Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân trầm cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.12 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT TỶ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA Ở BỆNH NHÂN TRẦM CẢM
Trần Mỹ Cung*, Bùi Thị Hương Quỳnh*

TÓM TẮT
Mở đầu: Rối loạn chuyển hoá là một trong những bệnh thường gặp ở những bệnh nhân mắc các bệnh lý
thần kinh.
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến rối loạn chuyển
hóa ở bệnh nhân trầm cảm tới khám tại phòng khám tâm thần kinh bệnh viện Đại học Y Dược – thành phố Hồ
Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện bằng cách phỏng vấn 299 BN trầm cảm
ngoại trú và ghi nhận các yếu tố của rối loạn chuyển hoá qua phiếu thu thập thông tin. Tiêu chuẩn chọn mẫu là
bệnh nhân đủ 18 tuổi trở lên, được chẩn đoán rối loạn trầm cảm chủ yếu, đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Bệnh
nhân không đầy đủ thông tin được loại ra khỏi nghiên cứu. Dùng phương pháp hồi quy logistic để xác định các
yếu tố liên quan đến rối loạn chuyển hoá trong các yếu tố khảo sát của dân số nghiên cứu.
Kết quả: Tỷ lệ rối loạn chuyển hoá trên bệnh nhân trầm cảm là 48,2%. Các yếu tố liên quan đến rối loạn
chuyển hoá bao gồm: tuổi cao, nữ giới, hút thuốc lá, uống bia rượu nhiều hơn 1 đơn vị/tháng, thể dục ít hơn 3
ngày/tuần, thời gian mắc bệnh dài và chỉ số khối cơ thể cao (p < 0,05).
Kết luận: Gần một nửa bệnh nhân trầm cảm mắc rối loạn chuyển hoá. Cần đánh giá thường xuyên rối loạn
chuyển hoá và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác trên bệnh nhân trầm cảm, đồng thời có những chiến lược kiểm
soát tốt các yếu tố này.
Từ khóa: Hội chứng chuyển hóa, rối loạn chuyển hóa, trầm cảm.

ABSTRACT
PREVALENCE AND RELATED FACTORS OF METABOLIC SYNDROME AMONG PATIENTS WITH
MAJOR DEPRESSIVE DISORDER
Tran My Cung, Bui Thi Huong Quynh


* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 ‐ No 5‐ 2018: 51 – 56
Background: Metabolic syndrome (MS) is one of the common disease in patient with neurologic disorders.
Objectives: This study aimed to investigate the prevalence and related factors of MS among outpatients
with major depressive disorder (MDD) at Psychiatric clinic, University Medical Center Ho Chi Minh City.
Methods: A cross sectional study was conducted, in which 299 adult outpatients with MDD were
interviewed and recorded for all MS components. We included patients aged 18 years or older, diagnosed with
MDD and who agreed to participate in our study. Patients who had insufficient information of the survey were
excluded. Related factors of MS were analyzed using binominal logistic regression.
Results: The prevalence of MS in MDD patients was 48.2%. Related factors of MS in patients with MDD
were greater age, female, smoking, drinking alcohol more than 1 unit per month, doing exercises less than 3 days
per week, longer duration of MDD and higher body mass index (p < 0.05).
Conclusions: Approximately a half of depressed patients suffered from MS. Consequently, patients with
* Bộ môn Dược Lâm sàng, Khoa Dược ‐ Đại học Y Dược TP HCM.
Tác giả liên lạc: TS. Bùi Thị Hương Quỳnh, ĐT: 0912261353,
Email:

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

51


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

MDD should be periodically evaluated for the presence of MS and other cardiovascular risk factors.
Simultaneously, appropriate management strategies should be instituted for patients.
Keywords: Metabolic syndrome, metabolic abnormalities, depressive disorder.
09/12/2017 đến 31/05/2018, đồng ý tham gia vào
ĐẶT VẤN ĐỀ

nghiên cứu.
Trầm cảm và rối loạn chuyển hoá (RLCH) là
Tiêu chuẩn loại trừ
các căn bệnh ngày càng phổ biến và có mối liên
BN không đủ thông tin khảo sát.
hệ tương đối chặt chẽ với nhau(10), góp phần
đáng kể vào gánh nặng bệnh tật cho xã hội. Các
Phương pháp nghiên cứu
tài liệu y văn cho thấy bệnh nhân (BN) trầm cảm
Cắt ngang mô tả.
có nguy cơ RLCH cao hơn 1,5 ‐ 2,5 lần so với
Cỡ mẫu
nhóm không bệnh, từ đó, làm tăng nguy cơ tử
Với hệ số tin cậy Z = 1,96, độ tin cậy 95%, sai
vong do bệnh tim mạch vành ở BN trầm cảm lên
số tuyệt đối d = 0,05, tỷ lệ RLCH trên BN trầm
4 lần(8,9,14); ngược lại RLCH làm tăng khả năng
cảm theo một nghiên cứu của Silarova là
mắc trầm cảm 2 lần. Các nghiên cứu cho thấy tỷ
20,02%(12), thay vào công thức tính cỡ mẫu n =
lệ RLCH trên BN trầm cảm chiếm đến 20 ‐
Z21‐α/2.p.(1‐p)/d2, chúng tôi tính được cỡ mẫu tối
48,1%(2,5,8,10,12,14) và cũng chỉ ra rằng BN trầm
thiểu là 246 BN.
cảm mắc RLCH có nguy cơ tử vong tim mạch 10
Trên thực tế, chúng tôi chọn được 299 BN
năm cao hơn 2 lần so với người khỏe mạnh(3).
tham
gia nghiên cứu.
Đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định các

yếu tố liên quan đến RLCH trên BN trầm cảm.
Có nghiên cứu cho thấy tuổi, nữ giới và tình
trạng hút thuốc là yếu tố liên quan, lại có những
nghiên cứu cho kết quả ngược lại(8,13). Một số
yếu tố khác được xem là yếu tố liên quan bao
gồm, thời gian mắc bệnh dài, chỉ số khối cơ thể
cao, uống nhiều rượu, kết hôn, trình độ văn hóa
thấp, đông con và không có tiền sử nhập
viện(2,5,8,13,14). Tuy nhiên, các kết quả này vẫn
chưa nhất quán và phụ thuộc nhiều vào đặc
điểm của dân số nghiên cứu.
Đến nay, vẫn còn thiếu các công trình nghiên
cứu về RLCH trên BN trầm cảm Việt Nam giúp
xây dựng chiến lược điều trị rối loạn trầm cảm
hiệu quả hơn. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu nhằm xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan
đến RLCH ở BN trầm cảm.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn mẫu
BN rối loạn trầm cảm chủ yếu có mã phân
loại theo ICD‐10(15) là F32, F33 được điều trị
ngoại trú tại phòng khám Tâm thần kinh, Bệnh
viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh từ

52

Chẩn đoán RLCH

Bệnh nhân trong nghiên cứu được xem là
có RLCH khi thoả mãn các tiêu chuẩn của
khuyến cáo NCEP ATPIII – là những BN có từ
3 trong 5 đặc điểm sau đây: Đường huyết đói ≥
100 mg/dL (hoặc đang sử dụng thuốc hạ
đường huyết), huyết áp ≥ 130/85 mmHg (hoặc
đang sử dụng thuốc hạ huyết áp), nồng độ
triglycerid ≥ 150 mg/dL (1,69 mmol/L), HDL‐C
≤ 40 mg/dL (1,03 mmol/L) ở nam hay ≤ 50
mg/dL (1,29 mmol/L) ở nữ, vòng bụng ≥ 90 cm
ở nam hay ≥ 80 cm ở nữ(1).
Phân tích số liệu
Dùng phần mềm SPSS 24 và Excel 2010.
Biểu diễn biến phân loại qua tần suất và tỷ
lệ, biến liên tục qua trung bình và độ lệch chuẩn.
So sánh 2 tỷ lệ bằng phép kiểm chi bình phương,
so sánh 2 trung bình bằng phép kiểm t‐test hoặc
Mann‐Whitney U. Các yếu tố liên quan đến
RLCH được xác định bằng phân tích hồi quy
logistic. Biến phụ thuộc là RLCH (có/không).
Biến độc lập bao gồm: loại trầm cảm, tuổi, giới
tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, nghề nghiệp,
tình trạng hôn nhân, tiền sử gia đình, hút thuốc

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
lá, uống rượu, tập thể dục, thời gian mắc bệnh,
BMI. Khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê

khi p < 0,05.

KẾT QUẢ
Tỷ lệ RLCH và đặc điểm của BN

Nghiên cứu Y học

RLCH là 144/299 BN (48,2%). Đa số BN ở nhóm
trầm cảm tái diễn có RLCH. Tỷ lệ RLCH tăng
dần theo đội tuổi của BN. Phân bố BN theo các
nhóm có và không có RLCH được trình bày
trong bảng 1.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ BN bị
Bảng 1. Đặc điểm của dân số nghiên cứu
Đặc điểm

Tổng số
(n=299)

Trầm cảm
Trầm cảm tái diễn
Tuổi
< 40 tuổi
40 - 59 tuổi
≥ 60 tuổi

264 (88,3%)
35 (11,7%)
43,1±14,7

128 (42,8%)
128 (42,8%)
43 (14,4%)

Nam
Nữ

83 (27,8%)
216 (72,2%)

Nông thôn
Thành thị

117 (39,1%)
182 (60,1%)

≤ Cấp I
Cấp II
Cấp III
Sau cấp III

60 (20,1%)
82 (27,4%)
56 (18,7%)
101 (33,8%)

Độc thân
Đã kết hôn
Li dị
Góa bụa


64 (21,4%)
211 (70,6%)
11 (3,7%)
13 (4,3%)

Không


246 (82,3%)
53 (17,7%)

Không


261 (87,3%)
38 (12,7%)

< 1 đơn vị/tháng
≥ 1 đơn vị/tháng

262 (87,6%)
37 (12,4%)

< 3 ngày/tuần
≥ 3 ngày/tuần
Thời gian mắc bệnh, năm
2
Chỉ số khối cơ thể (BMI), kg/m


203 (67,9%)
96 (32,1%)
1,95±3,28
22,3±3,1

Hội chứng chuyển hóa
Không (n=155)
Có (n=144)
Chẩn đoán
149 (56,4%)
115 (43,6%)
6 (17,1%)
29 (82,9%)
43,1±14,6
49,6±12,7
93 (72,7%)
35 (27,3%)
49 (38,3%)
79 (61,7%)
13 (30,2%)
30 (69,8%)
Giới tính
44 (53%)
39 (47%)
111 (51,4%)
105 (48,6%)
Nơi cư trú
60 (51,3%)
57 (48,7%)
95 (52,2%)

87 (47,8%)
Trình độ học vấn
23 (38,3%)
37 (61,7%)
30 (36,6%)
52 (63,4%)
36 (64,3%)
20 (35,7%)
66 (65,3%)
35 (34,7%)
Tình trạng hôn nhân
51 (79,7%)
13 (20,3%)
94 (44,5%)
117 (55,5%)
6 (54,5%)
5 (45,5%)
4 (30,8%)
9 (69,2%)
Tiền sử gia đình
134 (54,5%)
112 (45,5%)
21 (26,3%)
32 (73,7%)
Hút thuốc lá
145 (55,6%)
116 (44,4%)
10 (26,3%)
28 (73,7%)
Uống rượu

143 (54,6%)
119 (45,4%)
12 (32,4%)
25 (67,6%)
Thể dục
70 (34,5%)
133 (65,5%)
85 (88,5%)
11 (11,5%)
0,95±1,44
3,02±4,24
22,3±3,1
23,7±2,8

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Giá trị p

< 0,001
< 0,001
< 0,001

0,801

0,877

< 0,001

< 0,001


0,05

0,001

0,012

< 0,001
< 0,001
< 0,001

53


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Các yếu tố liên quan đến RLCH

hữu ích(9,10).

Kết quả phân tích hồi quy logistics cho thấy
các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê đến
RLCH bao gồm tuổi của BN, giới tính nữ, BN có
hút thuốc lá, uống rượu nhiều hơn 1 đơn
vị/tháng, ít tập thể dục, thời gian mắc bệnh và
chỉ số khối cơ thể. Kết quả cụ thể được trình bày
trong bảng 2.

Nói chung, trầm cảm tái diễn chiếm tỷ lệ nhỏ

trong dân số nghiên cứu (11,7%), tuy nhiên, tỷ lệ
RLCH trong nhóm BN này (82,9%) cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm trầm cảm mới mắc
(43,6%), p < 0,001. Điều này phù hợp với nghiên
cứu của Grover thực hiện tại Ấn Độ năm 2017
với tỷ lệ trầm cảm tái diễn chỉ chiếm 36,7% dân
số nhưng tỷ lệ RLCH trong nhóm BN này lại cao
hơn một có ý nghĩa thống kê so với nhóm trầm
cảm mới mắc (tỷ lệ lần lượt là 61% và 34%, p =
0,001)(5). Bên cạnh đó, nghiên cứu của nhóm
Goldbacher tại Mỹ năm 2009 cũng cho thấy BN
trầm cảm tái diễn có nguy cơ RLCH cao hơn 1,66
lần BN trầm cảm mới mắc(4). Tuy nhiên, trong
một bài tổng quan của Kozumplik năm 2011 lại
cho thấy trầm cảm tái diễn chỉ làm tăng tỷ lệ
RLCH ở nữ giới, còn nam thì không(8). Thời gian
mắc bệnh lâu và ảnh hưởng của các thuốc tâm
thần kinh có thể là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ
RLCH cao hơn ở BN trầm cảm tái diễn.

Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến RLCH
Yếu tố
Tuổi
Giới, nữ
Có hút thuốc lá
Có uống rượu (≥1 đơn
vị/tháng)
Tập thể dục (<3 ngày/tuần)
Thời gian mắc bệnh
Chỉ số khối cơ thể


OR
CI 95%
p
1,128 1,086-1,171 <0,001
16,312 3,98-66,861 <0,001
24,852 4,953-124,693 <0,001
5,137 1,352-19,519 0,016
73,715 21,557-252,067<0,001
1,574 1,235-2,005 <0,001
1,511 1,287-1,775 <0,001

BÀNLUẬN
Tỷ lệ RLCH trong nghiên cứu chiếm đến
48,2%. Kết quả này cao hơn so với tỷ lệ RLCH
trên BN trầm cảm tổng hợp từ hai phân tích gộp
của Vancampfort vào năm 2015 và 2013 (lần lượt
là 31,3% và 26,7‐38,8%)(13,14). Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi tương tự so với nghiên cứu của
Grover thực hiện tại Ấn Độ năm 2017(5) và
Alosaimi tại Ả Rập Xê Út năm 2017(2) ghi nhận tỷ
lệ RLCH trên BN trầm cảm lần lượt là 44,3% và
47,5%. Sự phổ biến của RLCH trên BN trầm cảm
có thể được giải thích bởi một số giả thiết. Trước
tiên, trạng thái trầm cảm có thể làm tăng hoạt
động của trục hạ đồi‐tuyến yên‐tuyến thượng
thận, từ đó làm tăng cortisol máu, gây bất
thường cân bằng nội môi, gia tăng đường huyết
và các thành phần mỡ máu. Một hậu quả điển
hình của tăng cortisol máu là sự tái phân bố mô

mỡ, gây tích trữ mỡ bụng và béo phì bụng. Một
vài cơ chế khác liên quan đến hệ thần kinh tự
động, tình trạng viêm mạn tính cấp thấp sinh ra
các cytokin kháng glucocorticoid, stress oxy và
nitơ cũng đã được chứng minh. Một nguyên
nhân quan trọng khác dẫn đến RLCH là BN
trầm cảm thường có lối sống kém lành mạnh, ít
vận động và chế độ ăn giàu năng lượng với chất
đường, chất béo, ít rau xanh và các dạng đạm

54

Dân số khảo sát có độ tuổi dao động trong
khoảng rộng, từ 18 đến 82, tuổi trung bình là 43
tuổi. Tỷ lệ RLCH tăng dần một cách có ý nghĩa
theo độ tăng của các nhóm tuổi (p < 0,001), phù
hợp với kết quả nghiên cứu của nhóm Alosaimi
tại Ả Rập Xê Út năm 2017(2). Độ tuổi trung bình
khoảng 42 tuổi và lứa tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là
từ dưới 60 tuổi. BN là nữ nhiều hơn khoảng 2,5
lần so với số BN nam. BN sống chủ yếu ở thành
thị và có trình độ chủ yếu là từ cấp 3 trở lên
(52,5%). Trong dân số nghiên cứu, BN chủ yếu là
đã kết hôn (70,6%) và không có tiền sử gia đình
mắc bệnh RLCH (82,3%). Đa số BN không hút
thuốc lá và ít uống rượu. BN chủ yếu mới được
chẩn đoán bệnh với thời gian mắc bệnh khoảng
gần 2 năm.
Các yếu tố liên quan đến RLCH khảo sát
được trong nghiên cứu bao gồm: tuổi cao, nữ

giới, hút thuốc lá, thể dục ít hơn 3 ngày/tuần,
thời gian mắc bệnh dài, chỉ số khối cơ thể cao (p
< 0,001), uống bia rượu nhiều hơn 1 đơn vị/tháng
(p = 0,016). Trong đó, tập thể dục ít hơn 3
ngày/tuần và hút thuốc lá là hai yếu tố ảnh

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
hưởng nhiều nhất.
Sự gia tăng tuổi làm tăng nguy cơ RLCH
trên BN trầm cảm, điều này đã được khẳng
định trong nhiều nghiên cứu trước đây như
nghiên cứu của nhóm Grover thực hiện tại Ấn
Độ năm 2017 (OR = 1,03, p = 0,002)(5) và nghiên
cứu của Hung tại Đài Loan năm 2014(6) (OR =
1,05, p = 0,04), nghiên cứu của Marazziti năm
2014(9) và Vancampfort năm 2015 (OR = 1,06, p
= 0,04)(13). Tuy nhiên, nghiên cứu của
Kozumplik năm 2011 lại chỉ ra rằng tuổi
không phải yếu tố nguy cơ của RLCH(8). Sự gia
tăng tỷ lệ RLCH theo độ tuổi có thể được giải
thích do hoạt động thể chất giảm theo độ tuổi,
có thể do giảm hoạt động thể thao, thiếu hứng
thú hoặc động lực, hay thay đổi thói quen sinh
hoạt gia đình(9).
Về giới tính, kết quả nghiên cứu cho thấy
nữ giới có nguy cơ mắc RLCH cao hơn nam
giới 16 lần. Marazziti cũng chỉ ra nữ giới có

nguy cơ mắc RLCH cao hơn nam giới(9). Ngược
lại, nghiên cứu của Kozumplik năm 2011 lại
không cho kết quả tương tự(8). Đã có một số lời
giải thích được đưa ra cho vấn đề phụ nữ trầm
cảm có nguy cơ mắc RLCH cao hơn nam. Một
là, trong các giai đoạn mãn kinh, testosteron
dần chiếm ưu thế trong các hormon sinh dục,
hormon này có liên quan đến đề kháng insulin,
giảm HDL cholesterol, tăng nồng độ glucose,
triglycerid trong máu và tăng nguy cơ đái tháo
đường, đồng thời androgen còn liên quan đến
các dấu hiệu đông máu và viêm(7). Hai là, sự mất
điều độ trong ăn uống, tăng cảm giác thèm ăn
và ăn vặt gây tăng cân là hậu quả phổ biến ở
phụ nữ hơn nam giới. Ba là sự giảm hoạt động
thể chất theo độ tuổi ảnh hưởng trên nữ nhiều
hơn nam(9).
Bên cạnh đó, nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy hút thuốc lá, uống bia rượu từ 1 đơn
vị/tháng trở lên và tập thể dục ít hơn 3
ngày/tuần là các yếu tố liên quan làm tăng nguy
cơ RLCH, kết quả này phù hợp với nghiên cứu
của Kozumplik năm 2011(8). Tuy nhiên, trong bài
phân tích gộp của Vancampfort vào năm 2015 lại

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

cho thấy hút thuốc lá không phải là yếu tố liên

quan đến RLCH (p = 0,49)(13). Nguy cơ RLCH từ
hút thuốc lá có thể được giải thích dựa trên
thành phần có hại chính của thuốc lá là nicotin,
làm gia tăng sự phóng thích của một số hormon
và chất dẫn truyền thần kinh quan trọng như:
dopamin, serotonin, glutamat và acid γ‐
aminobutyric trong hệ thần kinh trung ương,
acetylcholin trong hệ thần kinh trung ương và
ngoại vi, epinephrin và norepinephrin bởi tủy
thượng thận, cortisol bởi vỏ thượng thận, dẫn
đến kích hoạt trục hạ đồi‐tuyến yên‐tuyến
thượng thận và hệ renin‐angiotensin‐aldosteron
gây RLCH(11).
Trên dân số nghiên cứu, nếu thời gian mắc
bệnh của BN tăng lên 1 năm, khả năng mắc
RLCH của BN tăng thêm 1,57 lần. Kết quả
nghiên cứu tưng tự nhiều nghiên cứu trước đó
chứng minh BN trầm cảm dễ mắc RLCH hơn
khi thời gian mắc trầm cảm tăng lên, như nghiên
cứu của giả Alosaimi F.D tại Ả Rập Xê Út năm
2017 (OR = 1,06, p < 0,001)(2) và phân tích của
Vancampfort năm 2015 (OR=1,03, p = 0,003)(13,14).
Ngoài ra, từ kết quả nghiên cứu, có thể thấy,
khi chỉ số khối cơ thể tăng lên 1kg/m2 thì nguy
cơ mắc RLCH sẽ tăng lên 1,5 lần. Chỉ số khối cơ
thể cao được khẳng định là yếu tố liên quan gây
RLCH trong nhiều nghiên cứu trước đây như
nghiên cứu của Grover tại Ấn Độ năm 2017 (OR
= 1,23, p < 0,001)(5), phân tích gộp của
Vancampfort năm 2015 (OR = 1,15, p = 0,004)(13),

nghiên cứu của nhóm Hung tại Đài Loan năm
2014 (OR = 1,55, p < 0,001)(6) và của Kozumplik
năm 2011(8).
Từ các kết quả trên, có thể thấy việc duy trì
lối sống lành mạnh như: tập thể dục đều đặn,
không hút thuốc lá, hạn chế bia rượu, chế độ ăn
khoa học, duy trì cân nặng lí tưởng có thể giúp
BN trầm cảm kiểm soát bệnh tốt và đẩy lùi nguy
cơ RLCH đáng kể.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ RLCH cao trên BN
trầm cảm, trong đó, một số yếu tố liên quan đến

55


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

RLCH có thể kiểm soát được. Đánh giá thường
xuyên tình trạng RLCH trên BN trầm cảm là
điều cần thiết, đồng thời cần giáo dục BN từ sớm
và có chiến lược điều trị hợp lí. Ngoài ra, cần tiến
hành thêm các nghiên cứu để theo dõi và làm rõ
các mối liên quan này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Alberti KGMM et al (2009), “Harmonizing the Metabolic
Syndrome”, Circulation, 120 (16), 1640.
Alosaimi FD et al (2017), “Prevalence of metabolic syndrome
and its components among patients with various psychiatric
diagnoses and treatments: A cross‐sectional study”, General
Hospital Psychiatry, 45, 62‐69.
Butnoriene J et al (2015), “Metabolic syndrome, major
depression, generalized anxiety disorder, and ten‐year all‐cause
and cardiovascular mortality in middle aged and elderly
patients”, International Journal of Cardiology, 190, 360‐366.
Goldbacher EM, Bromberger J, Matthews KA (2009), “Lifetime
history of major depression predicts the development of the
metabolic syndrome in middle‐aged women”, Psychosom Med,
71, 266‐272.
Grover S et al (2017), “Prevalence of metabolic syndrome
among patients with depressive disorder admitted to a
psychiatric inpatient unit: A comparison with healthy controls”,
Asian Journal of Psychiatry, 27, 139‐144.

Hung CI et al (2014), “Metabolic syndrome among psychiatric
outpatients with mood and anxiety disorders”, BMC Psychiatry,
14 (1), 185.
Janssen I et al (2008), “Menopause and the Metabolic Syndrome‐
The Study of Women’s Health Across the Nation”, Arch Intern
Med, 168 (14), 1568–1575.

56

8.

9.
10.

11.
12.

13.

14.

15.

Kozumplik O, Uzun S (2011), “Metabolic syndrome in patients
with depressive disorder‐features of comorbidity”, Psychiatr
Danub, 23, 84‐88.
Marazziti D et al (2013), “Metabolic syndrome and major
depression”, CNS Spectrums, 19 (4), 293‐304.
Pan A et al (2012), “Bidirectional Association Between
Depression and Metabolic Syndrome”, Diabetes Care, 35 (5),

1171.
Ping WJ (2013), “The Impact of Cigarette Smoking on Metabolic
Syndrome”, Biomed Environ Sci, 26 (12), 947‐952.
Silarova B et al (2015), “Metabolic syndrome in patients with
bipolar disorder: Comparison with major depressive disorder
and non‐psychiatric controls”, Journal of Psychosomatic Research,
78 (4), 391‐398.
Vancampfort D et al (2015), “Risk of metabolic syndrome and its
components in people with schizophrenia and related psychotic
disorders, bipolar disorder and major depressive disorder: a
systematic review and meta‐analysis”, World Psychiatry, 14 (3),
339‐347.
Vancampfort D et al (2013), “Metabolic syndrome and
metabolic abnormalities in patients with major depressive
disorder: a meta‐analysis of prevalences and moderating
variables”, Psychological Medicine, 44 (10), 2017‐2028
World Health Organization (1992), “The ICD‐10 classification of
mental and behavioural disorders: clinical descriptions and
diagnostic guidelines”, Geneva, WHO.

Ngày nhận bài báo:

31/07/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

31/08/2018

Ngày bài báo được đăng:


20/10/2018

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học



×