác biệt về tỷ lệ kháng theo điểm FIGO có
ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bảng điểm FIGO
năm 2002 là kết quả của nhiều năm nghiên
cứu và tổng kết lại các yếu tố có ý nghĩa tiên
lượng ở bệnh nhân UNBN. Bảng điểm tiên
lượng này gồm 8 yếu tố tổng hợp, mỗi yếu tố
cho điểm từ 0 đến 4. Điều trị bệnh nhân UNBN
62

dựa trên bảng điểm FIGO là hướng dẫn thực
hành lâm sàng chuẩn của các trung tâm điều
trị ung thư. Điều này cho thấy giá trị và ý nghĩa
của mỗi điểm tiên lượng theo FIGO ảnh hưởng
đến kết quả điều trị cũng như tỷ lệ kháng hóa
trị liệu. Bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi có
phân phối không đều, tập trung ở nhóm điểm
tiên lượng nguy cơ thấp thực sự. Nhóm bệnh
nhân có điểm ≥ 4 chỉ chiếm 9,8% bệnh nhân,
tỷ lệ kháng MTX ở nhóm này là 50%.
Trong thời gian tiến hành nghiên cứu chúng
tôi thấy nhiều bệnh nhân không được tính
điểm tiên lượng một cách hệ thống hoặc được
điều trị dựa trên yếu tố kinh nghiệm ngay bằng
đa hóa trị liệu khi thấy điểm tiên lượng FIGO ≥
5. Khi tỷ lệ thất bại lên đến trên 50% khi điều
trị đơn hóa trị liệu MTX cho những bệnh nhân
FIGO ≥ 5 khiến các bác sỹ lo lắng và buộc phải
điều trị theo kinh nghiệm và theo khuyến cáo
cũ của WHO. Không chỉ có chúng tôi nâng bậc
điều trị cho bệnh nhân có FIGO 5 hoặc 6 do

tỷ lệ kháng cao, Chapman-Davis thấy có đến
một nửa số bệnh nhân có điểm FIGO 5 hoặc 6
được điều trị bằng đa hóa trị liệu [5; 9]. Do đó,
tìm thêm những yếu tố tiên lượng và những
bằng chứng để chọn lọc tốt hơn những bệnh
nhân UNBN nguy cơ thấp nhưng cần điều trị
bằng đa hóa trị liệu và tránh phải thay đổi phác
đồ hóa trị liệu là điều cần thiết. Thay đổi phác
đồ do kháng đơn hóa trị liệu MTX sẽ kéo dài
quá trình điều trị và gây căng thẳng tâm lý cho
bệnh nhân, không những thế còn làm chậm
khả năng có thai ở bệnh nhân có nhu cầu sinh
đẻ.

V. KẾT LUẬN
Yếu tố có ý nghĩa tiên lượng kháng đơn
hóa trị liệu MTX ở bệnh nhân UNBN nguy cơ
thấp là nồng độ βhCG trước điều trị và kích
thước khối u lớn nhất. Bảng điểm tiên lượng
của FIGO có giá trị tiên lượng kháng MTX tốt.
TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
50% bệnh nhân có điểm FIGO ≥ 4 kháng với
đơn hóa trị liệu MTX.

Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu xin trân trọng cảm ơn các
bệnh nhân và phòng ban liên quan đã giúp đỡ,

hợp tác trong quá trình nghiên cứu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. C. Li, R. Hertz và D. B. Spencer
(1956). Effect of methotrexate therapy
upon choriocarcinoma and chorioadenoma.
Experimental Biology and Medicine, 93 (2),
361-366..
2. F. O. Committee (2002). FIGO staging
for gestational trophoblastic neoplasia 2000.
International Journal of Gynecology and
Obstetrics, 77 (3), 285-287.
3. Phan Chí Thành (2012). Nghiên cứu tỷ
lệ kháng thuốc và yếu tố liên quan trong điều
trị u nguyên bào nuôi bằng MTX và acid folic
tại BVPSTU. Luận văn BSNT, Trường Đại học
Y Hà Nội.
4. F. Feng, Y. Xiang, X. Wan et al (2010).
Prognosis of patients with relapsed and
chemoresistant gestational trophoblastic
neoplasia transferred to the Peking
Union Medical College Hospital. BJOG:
An International Journal of Obstetrics &
Gynaecology, 117 (1), 47-52.

5. F. Taylor, T. Grew, J. Everard et al
(2013). The outcome of patients with low risk
gestational trophoblastic neoplasia treated
with single agent intramuscular methotrexate
and oral folinic acid. European Journal of

Cancer, 49 (15), 3184-3190.
6. A. S. Mousavi, A. Zamani, F.
Khorasanizadeh et al (2015). Resistance
to single-agent chemotherapy and its risk
factors in low-risk gestational trophoblastic
neoplasms. Journal of obstetrics and
gynaecology research, 41 (5), 776-783.
7. Lê Sỹ Phương (2009). Đánh giá hiệu
quả của phác đồ MTX/FA trong điều trị u
nguyên bào nuôi nguy cơ thấp theo FIGO
2000 và các yếu tố tiên lượng kháng thuốc.
8. J. R. Lurain, L. A. Casanova, D.
S. Miller et al (1991). Prognostic factors
in gestational trophoblastic tumors: a
proposed new scoring system based on
multivariate analysis. American journal of
obstetrics and gynecology, 164 (2), 611616.
9. E. Chapman-Davis, A. V. Hoekstra,
A. W. Rademaker et al (2012). Treatment
of nonmetastatic and metastatic low-risk
gestational trophoblastic neoplasia: factors
associated with resistance to single-agent
methotrexate chemotherapy. Gynecologic
oncology, 125 (3), 572-575.

Summary
EVALUATION OF PROGNOSTIC FACTORS RELATED TO
METHOTREXATE RESISTANCE IN LOW-RISK GESTATIONAL
TROPHOBLASTIC DISEASE
Successful treatments of low-risk gestational trophoblastic neoplasia (LR-GTN) might be

affected by multiple prognostic factors. This study aimed to evaluate factors that are related to
Methotrexate (MTX) resistance in patients with LR-GTN. A prospective cohort study was conducted
on 204 LR-GTN patients (who were categorized by FIGO score ranged from 0 – 6) who were
treated with MTX at National Hospital of Obstetrics and Gynecology from January 2015 to
TCNCYH 119 (3) - 2019

63


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
September 2017. The results showed that two significant factors associated with MTX resistance
were baseline βhCG serum and the largest tumor size. Those who had baseline β-hCG serum
between 104 - 105 IU/l (OR = 2.42, 95%CI: 1.11 - 5.26), had tumor size ≥ 5 cm (OR = 5.16, 95%CI:
1.43 - 18.56) had an increased likelihood of MTX resistance, compared to their counterparts. In
conclusion, FIGO prognostic scoring system was useful to predict the risk of MTX-resistance
on LR-GTN patients, especially two factors: baseline βhCG serum and the largest tumor size.
Keywords: Low-risk GTN, pronostic factors, MTX resistance.

64

TCNCYH 119 (3) - 2019



×