MỞ BÀI:
Quyền sử dụng đất là loại tài sản có giá trị thực tế và giá trị sử dụng lớn
và thiết thực nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, trong những
năm qua, tranh chấp về quyền sử dụng đất (đặc biệt khi ly hôn) luôn là loại
tranh chấp phức tạp và gay gắt. Đây cũng là một trong những loại việc khó
khăn nhất và cũng là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết tranh chấp về tài
sản giữa vợ, chồng. Để giúp mọi người hiểu hơn về vấn đề này, nội dung dưới
đây đề cập tới vấn đề: "Xác định tài sản chung, tài sản riêng đối với quyền sử
dụng đất của vợ, chồng."
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi thiết
sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để giúp em hoàn thiện đề tài
hơn. Em xin cảm ơn!
NỘI DUNG:
I. Xác định tài sản chung, tài sản riêng đối với quyền sử dụng đất
của vợ, chồng
Nghiên cứu về quá trình giải quyết một vụ án hôn nhân và gia đình,
người ta nhận thấy rằng vấn đề phân chia tài sản của vợ chồng là một trong
những vấn đề khó khăn, phức tạp và không kém phần quan trọng. Tuy nhiên, để
phân chia được, trước hết người ta phải xác định được đâu là tài sản phải chia,
không chia và không được chia. Nghĩa là Tòa án phải xác định được đâu là tài
sản chung của vợ chồng, đâu là tài sản riêng của mỗi người và đâu là tài sản
của người thứ ba mà vợ chồng đang quản lý. Đặc biệt việc xác định tài sản
chung, tài sản riêng đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc phân chia tài sản của vợ chồng.
"Tài sản của vợ chồng” ở đây bao gồm cả tài sản riêng và tài sản chung
của họ trong khối tài sản hiện còn của gia đình. Thực chất việc xác định tài sản
1
chỉ được tiến hành khi trên thực tế vấn đề phân chia tài sản giữa vợ chồng được
đặt ra. Thông thường, yêu cầu đó được đặt ra ngay khi hôn nhân chấm dứt (ly
hôn, một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết) nhưng cũng có lúc nó được đặt
ra ngay cả trong thời kỳ hôn nhân (chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn
nhân đang tồn tại). Tuy nhiên, đương sự cần phải được trang bị một số kiến
thức nhất định về vấn đề này để bất kỳ lúc nào và ở đâu họ cũng có thể tự ý
thức và xác định được rằng tài sản nào là chung và tài sản nào là của riêng
mình theo pháp luật. Đó là một trong những thuận lợi lớn cho việc áp dụng
pháp luật vào việc giải quyết vấn đề khi yêu cầu phân chia tài sản được đặt ra.
Điều này góp phần hạn chế tối đa những tranh chấp không đáng có giữa vợ và
chồng. Như vậy, xác định tài sản không chỉ là công việc của Tòa án mà đó còn
là trách nhiệm của đương sự (phải biết và phải ý thức được) trong quá trình Tòa
án giải quyết yêu cầu phân chia tài sản.
1. Xác định tài sản chung đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng
1. 1.Khái niệm tài sản chung:
Theo Khoản 1 Điều 27:" Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.." Thời kỳ hôn
nhân được tính từ khi hai bên nam nữ kết hôn. Việc kết hôn đó được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công nhận theo đúng thủ tục và các điều kiện luật
định. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sống với nhau cùng chung sức, ý
chí tạo dựng tài sản nhằm nuôi sống gia đình, vì lợi ích chung của gia đình.
Trong thời kỳ hôn nhân những tài sản (bao gồm cả động sản và bất động sản)
đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất là một quyền về tài
sản đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Như vậy, mọi tài sản trong
gia đình có được trong thời kỳ hôn đều được coi là tài sản chung của vợ chồng,
vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà
không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra hay công sức đóng góp của mỗi
2
bên. Ví dụ: Trong thời kỳ hôn nhân, chồng mua một miếng đất, miếng đất khi đó
sẽ được đứng tên cả hai vợ chồng, đây chính là tải sản chung của vợ chồng
1.2. Xác định tài sản chung đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng
Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Áp dụng luật chung
về quan hệ tài sản Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
"...Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được
thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.."
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng.
Theo quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật đất đai, quyền sử dụng
đất là một loại quyền tài sản có tính chất đặc thù. Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy định của pháp luật.,
bảo đảm đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và
cá nhân sử dụng ổn định lâu dài (Điều 12, 18 Hiến pháp năm 1992). Cá nhân có
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, để lại thừa kế quyền sử
dụng đất. Quyền sử dụng đất của vợ, chồng cùng có được sau khi kết hôn thuộc
khối tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại Nghị định số 70/2001/NĐ -
CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ thì:
+ Quyền sử dụng đất mà vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hay chồng được
nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các quyền sử
dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy
sản, đất làm muối, đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để
trồng rừng, đất ở được Nhà nước giao, đất chuyên dùng ).
+ Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hay chỉ một bên
vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là
tài sản chung của vợ chồng đối với đất mà vợ chồng nhận thế chấp quyền sử
dụng đất của người khác.
3
Quyền sử dụng đất là một trong số những tài sản mà pháp luật có quy định
phải đăng ký quyền sở hữu. Theo quy định của pháp luật thì trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phải ghi tên của cả vợ và chồng. Đây chính là căn cứ
pháp lý để xác định tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp. Đối với
những quyền sử dụng đất mà vợ chồng khi có tranh chấp nhưng không chứng
minh được tài sản đó là tài sản riêng của một bên thì tài sản đó là tài sản chung
của vợ chồng. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình cũng hướng dẫn cụ thể tại Điều 5:
" 1. Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở
hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật
Hôn nhân và gia đình bao gồm : nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác
mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này được
thực hiện kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực.
3. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký
quyền sở hữu trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên
vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng;
nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, thì tài
sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho
đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh."
Trên thực tế, người chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia đình
và thường đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy
định quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ
chồng có ý nghĩa bảo đảm sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ về tài
4
sản. Trên thực tế vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
hoặc sau ly hôn là quyền sử dụng đất rất phức tạp do các giấy tờ pháp lý liên
quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người và việc xác định quyền sử
dụng đất là tài sản chung hay riêng để bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi
người là rất khó khăn. Việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định một
cách rõ ràng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung
sẽ là một cơ sở pháp lý cần thiết cho vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai khi
chia tài sản chung của vợ chồng.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khẳng định: "Tài sản chung của
vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất" (Điều 27). Đây là quy định mới và hoàn
toàn phù hợp với nội dung của Bộ luật dân sự về quyền sở hữu. Chế độ sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với truyền thống
gia đình Việt Nam, như câu cha ông ta thường nói "của chồng công vợ". Chính
sự hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hòa và bền
chặt hơn trong quan hệ gia đình.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng nhưng hai vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được
thừa kế riêng chỉ là tải sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Theo Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 2, vợ hoặc chồng có quyền nhập
hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Thoạt trông, có vẻ như
nhà làm luật muốn dự kiến một cách tạo ra tài sản chung theo ý chí khác với
việc tạo ra tài sản chung bằng cách xây dựng một thoả thuận của vợ chồng về
việc coi một tài sản riêng nào đó là của chung, đã được phân tích ở trên. Nói rõ
hơn, nếu sự thoả thuận của vợ chồng có tác dụng tạo ra tài sản chung theo ý chí
của hai người, thì việc nhập một tài sản riêng vào khối tài sản chung có tác
dụng tạo ra một tài sản chung theo ý chí của một người.
5
Thế nhưng, theo Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 13 khoản 1,
thì việc nhập tài sản là quyền sử dụng đất thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc
chồng vào tài sản chung phải được ghi nhận bằng văn bản có chữ ký của cả vợ
và chồng. Việc đòi hỏi chữ ký của cả vợ và chồng cho phép nghĩ rằng việc
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung phải được sự đồng thuận giữa vợ và
chồng. Quy định đó, cùng với việc không có điều luật nào nói rõ hơn về sự thoả
thuận coi một tài sản nào đó là của chung, cho phép nghĩ rằng nhập tài sản
riêng vào khối tài sản chung chỉ là một cách diễn đạt khác của sự thoả thuận
của vợ chồng coi một tài sản nào đó là của chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho
chung:
Trường hợp quyền sử dụng đất do vợ chồng có được do được tặng cho
hoặc thừa kế: nếu vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế chung, thì đó là tài sản
chung, cũng do áp dụng luật chung về thành phần cấu tạo các khối tài sản; còn
nếu vợ, chồng được tặng cho hoặc thừa kế riêng, thì chắc chắn đó là tài sản
riêng. Trong các chừng mực đó, Điều 27 khoản 1, đã dẫn, chỉ nhắc lại các quy
tắc sẵn có, như một cách khẳng định các giải pháp của luật chung đối với vấn
đề chung hay riêng của quyền sử dụng đất.
Mặc dù pháp luật đã quy định rõ về vấn đề xác định tài sản chung, tài sản
riêng đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng nhưng trên thực tế vẫn còn có rất
nhiều những tranh chấp về quyền sử dụng đất sau khi vợ chồng ly hôn. Có
trường hợp cha mẹ tặng cho con tài sản khi con đang tồn tại quan hệ hôn nhân
nhưng trong giấy đăng ký nhưng trong giấy tặng cho tài sản không ghi là tặng
cho vợ chồng, con mà chỉ khi là cho một người (là con trai hoặc con gái),
nhưng vợ chồng đã cùng nhau sử dụng trong thời gian dài, đến khi vợ chồng có
mâu thuẫn thì người được tăng cho tài sản trả lại bố mẹ tài sản đó. Như vậy, đối
với trường hợp này việc xác định tài sản chung, tài sản riêng như thế nào?
6