Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nghiên cứu sử dụng mảnh ghép động mạch quay trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.94 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG MẢNH GHÉP ĐỘNG MẠCH QUAY  
TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU ĐỘNG MẠCH VÀNH 
Vũ Trí Thanh*, Nguyễn Hoàng Định*, Nguyễn Anh Dũng** 

TÓM TẮT 
Mở  đầu:  Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành (PTBCĐMV) đã trở thành phương pháp chuẩn hóa trong 
điều trị bệnh mạch vành. Thời gian thông suốt của cầu nối rất quan trọng để đánh giá kết quả phẫu thuật. Sử 
dụng ĐM quay để làm cầu nối động mạch vành được Carpentier giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1971và ngày 
càng được áp dụng rộng rãi trên thế giới. 
Mục tiêu: (1) Xác định kết quả nghiên cứu: tỷ lệ biến chứng trong và sau mổ, tỷ lệ đau ngực tái phát, tỷ lệ 
thông nối của mảnh ghép và tỷ lệ tử vong trung hạn. (2) Đánh giá kết quả giữa nhóm nối đầu gần của mảnh 
ghép động mạch quay với động mạch ngực trong trái kiểu Y và nhóm nối với động mạch chủ. (3) Đánh giá kết 
quả giữa nhóm nối đầu xa của mảnh ghép động mạch quay vào nhánh của động mạch vành trái và nhóm nối vào 
động mạch vành phải. 
Đối tượng ‐ Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt ca, được tiến hành tại bệnh 
viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và bệnh viện tim Tâm Đức trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2007 
đến tháng 12 năm 2010. 
Kết quả: Có 147 bệnh nhân được phẫu thuật. Trong đó Nam giới chiếm tỉ lệ 74,83%. Độ tuổi trung bình 
63± 10,02 tuổi. Có 72,8% bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp; 40,1% từng bị nhồi máu cơ tim; 29,9% mắc đái 
tháo đường; 35,4% có rối loạn chuyển hóa lipid; 12,9% có tiền sử bệnh động mạch ngoại vi; 4,8% bị suy thận; 
4,1% từng bị tai biến mạch máu não và 49,7% bệnh nhân có hút thuốc lá. Đánh giá trước mổ, 40,1% bị nhồi 
máu cơ tim, 90,5% có đau thắt ngực, 1,4% bị choáng tim, 5,4% bị rối loạn nhịp tim. Phân độ CCS II là 72,8%, 
CCS III là 12,3%. Phân độ NYHA II là 72,5%, NYHA III là 16,3%. 147 bệnh nhân đều được sử dụng mảnh 
ghép động mạch quay với 160 cầu nối được thực hiện, trong đó, ĐM quay nối với các nhánh thuộc động mạch 
vành trái 128 trường hợp chiếm 87,07% và nối với các nhánh thuộc động mạch vành phải 19 trường hợp chiếm 
tỷ lệ 12,93%. Biến chứng sau mổ: Chảy máu 2,04%; Không có TH nào bị nhồi máu cơ tim hay tắc cầu nối sớm 
sau mổ; Nhiễm trùng vết mổ 7,48%; Viêm phổi 13,61%; Nhiễm trùng huyết 4,08%; Suy thận 2,72%. Không có 


trường hợp nào bị tử vong sớm trong thời gian 30 ngày sau mổ. Thời gian theo dõi trung bình là 4,6 ± 0,4 năm 
(từ  3,7  đến  6,7  năm);  tỷ  lệ  thông  nối  của  mảnh  ghép  ĐMNT  trái  và  ĐMNT  phải  là  98,77%,  ĐM  quay  là 
92,85% và của mảnh ghép TM hiển là 82,5%. 
Kết  luận:  Sử dụng mảnh ghép ĐM quay trong PTBCĐMV cho kết quả và tỷ lệ thông nối tốt. Việc lấy 
mảnh ghép động mạch quay khả thi, an toàn và hiệu quả. Có thể linh động sử dụng ĐMNT phải hoặc ĐM quay 
như  là  mảnh  ghép  chọn  lựa  thứ  2  sau  ĐMNT  trái  trong  chiến  lược  sử  dụng  toàn  cầu  nối  động  mạch  trong 
PTBCĐMV. 
Từ khóa: động mạch quay, phẫu thuật bắc cầu mạch vành 

ABSTRACT 
RESEARCH USE OF RADIAL ARTERY GRAFT IN CORONARY ARTERY BYPASS GRAFTING 
Vu Tri Thanh, Nguyen Hoang Dinh, Nguyen Anh Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 138 ‐ 147 
* Bộ môn Ngoại Lồng ngực – Tim mạch, khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Vũ Trí Thanh  ĐT: 0913747348 
Email:  

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

139


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Background  –  Objectives:  CABG  has  become  standard  treatment  for  CAD.  The  patency  rates  is  very 
important to evaluate the surgical results. The radial artery in CABG was introduced by Carpentier in 1971 and 
widely applied more and more in the world. 
Aims of Study: Evaluate the results of perioperative complications, recurrent angina pectoris and coronary 

artery stenosis rate and mid‐term mortality. Compare the results of proximal anastomosis of the radial artery to 
the side of the internal thoracic artery or the aorta. Compare the results of distal anastomosis of the radial artery to 
left coronary arteries or right coronary artery. 
Methods: Prospective study of describing case series. Researched from January 2007 to December 2010, in 
University Medical Center of Ho Chi Minh City and Tam Duc Heart Institute. 
Results:  147  patients  were  operated  (74.83%  Males).  The  average  age  was  63±10.02  years  old. 
Postoperative complications: bleeding 2.04%, wound infection: 7.48%, pneumonia: 13.61%, septicaemia: 4.08%, 
renal  failure:  2.72%.  No  postoperative  myocardial  infarction  and  early  mortality  attributable  to  radial  artery 
bypass was observed. About the history, there are 72.8% hypertension; 40.1% previous myocardial infarction; 
29.9% Diabetes; 35.4% hyperlipidemia; 12.9% peripheral vascular disease; 4.8% chronic  kidney  failure;  4.1% 
cerebral  vascular  accident  and  49.7%  smoking  history.  Preoperative  evaluation,  40.1%  patients  had  acute 
myocardial  infarction,  90.5%  stable  angina,  5.4%  arrhymia,  1.4%  cardiogenic  shock.  CCS  II  72.8%,  CCS  III 
12.3%. NYHA II 72.5%, NYHA III 16.3%. The radial artery was used in 147 pts with 160 grafts. The distal 
anastomoses of the RA grafts to the LCX or the diagonal artery of left coronary artery and the RCA are 87.07% 
and 12.93%, respectively. Median follow‐up was 4.6 ± 0.4 years, recurrent angina pectoris rate 9.86%; patency 
rate of left ITA and RITA, radial artery and safen vein graft is 98.77%, 92.85 and 82.5% respectively; mid‐term 
mortality ratio is 4.76%. 
Conclusions:  The results of present study were satisfactory with acceptable morbidity and mortality. The 
RA should preferably be harvested as a pedicle graft and should be used to bypass critically stenosed (≥ 70%) 
coronary  artery  or  arteries.  The  prophylaxis  against  spasm  of  RA  graft  by  the  non‐touch  technique  for  radial 
artery harvesting and using of calcium channel blocker resulted in excellent quality of our harvested conduits. 
The  use  of  radial  artery  bypass  is  safety  and  efficacy,  contribute  to  increasing  the  chance  of  total  arterial 
revascularization and to decreasing the occurrence of remote cardiac events or cardiac deaths. 
Keywords: radial artery, coronary artery bypass graft 
đáng kể so với cầu nối tĩnh mạch hiển và động 
MỞ ĐẦU 
mạch  ngực  trong  trái  được  sử  dụng  trong  các 
Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành là một 
bệnh  nhân  tương  tự.  Năm  1981,  Christophe 
trong  những  phẫu  thuật  ảnh  hưởng  lớn  nhất 

Acar, Carpentier và cộng sự bắt đầu thực hiện 
đến lịch sử y học. Thời gian thông suốt của cầu 
một nghiên cứu mới gồm 910 bệnh nhân. Một 
nối là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá 
số cải tiến so với kỹ thuật ban đầu đã được áp 
kết  quả  phẫu  thuật.  Thời  gian  này  phụ  thuộc 
dụng trong lúc mổ lấy động mạch quay và sử 
vào nhiều yếu tố, trong đó vật liệu làm cầu nối 
dụng thêm các thuốc chống co thắt mạch máu 
là yếu tố rất quan trọng. Ngày nay, động mạch 
mà  nổi  bật  là  sử  dụng  thuốc  ức  chế  canxi  sau 
ngực  trong,  động  mạch  quay  và  tĩnh  mạch 
mổ.  Kết  quả  lâm  sàng  và  chụp  động  mạch 
hiển được sử dụng rộng rãi để làm cầu nối. Sử 
vành sớm sau mổ cho thấy kết quả rất tốt, với 
dụng  động  mạch  quay  để  làm  cầu  nối  động 
tỷ  lệ  hoạt  động  tốt  của  cầu  nối  là  92%  sau  10 
mạch vành được Carpentier giới thiệu lần đầu 
năm. Nghiên cứu của các tác giả khác cũng cho 
tiên  vào  năm  1971.  Năm  1975,  Curtis  và  các 
kết  quả  tương  tự.  Ở  nước  ta,  phẫu  thuật  bắc 
đồng nghiệp báo cáo tỷ lệ thất bại của cầu nối 
cầu  động  mạch  vành  được  triển  khai  lần  đầu 
động  mạch  quay.  Tỷ  lệ  thất  bại  này  cao  hơn 
tại Việt Nam vào năm 1997 tại Bệnh viện Việt 

140

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Đức, Hà Nội, năm 2000 tại bệnh viện Chợ Rẫy 
và  năm  2001  tại  Viện  Tim  Thành  phố  Hồ  Chí 
Minh. Mặc dù đa số những báo cáo trong nước 
và  ngoài  nước  liên  quan  đến  sử  dụng  mảnh 
ghép động mạch quay trong phẫu thuật bắc cầu 
động  mạch  vành xảy ra trong 10 năm gần đây 
đều  cho  rằng  động  mạch  quay  là  một  mảnh 
ghép tốt và việc sử dụng mảnh ghép này trong 
phẫu thuật bắc cầu động mạch vành có nhiều 
ưu  điểm,  hiệu  quả  và  an  toàn,  vẫn  còn  đó 
những câu hỏi chưa được trả lời xác đáng và vẫn 
còn  tranh  luận,  vì  vậy  chúng  tôi  tiến  hành 
nghiên cứu đề tài này.  

MỤC TIÊU 
1.  Xác  định  kết  quả  nghiên  cứu:  tỷ  lệ  biến 
chứng trong và sau mổ, tỷ lệ đau ngực tái phát, 
tỷ lệ thông nối của mảnh ghép và tỷ lệ tử vong 
trung hạn.  
2. Đánh giá kết quả giữa nhóm nối đầu gần 
của mảnh ghép động mạch quay với động mạch 
ngực  trong  trái  kiểu  Y  và  nhóm  nối  với  động 
mạch chủ. 
3.  Đánh  giá  kết  quả  giữa  nhóm  nối  đầu  xa 
của mảnh ghép động mạch quay vào nhánh của 
động  mạch  vành  trái  và  nhóm  nối  vào  động 
mạch vành phải. 


ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên  cứu  tiền  cứu  mô  tả  hàng  loạt  ca. 
Chúng  tôi  đưa  vào  nghiên  cứu  tất  cả  những 
bệnh  nhân  hẹp  ĐM  vành  được  sử  dụng  ĐM 
quay bắc cầu ĐM vành tại bệnh viện Đại học Y 
Dược  TP.  Hồ  Chí  Minh  và  bệnh  viện  tim  Tâm 
Đức từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2010. Có tất cả 
147 bệnh nhân trong nhóm nghiên  cứu.  Chúng 
tôi  đã  loại  trừ  18  bệnh  nhân  được  mổ 
PTBCĐMV  nhưng  không  sử  dụng  mảnh  ghép 
ĐM quay hoặc có kèm với phẫu thuật thay van 
ĐMC. 
Sau  mổ,  bệnh  nhân  được  tiêm  tĩnh  mạch 
Nitroglycerin  10‐10μg  /kg/  phút  trong  24  giờ 
đầu  sau  mổ.  Các  chất  gây  co  mạch  như 
Norepinephrine  và  Neosynephrine  tránh  sử 
dụng.  Bệnh  nhân  được  cho  uống  Aspirin  81 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

Nghiên cứu Y học

mg hàng ngày bắt đầu trong vòng 1 ngày sau 
mổ  và  tiếp  tục  vô  hạn  định.  Nifedipine  bằng 
đường  uống  đã  được  bắt  đầu  ngày  đầu  tiên 
sau mổ và tiếp tục trong thời gian sau mổ. Đối 
với bệnh nhân không dung nạp Nifedipine, có 
thể  thay  thế  bằng  Diltiazem  hoặc  Amlodipi. 
Điện tâm đồ liên tiếp được thực hiện trước mổ 
và ngày 1 và 5 sau mổ. 


Kỹ thuật mổ 
Kỹ thuật phẫu tích động mạch quay 
Bệnh  nhân  nằm  ngửa,  cẳng  và  bàn  tay  để 
ngửa.  Rạch  da  ở  giữa  mặt  trước  cẳng  tay  dọc 
theo  đường  đi  của  động  mạch  quay.  Khi  phẫu 
tích  động  mạch,  không  cặp  nhíp  hay  kéo  căng 
động  mạch  quá  mức,  không  cặp  clip  lên  thành 
mạch để tránh gây tổn thương không hồi phục. 
Tránh  đốt  các  nhánh  gần  clip  vì  sẽ  làm  bỏng 
động mạch. Cần cắt các nhánh bằng kéo hay đốt 
xa  các  clip.  Bơm  xịt  Papaverin  lên  cuống  mạch 
và mở đầu xa để xác định lưu lượng dòng chảy 
của cuống mạch. Nếu máu đầu xa không chảy, 
phải  nối  lại,  tránh  làm  tổn  thương  bàn  tay  do 
thiếu máu. 
Kỹ thuật phẫu tích động mạch ngực trong 
Mở  ngực  đường  dọc  giữa  xương  ức.  Dùng 
bộ  banh  ngực  Couetil  (Delacroix‐Chevalier)  để 
nâng nửa bản xương ức bên trái, bộc lộ giường 
ĐMNT. Dùng gạc nhỏ đẩy tách màng phổi tạng 
và mô liên kết lỏng lẻo. ĐMNT có thể được phẫu 
tích  cùng  với  tĩnh  mạch  và  cân  cơ  thành  một 
cuống hay phẫu tích trần.  
Kỹ thuật phẫu tích tĩnh mạch hiển trong 
Chọn  bên  chân  không  có  giãn  tĩnh  mạch, 
không  nhiễm  trùng  hay  loét.  Rạch  da  từ  phía 
trước  mắt  cá  trong  theo  đường  đi  của  tĩnh 
mạch  hiển  ở  mặt  trong  cẳng  chân  qua  mặt 
trong  gối  lên  đến  đùi.  Phẫu  tích  tĩnh  mạch 

khỏi  mô  mỡ  dưới  da,  cần  nhẹ  nhàng,  không 
được kéo hay làm căng tĩnh mạch để tránh gây 
tổn  thương  nứt  nội  mạc.  Cột  kẹp  và  cắt  các 
nhánh  bên.  Tránh  gây  tổn  thương  cho  thần 
kinh hiển gây dị cảm sau mổ.  
Kỹ thuật PTBCĐMV có sử dụng máy tim phổi 

141


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Mở  ngực  đường  giữa  xương  ức.  Thiết  lập 
tuần  hoàn  ngoài  cơ  thể.  Đặt  ống  hút  máu  từ 
thất  trái  qua  tĩnh  mạch  phổi  trên  phải.  Nhiệt 
độ cơ thể có thể giữ ở 37oC hay hạ nhẹ xuống 
32oC.  Bảo  vệ  cơ  tim  bằng  cách  truyền  dung 
dịch  liệt  tim  có  máu.  Khi  tim  ngưng  đập,  làm 
miệng  nối  xa  giữa  ĐMNT  trái  với  nhánh 
xuống  trước  trái;  làm  miệng  nối  xa  giữa  ĐM 
quay  với  nhánh  mũ  hoặc  các  nhánh  xuyên 
thuộc  ĐM  vành  trái;  làm  miệng  nối  xa  giữa 
tĩnh  mạch  hiển  và  các  nhánh  còn  lại.  Chọn  vị 
trí làm miệng nối gần trên gốc động mạch chủ 
hay nối vào ĐMNT trái kiểu Y.  

Chọn lựa mảnh ghép làm cầu nối 
Theo  khuyến  cáo  ACC/  AHA  2011,  động 

mạch  ngực  trong  trái  được  sử  dụng  tái  tưới 
máu cho động mạch xuống trước trái cần được 
xem  xét  ưu  tiên  hàng  đầu.  Cầu  nối  này  được 
xem  là  cầu  nối  tiêu  chuẩn  (15).  Tĩnh  mạch  hiển 
dễ lấy, dễ ghép, nên có thể được sử dụng trong 
một số trường hợp phẫu thuật cấp cứu hay có 
nguy cơ phẫu thuật cao. Ở bệnh nhân trẻ dưới 
65  tuổi,  thường  sử  dụng  động  mạch  ngực 
trong phải như là một mảnh ghép quan trọng 
thứ  2,  thường  là  cho  nhánh  mũ,  và  ĐM  quay 
được sử dụng như 1 mảnh ghép bổ sung thứ 3. 
Trường  hợp  bệnh  nhân  có  nhiều  yếu  tố  nguy 
cơ  (tuổi  >  65,  béo  phì,  đái  tháo  đường,  bệnh 
phổi  tắc  nghẽn  mạn  tính),  động  mạch  ngực 
trong phải ít được sử dụng hơn, và động mạch 
quay thường được sử dụng như là mảnh ghép 
chọn  lựa  thứ  2,  đặc  biệt  là  nối  với  nhánh  mũ 
hoặc  nhánh  động  mạch  vành  xuống  sau. 
Những mảnh ghép bổ sung bao gồm ĐM quay 
thứ 2 hoặc tĩnh mạch hiển. 

Chụp mạch vành sau mổ 
Chụp cắt lớp điện toán đa  lớp  cắt  (MSCT) 
có cản quang hoặc chụp động mạch vành chọn 
lọc sau mổ có khả năng đánh giá chính xác hẹp 
hoặc  tắc  nghẽn  cầu  nối  mạch  vành.  Vì  vậy, 
chúng tôi sử dụng một trong hai phương pháp 
này để đánh giá sự thông suốt của cầu nối.  
Bảng 1: Đánh giá sự thông suốt của cầu nối (13) 
Độ thông suốt


142

Tiêu chuẩn

Độ A
Độ B
Độ O

Thông hoàn toàn
Hẹp dưới 50% cầu nối
Tắc hoàn toàn cầu nối

Xử lý dữ kiện 
Các  bộ  câu  hỏi  sau  khi  đã  được  thu  thập 
xong  sẽ  được  kiểm  tra  lại  tính  đầy  đủ  và  tính 
phù  hợp.  Nhập  dữ  kiện  bằng  phần  mềm 
Epidata 3.1. Phân tích dữ kiện bằng phần mềm 
Stata 12.0. 

Phân tích dữ kiện 
Thống kê mô tả 
Tính tần số và tỷ lệ phần trăm cho các biến 
số định tính. 
Tính  trung  bình  và  độ  lệch  chuẩn  cho  các 
biến số định lượng. 

Thống kê phân tích 
Xác định mối liên quan giữa biến độc lập và 
biến  phụ  thuộc:  Sử  dụng  kiểm  định  Chi  bình 

phương hoặc kiểm định Fisher chính xác nếu tỷ 
lệ các ô có vọng trị < 5 là quá 20%. 
Mức độ kết hợp giữa biến phụ thuộc và biến 
độc lập được xác định bằng tỉ số tỷ lệ hiện mắc 
PR với khoảng tin cậy 95% (KTC 95%). 
Kiểm soát các yếu tố gây nhiễu với phân tích 
phân tầng và hồi quy đa biến. 

KẾT QUẢ ‐ BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu 
Tuổi và giới 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số bệnh 
nhân có tuổi trung bình là 63 ± 10,02 tuổi, trong 
đó  dưới  70  tuổi  là  101  bệnh  nhân,  chiếm  tỷ  lệ 
68,7%, trên 70 tuổi là 46 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 
31,3%.  Kết  quả  này  cũng  tương  tự  như  các 
nghiên cứu trong nước (0,24). Nam giới chiếm tỷ lệ 
74,83%. Các nghiên cứu ở trong nước, Nam giới 
chiếm tỷ lệ 67‐ 75,2% (0,24). Theo các nghiên cứu ở 
nước ngoài, nhận thấy bệnh mạch vành thường 
gặp ở nam giới hơn nữ giới (3, 31, 35). 
Đặc điểm lâm sàng của bệnh mạch vành 
Triệu chứng lâm sàng thường gặp và cũng 
là  những  nguyên  nhân  làm  cho  người  bệnh 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
đến bệnh viện là đau thắt ngực. Có 133 trường 

hợp  có  triệu  chứng  đau  thắt  ngực  được  ghi 
nhận,  chiếm  tỷ  lệ  90,5%.  Phần  lớn  bệnh  nhân 
có cơn đau thắt ngực ổn định (66,4%), tỷ lệ cơn 
đau  thắt  ngực  không  ổn  định  là  33,6%.  Đa  số 
bệnh nhân (72,8%) có cơn đau thắt ngực độ II, 
biểu  hiện  đau  thắt  ngực  độ  I  và  III  tương 
đương  nhau,  chiếm  12,3%,  cơn  đau  độ  IV  ít 
được  ghi  nhận  hơn,  2,7%  (theo  Hiệp  hội  Tim 
mạch  Canada).  Có  72,5%  bệnh  nhân  suy  tim 
độ II, 16,3% bệnh nhân có biểu hiện suy tim độ 
III  (theo  Hiệp  hội  tim  mạch  New  York).  Tỷ  lệ 
này  cũng  tương  tự  với  các  tác  giả  khác  trong 
nước(25,26).  Các  triệu  chứng  đi  kèm  được  ghi 
nhận trong nghiên cứu này gồm rối loạn nhịp 
tim  và  choáng  tim.  Khảo  sát  về  tiền  sử,  có 
72,8%  có  tăng  huyết  áp;  40,1%  từng  bị  nhồi 
máu cơ tim; 29,9% mắc đái tháo đường; 35,4% 
có  rối  loạn  chuyển  hóa  lipid;  12,9%  có  tiền  sử 
bệnh  động  mạch  ngoại  vi;  4,8%  bị  suy  thận; 
4,1% từng bị tai biến mạch máu não. Theo các 
tác  giả,  trong  số  các  bệnh  nội  khoa  kèm  theo 
tăng  huyết  áp  thường  gặp  nhất,  kế  đến  là  rối 
loạn lipid máu và đái tháo đường(0). 

Đặc điểm về cận lâm sàng 
Kết quả siêu âm tim và chụp mạch vành trên 
các bệnh nhân có phẫu thuật cho thấy: 
‐ Về số nhánh ĐMV tổn thương: Có 83,7% 
bệnh  nhân  có  3  nhánh  động  mạch  vành  bị  tổn 
thương, 16,3% bệnh nhân có 2 nhánh động mạch 

bị tổn thương. Có 66,7% bệnh nhân có biểu hiện 
hẹp thân chung trên 50%, số trường hợp này gấp 
đôi so với hẹp khít thân chung nặng trên 90%. Tỷ 
lệ này cũng tương đồng với báo cáo của một số 
tác giả, số nhánh ĐM vành bị tổn thương, hẹp > 
50% hoặc tắc 3 ĐMV chiếm tỷ lệ cao nhất, kế đó là 
hẹp/tắc 2 ĐMV và hẹp > 50% thân chung trái(25). 
‐ Phân suất tống máu thất trái: Trong nghiên 
cứu  của  chúng  tôi,  46,9%  bệnh  nhân  có  phân 
suất  tống  máu  (EF)  trên  60%;  39,5%  có  EF  từ 
40%‐60%. Trong các báo cáo khác, 82‐ 88% bệnh 
nhân có phân suất tống máu trên 40%. 

Thông tin ghi nhận trong quá trình phẫu thuật 

Nghiên cứu Y học

Có  84,3%  bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  theo 
chương trình, số trường hợp phẫu thuật bán cấp 
chiếm 15%, trường hợp cấp cứu chỉ chiếm 0,7% 
(1  ca).  34%  bệnh  nhân  được  ghi  nhận  có  nhồi 
máu cơ tim bán cấp; 28,6% đau thắt ngực không 
ổn định/ NSTEMI; 6,8% hẹp khít thân chung, 2% 
biểu hiện choáng tim, 0,7% thủng vách liên thất. 
Kết quả khảo sát số cầu nối được sử dụng, tỷ lệ 
bệnh nhân được bắc 2 cầu nối, 3 cầu nối lần lượt 
là 58,5% và 34,7%; 49,7% bệnh nhân được phẫu 
thuật bắc 1 cầu nối tĩnh mạch; 31,9% được bắc 2 
cầu nối tĩnh mạch. 


Kết  quả  ngắn  hạn  của  việc  sử  dụng  ĐM 
quay trong PTBCĐMV 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  3  bệnh  nhân 
(2,04%) cần được mổ lại do chảy máu, trong đó 
có 1 trường hợp chảy máu ở thành ngực bên trái, 
nơi  bóc  tách  ĐMNT  trái  và  2  trường  hợp  chảy 
máu xương ức; Có 1 trường hợp bị chảy máu ở 
vết mổ cẳng chân cần được khâu lại 2 mũi cầm 
máu; Có 2 bệnh nhân bị nhiễm trùng vết mổ ở 
cẳng  chân,  nơi  lấy  tĩnh  mạch  hiển,  chiếm  tỷ  lệ 
1,36%;  Có  2  trường  hợp  có  biểu  hiện  rối  loạn 
nhận thức thoáng qua sau đó tự hồi phục, chiếm 
tỷ  lệ  1,36%;  Có  13  trường  hợp  bị  xẹp  phổi  và 
viêm  phổi  sau  mổ,  chiếm  tỷ  lệ  8,84%;  Có  4 
trường hợp bị suy thận, chiếm tỷ lệ 2,72%, trong 
đó 3 trường hợp điều trị nội khoa, và  1  trường 
hợp cần phải lọc thận. Không có trường hợp nào 
bị  tử  vong,  không  có  trường  hợp  nào  bị  nhồi 
máu cơ tim trong thời gian 30 ngày sau mổ. So 
sánh với các tác giả khác (Bảng 2). 
Bảng 2: Tỷ lệ tử vong sau PTBCĐMV 
Tác giả
Nguyễn Hoàng Định (24)
Hồ Huỳnh Quang Trí (0)
Dương Đức Hùng (12)
Đỗ Kim Quế (1)
Nalysnyk L (23)
Wael H (34)
Chúng tôi


Tỷ lệ tử vong sau
PTBCĐMV (%)
5,1
0,7
4,3
1,38
2,1
1,36
0

Kết  quả  trung  hạn  của  việc  sử  dụng  ĐM 
quay trong PTBCĐMV 
Nghiên cứu của chúng tôi, có 74 bệnh nhân 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

143


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Bảng 3: Kết quả tỉ lệ thông suốt của mảnh ghép ĐM 
quay 
Tác giả (TLTK) (Năm) Tổng số cầu nối Mảnh ghép
ĐM quay được ĐM quay còn
đánh giá
thông nối
Acar và cs(2) (1992)
56
56 (100%)

Califiore và cs(10) (1995)
76
75 (98,7%)
(9)
Brodman và cs (1996)
89
87 (97,8%)
Manasse và cs(21) (1996)
18
18 (100%)
Sundt và cs(30) (1991)
62
51 (82%)
Bhan và cs(7) (1999)
62
60 (96,8%)
Iaco và cs(19) (2001)
74
73 (98,6%)
Chúng tôi
84
78 (92,85)

0.50

0.75

1.00

Kaplan-Meier survival estimate


0.25

được chụp cắt lớp 64 lát cắt và 7 bệnh nhân được 
chụp  thông  tim  can  thiệp  để  khảo  sát  mạch 
vành,  kết  quả  chung  tỷ  lệ  thông  nối  của  mảnh 
ghép ĐMNT trái và ĐMNT phải là 98,77%, ĐM 
quay  là  92,85%  và  của  mảnh  ghép  TM  hiển  là 
82,5%.  Đây  là  kết  quả  rất  khả  quan  về  mảnh 
ghép  ĐMNT  và  ĐM  quay.  Khảo  sát  biến  cố  tử 
vong  trung  hạn,  chúng  tôi  nhận  thấy  không  có 
sự khác biệt giữa tỷ lệ tử vong ở nam giới và nữ 
giới (p>0,05). Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân ≥70 tuổi 
chiếm  2,2%,  cao  hơn  so  với  bệnh  nhân  dưới  70 
tuổi,  tuy  nhiên  sự  khác  biệt  này  không  có  ý 
nghĩa thống kê, p>0,05. Tương tự như vậy, tình 
trạng  đau  ngực,  nhồi  máu  cơ  tim,  phân  suất 
tống  máu,  hoàn  cảnh  phẫu  thuật  ở  bệnh  nhân 
không  có  liên  quan  đến  tử  vong  ở  bệnh  nhân, 
p>0,05.  

0.00

Nghiên cứu Y học 

0

20

analysis time


40

60

 
Biểu đồ 1: Đường Kaplan – Meier biểu diễn tỷ lệ sống 
còn theo thời gian sau khi xuất viện tính bằng tháng 
Việc sử dụng thuốc ức chế canxi như khuyến 
cáo của Fremes đóng vai trò rất quan trọng ngăn 
ngừa co thắt mạch. Một sự xuất hiện ngẫu nhiên 
vừa co thắt mảnh ghép và và hẹp đọan nối đầu 
xa 8% (24/320) được ghi nhận trong nghiên cứu 
của Fitzgibbon và cộng sự. Sarabu và Blanche đã 
báo  cáo  các  trường  hợp  co  thắt  sau  PTBCĐMV 
với mảnh ghép ĐMNT trái dẫn đến huyết động 
không ổn định. Chính yếu tố dễ bị co thắt do cấu 
trúc  mô  học  của  lớp  áo  giữa  dày,  lớp  cơ  trơn 
chiếm ưu thế và đáp ứng mạnh với các chất gây 
co mạch, vì vậy, bên cạnh việc hoàn chỉnh các kỹ 
thuật  lấy  mảnh  ghép,  cần  phải  sử  dụng  các 
thuốc chống co thắt mảnh ghép. Có nhiều phác 
đồ sử dụng thuốc chống co thắt, sử dụng ngay 
trong mổ và sau mổ. 

Bảng 4: Phác đồ sử dụng thuốc chống co thắt theo các tác giả 
Tác giả (TLTK) (Năm)
Califiore và cs(10) (1995)
Borger và cs(8) (1998)
Possati và cs(27) (1998)

Sundt và cs(30) (1999)
Moran và cs(22) (2001)
Tatoulis và cs(32) (2002)
Chúng tôi

Thuốc trong mổ/ Liều lượng
Diltiazem TTM 4mg/g
Nitroglycerin 0,5- 4,0µg/kg/phút

Diltiezem, chích TM
Nitroglycerin 1,0 µg/kg/phút
Nitroglycerin 30- 100 µg /phút
Milrinone 0,1 µg/kg/phút
Nitroglycerin 30- 100 µg /phút

Đánh  giá  kết  quả  nối  đầu  gần  ĐM  quay 
với ĐM ngực trong trái kiểu Y  
Kết quả nghiên cứu của Carpentier và cộng 
sự  trong  đó,  đầu  gần  mảnh  ghép  ĐM  quay 

144

Thuốc duy trì/ Liều lượng
Diltiazem 60mg, uống 3 lần/ ngày
Nifedipine 10mg, uống mỗi 6 giờ, 30
mg/ngày
Diltiazem 120mg, uống 1 lần/ ngày
Diltiazem uống
Diltiazem 180mg, uống 1 lần/ ngày
Amlodipin uống 5- 10 mg, uống 1

lần/ngày

Thời gian điều trị
1 tháng
6 tháng

Amlodipin uống 5- 10 mg, uống 1
lần/ngày

Lâu dài

Lâu dài
6 tuần
1 năm
6 tháng

được  nối  với  ĐMC  cho  kết  quả  thông  nối  rất 
tốt.  Tuy  nhiên,  Calafiore  và  cộng  sự(10)  đã  lý 
luận  rằng  mảnh  ghép  ĐM  quay  nối  trực  tiếp 
vào  ĐMC  lên  có  thể  là  đặc  biệt  nhạy  để  tiến 
triển  tăng  sinh  lớp  nội  mạch  do  ảnh  hưởng 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Tác  giả  Sundt  và  cộng  sự  đã  chứng  minh 
rằng có thể thực hiện PTBCĐMV sử dụng toàn 
động mạch với ĐMNT trái và ĐM quay nối kiểu 

Y. Có 649 bệnh nhân, tỷ lệ tử vong trong mổ là 
0,2%, tần suất nhồi máu cơ tim chu phẫu là 5%, 
có 2% trường hợp có giảm cung lượng tim tạm 
thời.  Theo  dõi  1‐  35  tháng,  tỷ  lệ  cầu  nối  còn 
thông là 100% đối với ĐMNT trái và 82% đối với 
ĐM quay (30). Tector và cộng sự đã đạt được tỷ lệ 
91%  cầu  nối  còn  thông  với  kỹ  thuật  nối  ĐM 
quay  vảo  ĐMNT  trái  kiểu  Y.  Calafiore  và  cộng 
sự đã đạt được tỷ lệ 93% cầu nối còn thông với 
kỹ thuật nối ĐM quay vào ĐMNT trái kiểu Y.  
Chúng  tôi  thực  hiện  nối  mảnh  ghép  ĐM 
quay  với  ĐMNT  trái  kiểu  Y  cho  30  bệnh  nhân. 
So  sánh  giữa  2  nhóm  nối  đầu  gần  động  mạch 
quay  –  động  mạch  ngực  trong  trái  kiểu  Y  với 
nhóm nối động mạch quay – động mạch chủ về 
các đặc tính: tuổi, giới, tình trạng bệnh đái tháo 
đường, suy thận mạn, bệnh phổi tắt nghẽn mạn 
tính, bệnh động mạch ngoài tim, tình trạng đau 
thắt ngực, nhồi máu cơ tim, phân suất tống máu 
của bệnh nhân, không có sự khác biệt về kết quả 
với p> 0,05.  
Kết  quả  chúng  tôi  nhận  thấy  các  đặc  tính: 
thời gian mổ, thời gian thở máy, thời gian điều 
trị  hồi  sức  ở  bệnh  nhân,  cũng  như  biến  chứng 
thần kinh, suy thận cấp, suy đa cơ quan sau mổ, 
viêm xương ức, viêm trung thất cũng không có 
sự  khác  biệt  giữa  2  nhóm  với  p>0,05.  So  sánh 
giữa 2 nhóm về tỷ lệ đau ngực tái phát, tỷ lệ tắc 
cầu nối và tỷ lệ tử vong trung hạn, sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê. 


Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

0.25

0.50

0.75

1.00

Kaplan-Meier survival estimates

0.00

trực  tiếp  dòng  chảy  áp  lực  cao  của  ĐMC.  Với 
lý luận tương tự, việc nối mảnh ghép ĐM quay 
vào ĐMNT trái kiểu Y có thể tránh tiếp xúc với 
áp  lực  động  mạch  trung  tâm  nên  tránh  được 
hẹp cầu nối. Lý thuyết này được nhiều tác giả 
ủng hộ, tuy nhiên vẫn còn 1 nhóm tác giả vẫn 
nối trực tiếp mảnh ghép vào ĐMC. Tỷ lệ thông 
nối gần như tương đương giữa 2 kỹ thuật nối 
này. Kỹ thuật nối kiểu Y đã cho phép mở rộng 
việc sử dụng ĐMNT trái đồng thời thuận tiện 
cho những bệnh nhân có bệnh lý của ĐMC.  

Nghiên cứu Y học

0


20

analysis time

noichuy = khong

40

60

noichuy = co

 
Biểu đồ 2: Đường Kaplan – Meier biểu hiện tỷ lệ 
đau ngực tái phát sau ra viện của nhóm sử dụng cách 
nối Y và nhóm không sử dụng 
Chúng  tôi  nhận  thấy  việc  nối  mảnh  ghép 
ĐM quay vảo ĐMNT trái kiểu Y giúp nới thêm 
chiều dài của động mạch đủ để nối với hầu hết 
ĐM vành đồng thời tránh phải nối trực tiếp ĐM 
quay vào ĐM chủ. Nhiều tác giả đã nghiên cứu 
và  có  cùng  kết  luận  với  chúng  tôi,  đó  là  tỷ  lệ 
thông của cầu nối động mạch quay  không  phụ 
thuộc  vào  việc  động  mạch  quay  được  nối  trực 
tiếp từ động mạch chủ vào động mạch vành hay 
từ  động  mạch  ngực  trong  vào  mạch  vành  kiểu 
ghép Y(19). 

Đánh giá chỉ định chọn ĐM vành đích để 

nối với đầu xa của mảnh ghép ĐM quay  
Nhiều nghiên cứu đã cố gắng xác định mạch 
vành  đích  phù  hợp  cũng  như  mức  độ  ảnh 
hưởng  của  mạch  vành  đích  bị  hẹp  với  tỷ  lệ 
thông nối của mảnh ghép ĐM quay. Một số tác 
giả cho rằng tỷ lệ thông nối của mảnh ghép ĐM 
quay tốt nhất nếu được nối với ĐM vành xuống 
trước  trái  hoặc  các  nhánh  của  nó  và  thông  nối 
giảm  đáng  kể  nếu  nối  với  ĐM  vành  phải  hoặc 
các  nhánh  của  nó.  Trước  đây,  vị  trí  mạch  vành 
đích đã được đánh giá là một yếu tố quan trọng 
cho tỷ lệ thông nối của cả mảnh ghép TM hiển 
và ĐMNT. Trong số 19 trường hợp trong nghiên 
cứu  của  chúng  tôi,  có  1  trường  hợp  đoạn  gần 
của mảnh ghép ĐM quay từ chỗ nối với ĐMNT 
trái đến miệng nối đầu xa bị tắc, tuy nhiên, đoạn 
xa vẫn còn thông. Không có sự khác biệt giữa 2 

145


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

nhóm nối đầu xa động mạch quay ‐ động mạch 
vành trái và nhóm nối động mạch quay ‐ động 
mạch  vành  phải  về  các  biến  chứng  thần  kinh, 
suy  thận  cấp,  suy  đa  cơ  quan  sau  mổ,  viêm 
xương ức hay viêm trung thất (p>0,05). So sánh 

giữa 2 nhóm về tỷ lệ đau ngực tái phát và tỷ lệ 
tắc cầu nối, sự khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê.  Tỷ  lệ  tử  vong  trung  hạn  ở  nhóm  nối  động 
mạch  quay  –  động  mạch  quay  vành  phải  cao 
hơn  nhóm  nối  động  mạch  quay  –  động  mạch 
quanh vành trái và sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê. Tuy nhiên số liệu của chúng tôi khá ít, 
để có kết luận khách quan, chúng tôi cần nghiên 
cứu số lượng lớn hơn. 

0.00

0.25

0.50

0.75

1.00

Kaplan-Meier survival estimates

0

20

analysis time

F150 = trai


40

60

F150 = phai

 
Biểu đồ 3: Đường Kaplan – Meier biểu hiện tỷ lệ 
đau ngực tái phát sau ra viện của nhóm đầu nối 
ĐMQ – ĐMV trái và nhóm đầu nối ĐMQ – ĐMV 
phải 
Huddleston  và  cộng  sự  đã  cho  thấy  tỷ  lệ 
thông  nối  của  mảnh  ghép  ĐMNT  khi  nối  với 
ĐM vành xuống trước trái cao hơn khi nối với 
những  nhánh  còn  lại.  Tương  tự,  Paz  và  cộng 
sự đã cho thấy tỷ lệ thông nối của mảnh ghép 
TM hiển khi nối với ĐM vành xuống trước trái 
cao hơn khi nối với những nhánh còn lại. Khối 
lượng cơ tim được cung cấp máu bởi ĐM vành 
xuống trước trái và các nhánh của nó được cho 
là dòng chảy mạnh hơn và do đó có tỷ lệ thông 
nối  cao  hơn.  Có  lẽ  sự  phân  bố  giường  mạch 
máu nhỏ của ĐM vành phải giải thích cho tỷ lệ 
thông  nối  tương  đối  kém  của  nó  được  ghi 

146

nhận  trong  nhiều  kết  quả  thông  của  cầu  nối 
tĩnh mạch. Buxton và cộng sự cũng báo cáo tỷ 
lệ  thông  nối  khi  nối  mảnh  ghép  ĐMNT  phải 

vào  ĐM  vành  phải  kém  hơn  khi  nối  vào  hệ 
thống  ĐM  vành  bên  trái.  Một  số  tác  giả  khác 
đã báo cáo tỷ lệ thông nối của mảnh ghép ĐM 
quay  giảm  đi  khi  nối  với  những  nhánh  ĐM 
vành  sau  bên  hoặc  sau  dưới.  Tuy  nhiên  theo 
tác  giả  Mario  Gaudino,  vị  trí  nối  đầu  xa  của 
ĐM quay không ảnh hưởng đến kết quả thông 
nối  lâu  dài  về  hình  ảnh  học  và  những  mảnh 
ghép  ĐM  quay  được  dùng  để  nối  vào  nhánh 
mũ  của  ĐM  vành  trái,  nhánh  xiên  của  ĐM 
vành  trái  có  kết  quả  thông  nối  tương  tự  với 
mảnh ghép nối trực tiếp vào những nhánh ĐM 
vành sau bên hoặc sau dưới. Theo hầu hết các 
tác giả (27), yếu tố duy nhất có ảnh hưởng rõ nét 
nhất tỷ lệ thông nối của mảnh ghép ĐM quay 
là mức độ hẹp của mạch vành đích. Thực tế, sự 
tắc  nghẽn  của  mảnh  ghép  ĐM  quay  thường 
xảy  ra  khi  nối  với  những  mạch  vành  đích 
không  bị  hẹp  nhiều.  Mảnh  ghép  ĐM  quay 
được  đề  nghị  ghép  với  ĐM  vành  bị  hẹp  trên 
70%  nhằm  tránh  nguy  cơ  cạnh  tranh  dòng 
chảy  và  tránh  diễn  tiến  hẹp  lan  tỏa  của  mảnh 
ghép  và  tạo  dấu  hiệu  sợi  dây  (string  sign). 
Những  mạch  vành  đích  thường  được  nối  là 
nhánh  mũ  của  ĐM  vành  trái,  nhánh  xiên  của 
ĐM vành trái hoặc nhánh ĐM vành phải. Tuy 
nhiên,  rất  nhiều  những  nghiên  cứu  đã  được 
xuất  bản  đã  cho  thấy  tỷ  lệ  thông  nối  giảm 
đáng  kể  nếu  nối  với  nhánh  ĐM  vành  phải. 
Nếu nối kiểu liên tục (sequential), miệng nối ở 

giữa  có  xu  hướng  ít  bị  hẹp  hơn  so  với  miệng 
nối ở đầu tận. 

KẾT LUẬN 
Sử  dụng  mảnh  ghép  ĐM  quay  trong 
PTBCĐMV  cho  kết  quả  và  tỷ  lệ  thông  nối  tốt. 
Việc lấy mảnh ghép động mạch quay khả thi, an 
toàn  và  hiệu  quả.  Có  thể  linh  động  sử  dụng 
ĐMNT  phải  hoặc  ĐM  quay  như  là  mảnh  ghép 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
chọn lựa thứ 2 sau ĐMNT trái trong chiến lược 
sử  dụng  toàn  cầu  nối  động  mạch  trong 
PTBCĐMV.  Việc  nối  mảnh  ghép  ĐM  quay  vảo 
ĐMNT trái kiểu Y giúp nới thêm chiều dài của 
động  mạch  đủ  để  nối  với  hầu  hết  ĐM  vành 
đồng thời tránh phải nối trực tiếp ĐM quay vào 
ĐM chủ, tuy nhiên tỷ lệ thông của cầu nối động 
mạch  quay  không  phụ  thuộc  vào  việc  động 
mạch quay được nối trực tiếp từ động mạch chủ 
vào  động  mạch  vành  hay  từ  động  mạch  ngực 
trong trái vào mạch vành kiểu ghép Y.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.


3.

4.
5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

Acar  C,  et  al  (2006),  “Arterial  Grafting  for  Coronary  Artery 
Bypass Surgery”, Springer‐Verlag Berlin Heidelberg, pp 157‐ 169. 
Acar C, Jebara V, Portoghese M, Deloche A, Carpentier A, et 
al  (1992),  “Revival  of  the  radial  artery  for  coronary  artery 
bypass grafting”, Ann Thorac Surg, 54, pp 652‐ 660. 
Achouh P, Boutekadjirt R, Toledano D, Hammoudi N, Pagny 
JY, Goube P, et al (2010), “Long‐term (5‐ to 20‐year) patency of 
the  radial  artery  for  coronary  bypass  grafting”,  J  Thorac 
Cardiovasc  Surg,  140(1),  pp  73‐79.  PubMed  PMID:  19944433. 

Epub 2009/12/01. 
AHA  (2010),  “Heart  Disease  and  Stroke  Statistics  ‐  2010 
Update”, Circulation, 121, e46‐ e215 
Barner H, Sundt T, Baily M, Zang Y (2001), “Midterm results 
of  complete  arterial  revascularisation  in  more  than  1000 
patients  using  an  internal  thoracic  artery/  radial  artery  T 
graft”, Ann Surg, 234, pp 447‐53. 
Benedetto  U,  Angeloni  E,  Refice  S,  Sinatra  R  (2010),  “Radial 
artery versus saphenous vein graft patency: Meta‐analysis of 
randomized controlled trials”, J Thorac Cardiovas Surg, 139, pp 
229‐31. 
Bhan A, Gupta V et al (1999), “Radial artery in CABG: could 
the  early  results  be  comparable  to  internal  mammary  artery 
graft?”, Ann Thorac Cardiovasc Surg, 67, pp1631‐6 
Borger  M,  Cohen  G,  Buth  K,  et  al  (1998),  “Multiple  arterial 
grafts:  Radial  versus  right  internal  thoracic  arteries”, 
Circulation, 98(Suppl 19):II‐7‐14. 
Brodman R, Frame R, Camacho M, Ha E, Chen A, HollingerI 
(1996), ʺRoutine use of unilateral and bilateral radial arteries 
for  coronary  artery  bypass  graft  surgeryʺ,  J  Am  Coll  Cardiol, 
28, pp 959‐63. 
Calafiore  A,  Di  Giammarco  G,  Teodori  G,  D’Annunzio  E, 
Vitolla G, Fino C, et al  (1995),  “  Inventors  Radial  artery  and 
inferior  epigastric  artery  in  composite  grafts:  improved 
midterm  angiographic  results”,  Ann Thorac Surg, 58, pp 185‐ 
190 
Đỗ Kim Quế, Chung Giang Đông (2010), “Kết quả phẫu thuật 
cầu nối động mạch chủ ‐ vành trong điều trị hẹp nhiều nhánh 
động mạch vành”, Y học Việt Nam số đặc biệt tháng 11/2010, tập 
375, tr 194‐ 199. 

Dương  Đức  Hùng  (2008),  “Nghiên  cứu  kết  quả  phẫu  thuật 
bắc cầu chủ ‐ vành trong điều trị thiếu máu cơ tim cục bộ”, 
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội. 
Fitzgibbon  G,  Kafka  H,  Leach  A,  Keon  W,  Hooper  G,  al  e 
(1996),  ʺCoronary  bypass  graft  fate  and  patients 

Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu

14.

15.

16.

17.

18.

19.

20.

21.

22.

23.

24.


25.

26.

27.

28.

29.

Nghiên cứu Y học

outcome:Angiographic  follw‐  up  of  5,065  grafts  related  to 
survival and reoperation in 1,388 patients during 25 yearsʺ, J 
Am Coll Cardiol, 28, pp 616‐ 26. 
Fukui  T,  Tabata  M,  Manabe  S,  Shimokawa  T,  Takanashi  S 
(2010), ʺGraft selection and one‐year patency rates in patients 
undergoing  coronary  artery  bypass  graftingʺ,  Ann  Thorac 
Surg,  89(6),  pp  1901‐  5.  PubMed  PMID:  20494046.  Epub 
2010/05/25. 
Gaudino M, Prati F, Possati G (2006), ʺRadial artery graftingʺ, 
Multimedia  manual  of  Cardio‐  thoracic  Surg,  Volume  2006,  Issue 
0109. 
Hayward  PA,  Hare  DL,  Gordon  I,  Matalanis  G,  Buxton  BF 
(2007), ʺWhich arterial conduit? Radial artery versus free right 
internal thoracic artery: six‐year clinical results of randomized 
controlled trialʺ, Ann Thorac Cardiovasc Surg, 84, pp 493‐ 7. 
Hillis D, Smith P, Anderson J, Bittl J, Bridges C, Byrne J, et al 
(2011),  ʺACCF/AHA  Guideline  for  Coronary  Artery  Bypass 
Graft  Surgeryʺ,  J.  Am.  Coll.  Cardiol.  Published  online  Nov  7, 

2011; doi: 10.1016/j.jacc.2011.08.009 
Hồ Huỳnh Quang Trí, Phan Kim Phương, Nguyễn Văn Phan, 
Phạm  Nguyễn  Vinh  (2004),  “Kết  quả  bước  đầu  của  phẫu 
thuật bắc cầu nối động mạch vành tại Viện Tim”, Thời sự Tim 
mạch học, số 67, tr 8‐11. 
Iaco  A,  Teodori  G,  Di  Giammarco  G,  Di  Mauro  M  (2001), 
ʺRadial  artery  for  myocardial  revascularization:  long  term 
clinical and angiographic resultsʺ, Ann Thorac Surg, 72, pp 464‐ 
9. 
Kim WS, Lee J, Lee YT, Sung K, Yang JH, Jun TG, et al. (2008), 
ʺTotal  arterial  revascularization  in  triple‐vessel  disease  with 
off‐pump  and  aortic  no‐touch  techniqueʺ,  Ann  Thorac  Surg, 
86(6), pp 1861‐ 5. PubMed PMID: 19021996. Epub 2008/11/22. 
Manasse E, Sperti G, Suma H, et al (1996), ʺUse of the radial 
artery for myocardial revascularizationʺ, Ann Thorac Surg, 62, 
pp 1076‐ 82. 
Moran S, Baeza R, Guarda E, al e (2001), ʺPredictors of radial 
artery  patency  for  coronary  bypass  operationsʺ,  Ann  Thorac 
Surg, 72, pp 1552‐ 6. 
Nalysnyk L, Fahrbach K, Reynolds M, et al (2003), ʺAdverse 
events  in  coronary  artery  bypass  graft  trials:  a  systematic 
review and analysisʺ, Heart, 89, pp 767‐ 72. 
Nguyễn  Hoàng  Định  (2012),  “Nghiên  cứu  chỉ  định  phẫu 
thuật bắc cầu mạch vành bằng động mạch ngực trong trái”, 
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Phạm Hữu Minh Nhựt (2007), “Đánh giá kết quả sớm phẫu 
thuật  bắc  cầu  động  mạch  vành  ở  bệnh  nhân  tổn  thương  ba 
nhánh  động  mạch  vành”,  Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại  học  Y 
Dược TP Hồ Chí Minh. 
Phạm  Thọ  Tuấn  Anh,  Nguyễn  Hoàng  Định  (2006),  “Phẫu 

thuật cầu nối mạch vành tại bệnh viện Chợ Rẫy”, Y học TP Hồ 
Chí Minh, phụ bản của số 1/2006(10), tr 137‐ 143. 
Possati G, Gaudino M, Alessandrini F, al e (1998), ʺMidterm 
clinical  and  angiographic  results  of  radial  artery  grafts  used 
for myocardial revascularizationʺ, J Thorac Cardiovas Surg, 116, 
pp 1015‐ 21. 
Ramadan  A,  Stefanidis  C,  N’Gatchou  W,  El  Oumeiri  B, 
Jansens J, De Smet J, et al (2010), ʺFive years follow‐up after Y‐
graft  arterial  revascularization:  on  pump  versus  off  pump; 
prospective  clinical  trialʺ,  Interact  Cardiovasc  Thorac  Surg,  pp 
423‐ 7. 
Simek  M,  Marcian  P  et  al  (2013),  ʺEndoscopic  radial  artery 
harvesting  for  coronary  artery  bypass  grafting.  A  single 
center evolving experienceʺ, Biomed Pap Med Fac Univ Palacky 

147


Nghiên cứu Y học 

30.

31.

32.

33.

34.


148

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Olomouc Czech Repub, 157 (1), pp 64‐ 9. 
Sundt III T, Barner H, Camillo CJ, and Gay WA (1999), ʺTotal 
arterial revascularization with an internal thoracic artery and 
radial artery T graftʺ, Ann Thorac Surg, 68, pp 399‐ 405. 
Tatoulis J, Buxton B, Fuller J, Meswani M, Theodore S, Powar 
N  and  Wynne  R  (2009),  ʺLong‐term  patency  of  1108  radial 
arterial‐coronary angiograms over 10 yearsʺ, Ann Thorac Surg, 
88, pp 23‐ 30. 
Tatoulis J, Royse A, Buxton B, et al (2002), ʺThe radial artery in 
coronary  surgery:  A  5‐years  experience  clinical  and  angio‐
graphic resultsʺ, Ann Thorac Surg, 73, pp 143‐ 8. 
Văn Hùng Dũng (2013), “Nghiên cứu sử dụng toàn bộ mạch 
ghép động mạch trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành”, 
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Wael H, Hegazy Y, Albert A, Ennker I, Rosendahl U, Bauer S, 
 

35.

et  al.  (2010),  ʺShort  term  outcomes  of  total  arterial  coronary 
revascularization  in  patients  above  65  years:  a  propensity 
score analysisʺ, J Cardiothorac Surg, 5, pp 25. 
Zacharias  A,  Schwann  T,  Riordan  C,  Durham  S,  Shah  A, 
Habib R, et al. (2009), ʺLate results of conventional versus all‐
arterial  revascularization  based  on  internal  thoracic  and 
radial artery graftingʺ, Ann Thorac Surg, 87, pp 19‐ 26. 


 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 
 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×