Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát thực trạng sự tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện Bình Dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.4 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỰ TUÂN THỦ VỆ SINH TAY
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Phạm Hữu Đoàn*, Trần Ngọc Thiện*, Nguyễn Thị Thuỳ Nga*,
La Thị Quý Hương*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Vệ sinh tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả trong phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện,
đồng thời cũng là biện pháp hữu ích nhằm đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế trong thực hành chăm sóc và
điều trị người bệnh. Tuân thủ tốt vệ sinh tay giúp hạn chế và ngăn ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện, giảm chi phí
và tỷ lệ tử vong. - Mục tiêu: Đánh giá bước đầu sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng
trong Bệnh viện Bình Dân năm 2017, qua đó góp phần đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường vệ sinh tay
trong bệnh viện.
Phương pháp: Nghiên cứu quan sát sự tuân thủ vệ sinh tay tại 5 thời điểm vệ sinh tay theo khuyến cáo của
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) được thực hiện tại 12 khoa lâm sàng của Bệnh viện Bình Dân từ 01/7 – 31/10/2017.
Kết quả: Tổng số cơ hội được quan sát là 7533. Trong đó, có tuân thủ vệ sinh tay là 76,5%. Việc vệ sinh tay
với cồn được lựa chọn nhiều hơn so với xà bông và nước (95,9% so với 4,1%). Tất cả các khoa đều có tỷ lệ tuân
thủ vệ sinh tay cao trên 50%, trong đó 3 khoa có tỷ lệ tuân thủ cao nhất là Niệu C (94,0%), Hồi sức Tích cực &
Chống độc (83,5%) và Niệu A (81,2%). Tỷ lệ tuân thủ thấp nhất là khoa Niệu B (62,6%) và khoa Tổng quát 1
(64,8%). Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay giữa các khoa không đồng đều, tập trung cao ở các khoa thuộc khối Hồi sức và
khối Niệu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay ở các đối tượng nhân viên y tế: Điều
dưỡng và Hộ lý có tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay cao nhất (lần lượt là 83,2% và 63,3%). Học sinh – sinh viên và Bác
sĩ có tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay thấp hơn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 5 cơ hội phải vệ sinh tay khi
chăm sóc người bệnh: cơ hội có sự tuân thủ vệ sinh tay cao nhất là sau khi có tiếp xúc với máu và dịch cơ thể
91,0%, sau khi tiếp xúc với người bệnh 79,8%. Thấp nhất là trước khi tiếp xúc người bệnh 63,6% và trước khi
tiến hành thủ thuật vô khuẩn 73,7%.
Kết luận: Tuân thủ tốt vệ sinh tay khi chăm sóc người bệnh là một vấn đề không đơn giản khi bệnh viện
luôn quá tải và áp lực công việc cao. Tuy nhiên cần phải thực hiện nhiều biện pháp kết hợp tuyên truyền, nhắc


nhở, kiểm tra giám sát nhằm đẩy mạnh công tác vệ sinh tay trong mọi hoạt động chăm sóc người bệnh; từ đó góp
phần nâng cao ý thức nhân viên y tế về ngăn ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện và chất lượng chăm sóc
người bệnh.
Từ khóa: Tuân thủ vệ sinh tay, nhân viên y tế.

ABSTRACT
ASSESSMENT OF COMPLIANCE WITH HANDWASHING OF HEALTHCARE WORKERS AT BINH
DAN HOSPITAL
Nguyen Phuc Cam Hoang, Pham Huu Doan, Tran Ngoc Thien, Nguyen Thi Thuy Nga,
La Thi Quy Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 533 - 539
Background: Handwashing is an simple and effective way in preventing nosocomial infections,
simultaneously is an essential way to maintain safety for healthcare workers in treating and nursing practices.
* Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng ĐT: 0913719346 Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

533


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Good compliance with handwashing contributes in reducing and preventing nosocomial infections, reducing costs
and mortality rate in patients.
- Objective: Initially assess compliance with handwashing of healthcare workers at clinical department at
Binh Dan Hospital in 2017, through this result, we aim to set up strategies to strengthen handwashing in
hospital.
Method: Observational study of compliance with handwashing at five moments of hand hygiene of WHO,

this study is conducted at 12 clinical departments from July 1, 2017 to October 31, 2017.
Results: The overall opportunity observed is 7533. Hand hygiene compliance rate is 76.5%. Healthcare
workers preferred hand hygiene with alcohol-based solution to that with water and soap (95.9% compared with
4.1%). All departments had high hand hygiene rates (above 50%), Departments: Urology C, Intensive Care Unit
and Urology A had the highest hand hygiene compliance rates (94.0%, 83.5% and 81.2% respectively).
Department Urology B and General 1 had the lowest compliance rates with 62.6% and 64.8%, respectively. The
compliance rates differ among clinical departments, the highest rates are seen in Recovery and Urology
Departments. There were significant differences in compliance rates among healthcare workers: Nurses and
Midwives had higher compliance rates (83.2% and 63.3% respectively) than Students and Doctors did. There
were significant differences in compliance rates among 5 moments of hand hygiene: the compliance rates were
highest in two moments: after exposing to blood and body fluids and after touching a patient (91.0% and 79.8%
respectively); the lowest compliance rates were in two moments: before touching a patient and before clean/aseptic
procedure (63.6% and 73.7% respectively).
Conclusion: Good compliance with handwashing is not an easy task in overload and high pressure hospitals.
However, we have to do combination of tasks: communicating, checking and surveying to strengthen
handwashing program in caring patients; these tasks contribute in increasing the awareness of healthcare workers
about preventing and controlling nosocomial infections and increasing patient care quality.
Key words: Compliance with handwashing, healthcare workers.
tháng triển khai khử khuẩn tay bắt buộc bằng
ĐẶTVẤNĐỀ
dung dịch chloride.
Bàn tay là phương tiện quan trọng làm lan
Gần đây, một loạt nghiên cứu tại những
truyền nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV). Vệ
khu vực lâm sàng khác nhau nhằm đánh giá
sinh tay (VST) loại bỏ hầu hết vi sinh vật
hiệu quả làm phòng ngừa NKBV của rửa tay
(VSV) có ở bàn tay, do đó, có tác dụng ngăn
bằng xà phòng thường so với một số phương
ngừa lan truyền mầm bệnh từ người bệnh này

pháp VST bằng dung dịch khử khuẩn. Kết quả
sang người bệnh khác, từ người bệnh sang
thu được: tỷ lệ NKBV giảm khi NVYT thực
dụng cụ và nhân viên y tế (NVYT), từ vị trí
hiện VST khử khuẩn giữa các lần tiếp xúc
này sang vị trí khác trên cùng một người bệnh
người bệnh, đặc biệt ở những khu vực có
và từ NVYT sang người bệnh. VST là biện
nhiều thủ thuật xâm nhập như cấp cứu, hồi
pháp đơn giản và hiệu quả trong phòng ngừa
sức tích cực, ngoại khoa, nhi khoa. Những
NKBV, đồng thời cũng là biện pháp hữu ích
nghiên cứu này còn khẳng định: rửa tay bằng
nhằm đảm bảo an toàn cho NVYT trong thực
dung dịch khử khuẩn làm giảm NKBV nhiều
hành chăm sóc và điều trị người bệnh.
hơn rửa tay bằng xà phòng thường, NKBV do
VST làm giảm NKBV ở người bệnh và
MRSA giảm khi chuyển từ VST bằng xà phòng
NVYT. Nghiên cứu can thiệp điển hình của
thường sang VST bằng xà phòng khử khuẩn,
Semmelweis thực hiện năm 1847 cho thấy tỷ lệ
tăng tần suất VST ở NVYT làm giảm lan
tử vong ở sản phụ giảm từ 18% xuống 5% sau ít
truyền Klebsiella spp ở người bệnh. Nhìn

534

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
chung, thực hiện tốt VST giúp làm giảm 30% 50% NKBV(2).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ
tuân thủ VST ở NVYT thay đổi từ 5% - 81%, tính
chung: 40,5%(1). Tỷ lệ tuân thủ VST không đồng
nhất giữa các khu vực lâm sàng, khu vực hồi sức
cấp cứu thường cao hơn các khu vực khác, tỷ lệ
tuân thủ VST ở bác sỹ thấp hơn các nhóm NVYT
khác(1).
Tuân thủ VST trong các cơ sở y tế ở nước ta
hiện nay chưa tốt. Khảo sát tại 10 bệnh viện phía
Bắc năm 2005 cho thấy tỷ lệ tuân thủ VST ở
NVYT là 13,4%(7). Trong những năm gần đây, tỷ
lệ tuân thủ VST ở các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh đã cải thiện đáng kể.
Nhiều nghiên cứu được thực hiện tại một số
bệnh viện trong nước, cho thấy tỷ lệ vệ sinh tay
khá dao động: Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2010 là
25,7%; Bệnh viện Nhi đồng 2 năm 2013 là 55,3%;
Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2011 là
58,6%(3,4,5).
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tuân thủ VST
ở NVYT gồm thiếu phương tiện, thiếu kiến thức,
thiếu kiểm tra giám sát và thiếu biện pháp tạo
dựng thói quen VST(1).
Vệ sinh tay tại bệnh viện Bình Dân
Tại bệnh viện Bình Dân, khi chương trình vệ
sinh tay được phát động năm 2007. Kể từ đó,
chương trình vệ sinh tay liên tục được phát động

và thực hiện trong phạm vi toàn bệnh viện. Bên
cạnh việc tuyên truyền, phát động; vấn đề giám
sát tuân thủ vệ sinh cũng đã được thực hiện để
đánh giá kết quả chương trình, cũng như đánh
giá ý thức của NVYT và là cơ sở để đẩy mạnh,
phát huy chương trình này.
Thời gian qua, Khoa Kiểm soát Nhiễm
khuẩn thực hiện đánh giá tuân thủ vệ sinh tay
của tất cả các đối tượng NVYT tại 5 khoa trọng
điểm: Niệu A, Niệu B, Tổng quát 1, Tổng quát 2,
Tổng quát 3. Tuy nhiên, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay
chưa cao, kỹ thuật vệ sinh tay có những lúc chưa
đúng, công tác giám sát chưa mở rộng ra toàn
bệnh viện.

Nghiên cứu Y học

Để khảo sát thực trạng vệ sinh tay trong
toàn bệnh viện, phát hiện những vấn đề đưa
đến sự tuân thủ vệ sinh tay chưa tốt, qua đó
xây dựng chương trình cải thiện vệ sinh tay
trong bệnh viện; chúng tôi thực hiện đề tài:
Khảo sát thực trạng tuân thủ vệ sinh tay tại
bệnh viện Bình Dân.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
Đánh giá sự tuân thủ vệ sinh tay của nhân
viên y tế tại Bệnh viện Bình Dân trong năm 2017.
Mục tiêu cụ thể

Xác định tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân
viên y tế trong bệnh viện.
Phân bố sự tuân thủ vệ sinh tay theo khoa
lâm sàng, đối tượng và theo 5 thời điểm khuyến
cáo vệ sinh tay của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Xác định yếu tố làm ảnh hưởng đến sự tuân
thủ vệ sinh tay: nghề nghiệp, khoa lâm sàng.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bác sĩ, Điều dưỡng, Hộ lý, Kỹ thuật viên,
Học sinh – Sinh viên, nhân viên khác đang công
tác tại các khoa lâm sàng tại bệnh viện Bình Dân.
Phương pháp nghiên cứu
Cắt ngang mô tả
Tiêu chí chọn vào nghiên cứu
Nhân viên y tế có tiếp xúc với người bệnh tại
5 thời điểm được WHO khuyến cáo vệ sinh tay.
Theo WHO có 5 cơ hội VST cần phải được
thực hiện với NVYT:
Trước khi tiếp xúc với người bệnh.
Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn.
Sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết
Sau khi tiếp xúc với bệnh nhân.
Sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt vùng
xung quanh bệnh nhân.
Thời gian, địa điểm nghiên cứu
Thời gian: từ ngày 01/07/2017 đến hết ngày

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


535


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

31/10/2017.
Địa điểm: 12 khoa lâm sàng của bệnh viện
Bình Dân.
Phương pháp thực hiện
Việc tuân thủ VST được đánh giá bằng
phương pháp quan sát không tham gia và điền
vào bảng kiểm theo mẫu của WHO các cơ hội
VST của NVYT. Nhóm quan sát viên gồm 3
NVYT thuộc khoa KSNK của bệnh viện, là
những người có kinh nghiệm trong việc giám sát
tuân thủ VST, là người có kinh nghiệm nên biết
rõ họ đang quan sát ai. Trước khi quan sát, nhóm
quan sát viên được tập huấn để thống nhất cách
quan sát, cách điền bảng kiểm và đặc biệt là đảm
bảo tính khách quan trong quá trình quan sát.
Các quan sát viên dùng bảng kiểm quan sát,
trong bảng kiểm ghi rõ 5 thời điểm NVYT cần
VST khi điều trị và chăm sóc bệnh nhân.
Việc xác định cơ hội VST được trình bày (Ví
dụ: trước khi điều dưỡng thực hiện thay băng
vết mổ cho bệnh nhân thì điều dưỡng phải vệ
sinh tay thường quy (VSTTQ) với nước và xà

phòng hoặc dung dịch sát khuẩn tay nhanh có
chứa cồn do đó trường hợp này được đánh dấu
vào dòng thứ 2. Hoặc sau khi 1 bác sĩ thăm khám
bụng cho bệnh nhân thì cũng phải VSTTQ do đó
trường hợp này được đánh dấu vào dòng thứ 2).
Nhóm quan sát viên tách nhau để đi các
Khoa quan sát ngẫu nhiên, chọn vị trí quan sát
thích hợp để không gây sự chú ý của NVYT
được quan sát, không để NVYT biết mình đang
bị quan sát, nhưng vẫn đảm bảo quan sát được
đầy đủ các hoạt động mà NVYT thực hiện khi
chăm sóc và điều trị bệnh nhân.
Mỗi khoa được quan sát trong thời gian 45 –
60 phút/mỗi ngày, phân chia theo từng khu vực
trong khoa; mỗi NVYT được quan sát có ít nhất
02 cơ hội cần VST được quan sát. Trong cùng
một khoảng thời gian đó, nếu điều kiện quan sát
đảm bảo, quan sát viên có thể quan sát tối đa 2
NVYT.
Công cụ thu thập số liệu

Bảng kiểm quan sát thực hành được xây
dựng dựa trên bộ công cụ và cách tiến hành
đánh giá tuân thủ VST của WHO. Trong đó có
5 thời điểm cần rửa tay khi điều trị và chăm
sóc bệnh nhân để quan sát NVYT có tuân thủ
VST tại thời điểm đó hay không và đánh dấu
vào phiếu.
Định nghĩa biến số
Thực hành tuân thủ vệ sinh tay của nhân

viên y tế: Số cơ hội vệ sinh tay quan sát được: là
số cơ hội cần thực hiện VST được quan sát trong
tổng số 5 cơ hội cần VST. Đây là biến số rời rạc.
Số cơ hội có vệ sinh tay: Là số cơ hội NVYT
có thực hiện VST trong thời gian quan sát. Đây là
biến số rời rạc.
Tỷ lệ % tuân thủ VST: Số cơ hội có VST của
NVYT trong thời gian quan sát/ Tổng số cơ hội
VST được quan sát của NVYT trong thời gian
quan sát) × 100%. Đây là biến số rời rạc.
Phương pháp đánh giá
Đánh giá thực hành VST theo số cơ hội VST
của NVYT được thực hiện bằng phương pháp
quan sát không tham gia với bảng kiểm theo
mẫu của WHO. Nghiên cứu chỉ đánh giá NVYT
có thực hành VST là đạt (tức có tuân thủ VST)
khi có VST với nước và xà phòng hoặc với cồn/
dung dịch VST có chứa cồn ở tất cả các cơ hội
VST được quan sát. Nghiên cứu này không đánh
giá thực hành tuân thủ thực hiện đúng, đủ 6
bước của quy trình VST và thời gian phù hợp
cho mỗi lần VST.
Các khái niệm dùng trong nghiên cứu
Tuân thủ vệ sinh tay thường quy trong
nghiên cứu bao gồm: Có VST khi có cơ hội phải
VST và phải VST với nước và xà phòng hoặc
dung dịch sát khuẩn có chứa cồn.
Cơ hội VST: theo WHO, cơ hội VST là “Một
thời điểm khi có nguy cơ lây truyền mầm bệnh
thực tế hoặc tiềm tàng từ một bề mặt (hoặc bệnh

nhân) này tới bề mặt (hoặc bệnh nhân khác)
thông qua bàn tay”.
Theo WHO có 5 cơ hội VST cần phải được

536

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
thực hiện với NVYT:
Trước khi tiếp xúc với người bệnh.
Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn.
Sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết
Sau khi tiếp xúc với bệnh nhân.
Sau khi tiếp xúc với đồ dùng, bề mặt vùng
xung quanh bệnh nhân.
Đánh giá tuân thủ VST trong nghiên cứu
được đánh giá theo cơ hội VST và thực hành
VST của NVYT.
Tỷ lệ % tuân thủ VST = (Số cơ hội có VST của
NVYT trong thời gian quan sát/tổng số cơ hội
VST được quan sát của NVYT trong thời gian
quan sát) × 100%.
Tỷ lệ tuân thủ được tính cho từng nhóm đối
tượng nhân viên y tế, theo khoa phòng, theo 5
thời điểm vệ sinh tay của WHO.
Phương pháp xử lý dữ liệu
Nhập liệu và xử lý số liệu bằng phần mềm
Microsoft Excel 2007.


KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Có 7533 cơ hội được quan sát tại 12 khoa lâm
sàng trong suốt quá trình nghiên cứu.
Sự tuân thủ vệ sinh tay
Trong 7533 cơ hội bắt buộc phải vệ sinh tay,
có 5767 cơ hội NVYT có tuân thủ vệ sinh tay
(76,5%).
Tỷ lệ này cao hơn một số bệnh viện: Bệnh
viện Chợ Rẫy năm 2010 là 25,7%; Bệnh viện Nhi
đồng 2 năm 2013 là 55,3%; Bệnh viện Nhi Trung
ương năm 2011 là 58,6%, bệnh viện Nhi đồng 1
năm 2012 là 62%(3,4,5,6).
Phân bố sự tuân thủ rửa tay ở nhân viên y tế
Bảng 1. Phân bố loại vệ sinh tay của nhân viên y tế
STT
Loại vệ sinh tay
Số lượng Tỷ lệ (%)
1
Vệ sinh tay với cồn
5528
95,9
2 Vệ sinh tay với xà phòng – nước
239
4,1

Nghiên cứu Y học

Nhận xét: Có sự khác biệt trong chọn lựa kỹ

thuật rửa tay. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
vệ sinh tay với xà phòng - nước có tỷ lệ thấp hơn
vệ sinh tay với cồn (4,1% so với 95,9%).
Điều này cũng phù hợp với các khuyến cáo
của WHO và các nghiên cứu khác.
Vệ sinh tay với cồn hay còn gọi là sát trùng
tay nhanh với cồn giúp cho thao tác vệ sinh tay
nhanh hơn, dễ dàng thực hiện mọi nơi và không
cần có hệ thống bồn rửa tay, nước, thuận tiện khi
làm việc và ít khô tay.
Mối liên quan giữa cơ hội vệ sinh tay và các
yếu tố chi phối sự tuân thủ vệ sinh tay

Tuân thủ vệ sinh tay và các khoa lâm sàng
Bảng 2. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay theo khoa
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Có rửa tayKhông rửa tay

n
%
n
%
Hồi sức cấp cứu
503 78,2 140 21,8
Hồi sức tích cực & Chống 314 83,5 62
16,5
độc
Niệu A
1291 81,2 299 18,8
Niệu B
533 62,6 319 37,4
Niệu C
531 94,0 34
6,0
Nam học
252 79,5 65
20,5
Nội thận – Lọc máu
185 79,4 48
20,6
Nội tổng hợp – Ung bướu 258 75,4 84
24,6
Tổng quát 1
387 64,8 210 35,2
Tổng quát 2
668 73,1 246 26,9
Tổng quát 3
524 76,2 164 23,8

Tổng quát 4
321 77,2 95
22,8
Tổng
5767 76,5 1766 23,5
Khoa

Nhận xét: 12 khoa lâm sàng có tỷ lệ tuân thủ
chung là 76,5%.
Tất cả các khoa đều có tỷ lệ tuân thủ vệ sinh
tay trên 50%, trong đó 3 khoa có tỷ lệ tuân thủ
cao nhất là Niệu C (94,0%), Hồi sức Tích cực &
Chống độc (83,5%) và Niệu A (81,2%).
Tỷ lệ tuân thủ thấp nhất là khoa Niệu B
(62,6%) và khoa Tổng quát 1 (64,8%).
Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay giữa các khoa
không đồng đều, tập trung cao ở các khoa thuộc
khối Hồi sức và khối Niệu.
Tuy nhiên, các khoa cần xem lại công tác
huấn luyện và đào tạo nhân viên y tế, nhắc nhở

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

537


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học


tuân thủ vệ sinh tay và thực hiện kiểm tra, giám
sát, đánh giá thường xuyên.

nên tỷ lệ tuân thủ cao hơn các đối tượng khác.
Đây là vấn đề cần chú ý trong quá trình tập

Tuân thủ vệ sinh tay và các đối tượng nhân
viên y tế
Bảng 3. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay theo từng nhóm
đối tượng
Có rửa tay Không rửa
Kiểm định
tay
STT Đối tượng
χ2
n
%
n
%
1
Bác sĩ
310 39,3 478 60,7
2 Điều dưỡng 5089 83,2 1025 16,8
3
Hộ lý
119 63,3 69
36,7 p < 0,00001
Học sinh – 249 56,2 194 43,8
4
Sinh viên


Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay giữa các nhóm đối
tượng nhân viên y tế.
Điều dưỡng có tỷ lệ tuân thủ vệ sinh thay
cao nhất (83,2%) sau đó là hộ lý (63,3%), học sinh
– sinh viên (56,2%).
Bác sĩ có tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay thấp nhất
(39,3%).
Điều này có thể được giải thích do: điều
dưỡng là đối tượng tiếp xúc nhiều nhất với
người bệnh; đồng thời đây cũng là đối tượng

huấn, đào tạo; cần tuyên truyền cho các bác sĩ về
vai trò quan trọng của vệ sinh tay và nâng cao
vai trò của bác sĩ trong tuân thủ vệ sinh tay khi
thăm khám bệnh hàng ngày.

Tuân thủ vệ sinh tay và 5 thời điểm khuyến
cáo vệ sinh tay của WHO
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
tuân thủ vệ sinh tay giữa 5 thời điểm khuyến cáo
vệ sinh tay của WHO.
Thời điểm sau phơi nhiễm với máu và dịch
cơ thể có tỷ lệ tuân thủ cao nhất (91,0%); sau đó
là thời điểm sau khi tiếp xúc người bệnh (79,8%)
và sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh
người bệnh (76,3%).
Hai thời điểm trước khi tiến hành thủ thuật
vô khuẩn và trước khi tiếp xúc người bệnh có tỷ

lệ tuân thủ thấp nhất (lần lượt là 76,3% và
63,6%).
Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên
cứu của Bệnh viện Chợ Rẫy (2010), Bệnh viện
Nhi đồng 1 (2012) và Bệnh viện
Nhi đồng 2 (2013)(4,5,6).

thường xuyên được kiểm tra, giám sát, nhắc nhở
Bảng 4. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay theo 5 thời điểm khuyến cáo vệ sinh tay của WHO
STT

Thời điểm

1
2
3
4
5

Trước khi tiếp xúc người bệnh
Trước khi thực hiện thủ thuật vô khuẩn
Sau khi phơi nhiễm máu, dịch cơ thể
Sau khi tiếp xúc người bệnh
Sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh người bệnh

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 7533 cơ hội cần phải vệ sinh
tay tại 12 khoa lâm sàng từ ngày 01/07/2017 đến
hết ngày 31/10/2017, chúng tôi rút ra một số kết
luận như sau:

Việc tuân thủ rửa tay của NVYT khi có cơ
hội trong chăm sóc người bệnh còn chưa cao
(76,5%).

538

Có rửa tay
n
%
991 63,6
1154 73,7
1117 91,0
1786 79,8
719 76,3

Không rửa tay
n
%
568
36,4
412
26,3
111
9,0
452
20,2
223
23,7

Kiểm định χ2


p < 0,00001

Vệ sinh tay với cồn (95,9%) chiếm ưu thế hơn
so với vệ sinh tay với xà phòng – nước (4,1%).
Có sự phân bố không đồng đều tỷ lệ tuân
thủ vệ sinh tay theo các khoa (tỷ lệ tuân thủ dao
động từ 62,6 – 94%), tất cả các khoa đều có tỷ lệ
tuân thủ vệ sinh tay cao trên 50%.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ
lệ tuân thủ giữa các đối tượng nhân viên y tế:
cao nhất Điều dưỡng (83,2%) và Hộ lý (63,3%),

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
thấp nhất ở học sinh – sinh viên (56,2%) và
Bác sĩ (39,3%).
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
tuân thủ giữa các thời điểm khuyến cáo cần vệ
sinh tay của WHO: cao nhất ở thời điểm sau khi
phơi nhiễm máu, dịch tiết cơ thể (91,0%) và sau
khi tiếp xúc người bệnh (79,8%); thấp nhất ở thời
điểm trước khi tiếp xúc người bệnh (63,6%) và
trước khi tiến hành thủ thuật vô khuẩn (73,7%).

KIẾN NGHỊ
Kết quả của nghiên cứu cho thấy việc tuân
thủ vệ sinh tay tại các khoa lâm sàng tại bệnh

viện Bình Dân được thực hiện khá tốt, đồng thời
kết quả này cũng gợi ý chương trình vệ sinh tay
của bệnh viện cần tập trung vào những đối
tượng, những khoa, những thời điểm chưa có sự
tuân thủ vệ sinh tay tốt. Từ đó, chúng tôi đưa ra
một số kiến nghị như sau:
Cung cấp đầy đủ và sẵn sàng các chai dung
dịch rửa tay nhanh chất lượng tốt tại hành lang
các khoa, phòng, trong phòng bệnh nhân và tại
mỗi giường của bệnh nhân (đối với khoa hồi sức
cấp cứu tích cực).
Đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn vệ sinh
tay thông qua poster, hướng dẫn và screensaver.
Tổ chức huấn luyện về vệ sinh tay cho nhân
viên y tế 2 lần/ năm: đặc biệt huấn luyện cho đối
tượng bác sĩ và học sinh – sinh viên đến học và
thực tập tại bệnh viện. Bên cạnh đó cần đưa vấn
đề tuân thủ vệ sinh tay vào thi đua khen thưởng
của bệnh viện nhằm nâng cao tỷ lệ tuân thủ.
Tăng cường giám sát vệ sinh tay ở tất cả các
khoa trong bệnh viện.
Nâng cao kỹ năng của nhân viên giám sát
thông qua huấn luyện đào tạo.

Nghiên cứu Y học

Có biện pháp khen thưởng, động viên kịp
thời đối với những cá nhân, tập thể khoa thực
hiện tốt vấn đề vệ sinh tay; đồng thời, có các biện
pháp chế tài thích hợp đối với các cá nhân, tập

thể chưa thực hiện tốt chương trình vệ sinh tay
trong bệnh viện.
Các kết quả tuân thủ vệ sinh tay được báo
cáo lên Hội đồng Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh
viện, Ban Giám đốc và các khoa phòng được
giám sát để kịp thời điều chỉnh và đưa ra các
biện pháp can thiệp thích hợp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Boyce JM, Pittet D (2002). Guideline for hand hygiene in
Health-care settings, Recommendations of the Healthcare
Infection Control Practices Advisory Committee and the
HICPAC/SHEA/APIC/IDSA Hand Hygiene Task Force.
MMWR Recomm Rep.51(RR-16):1-45.
Kampf G, Löffler H, Gastmeier P (2009). Hand Hygiene for the
Prevention of Nosocomial Infections. Dtsch Arztebl Int.

106(40): pp 649–655.
Lê Kiến Ngãi, Lục Thị Thu Quỳnh và cs (2011). Hiệu quả của
các chương trình thúc đẩy tuân thủ vệ sinh tay tại Bệnh viện
Nhi Trung ương. Tạp chí nghiên cứu y học lâm sàng, Bệnh viện
Trung ương Huế, 8(6), tr 74 – 79.
Lê Thị Anh Thư, Đặng Thị Vân Trang (2010). Tỷ lệ tuân thủ
rửa tay của nhân viên y tế theo 5 thời điểm của Tổ chức Y tế
thế giới, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 14(2): tr 436-439.
Nguyễn Thị Kim Liên và cộng sự (2013). Đánh giá thực hành
rửa tay của nhân viên y tế bệnh viện Nhi đồng 2, 16(2):tr 128131.
Nguyễn Thị Thanh Hà và cộng sự (2012). Đánh giá sự tuân
thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng bệnh
viện Nhi đồng 1, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 16(2):tr
128-131.
Nguyễn Việt Hùng, Lê Thị Thanh Thủy và cộng sự (2005),
Thực trạng phương tiện vệ sinh bàn tay, nhận thức và thực
hành vệ sinh bàn tay của Nhân viên y tế tại một số bệnh viện
khu vực phía Bắc, Tạp chí y học lâm sàng bệnh viện Bạch Mai, tr.
136-141.

Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

04/01/2018
06/01/2018
25/03/2018


539



×