Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát nguyện vọng sinh con ở bệnh nhân ung thư phụ khoa trong độ tuổi sinh sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.09 MB, 6 trang )

Bệnh viện Trung ương Huế

KHẢO SÁT NGUYỆN VỌNG SINH CON
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỤ KHOA TRONG ĐỘ TUỔI SINH SẢN
Trần Đặng Ngọc Linh1, Nguyễn Thụy Vân Khanh2,
Nguyễn Thị Ánh Mai1, Nguyễn Thị Thanh Thủy1

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tỉ lệ bệnh nhân ung thư phụ khoa trong độ tuổi sinh sản có nguyện vọng muốn sinh con.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 150 bệnh nhân ≤ 45 tuổi được chẩn đoán và điều trị ung thư
phụ khoa tại khoa Xạ 2 – Bệnh viện Ung Bướu được phỏng vấn theo bảng câu hỏi soạn sẵn.
Kết quả: 92% bệnh nhân đã có ít nhất 1 con tại thời điểm chẩn đoán, chỉ có 8% bệnh nhân chưa có con.
96% các bệnh nhân đã lập gia đình. 44% bệnh nhân mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản và 27,3%
bệnh nhân có nguyện vọng muốn sinh thêm con.
Kết luận: Hầu hết bệnh nhân ung thư phụ khoa trong độ tuổi sinh sản đã lập gia đình và có ít nhất 1 con
tại thời điểm chẩn đoán. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân vẫn có nguyện vọng muốn sinh thêm con và mong
muốn bảo tồn chức năng sinh sản.
Từ khóa: ung thư phụ khoa, độ tuổi sinh sản

ABSTRACT
THE WILLING OF REPRODUCTIVE AGE GYNECOLOGIC CANCER PATIENTS IN
HAVING MORE CHILDREN
Tran Dang Ngoc Linh1, Nguyen Thuy Van Khanh2,
Nguyen Thi Anh Mai1, Nguyen Thi Thanh Thuy1
Purpose: To survey the willing of reproductive age gynecologiccancer patients in having more children
after treatment.
Patients and Methods: 150 gynecologic cancer patients ≤ 45 years old at Radiation Department 2,
HCM city Oncology Hospital answered the questionnaire.
Results: 92% of reproductive age gynecologic cancer patients already had birth at the time of diagnosis.
96% of the patients had married yet. 44% of patients desired reproductive conservation therapy and 27.3%
of patients wanted to have more children after treatment.


Conclusion: Most reproductive age gynecologic cancer patients had married and given birth already
at the time of diagnosis. However, many patients still wanted to have reproductive conservation therapy
so they could having more children after treatment.
Keywords: gynecologic cancer, reproductive age
1. Bệnh viện Ung bướu Tp HCM
2. Trường ĐH Y Dược Tp HCM

- Ngày nhận bài (Received): 25/6/2019; Ngày phản biện (Revised): 30/7/2019;
- Ngày đăng bài (Accepted): 26/8/2019
- Người phản hồi (Corresponding author): Trần Đặng Ngọc Linh1
- Email: ; Sđt: 0708803465

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019

173


Khảo sát nguyện vọng
sinh
con
ở bệnh
nhân...
Bệnh
viện
Trung
ương
Huế
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phụ khoa (bao gồm: ung thư cổ tử cung,
ung thư nội mạc tử cung, ung thư âm đạo, ung thư

âm hộ, ung thư buồng trứng) là bệnh lý ác tính
thường gặp ở phụ nữ, trong đó ung thư cổ tử cung là
ung thư phụ khoa thường gặp nhất, có tỉ lệ mắc và tỉ
lệ tử vong đứng thứ 4 trong các loại ung thư ở phụ
nữ trên toàn cầu (2018) [1].
Ung thư phụ khoa ngoài việc ảnh hưởng đến sức
khỏe chung và tính mạng, việc điều trị còn có thể
ảnh hưởng nhiều đến chức năng sinh sản, thiên chức
của người phụ nữ [2].
Ngày nay, người phụ nữ hiện đại có xu hướng
lập gia đình trễ, sinh con trễ và sinh ít con. Đỉnh tuổi
của ung thư phụ khoa thường là lớn tuổi. Tuy nhiên,
không ít trường hợp ung thư phụ khoa xuất hiện ở
người trẻ, những phụ nữ còn trong độ tuổi sinh sản,
chưa sinh con hoặc chưa có đủ số con. Vì vậy, họ
mong muốn có thể sinh thêm con.
Hiện tại, ở Việt Nam, chưa có khảo sát nào được
công bố về nguyện vọng sinh con ở bệnh nhân ung
thư phụ khoa trong độ tuổi sinh sản.
Chúng tôi thực hiện khảo sát này nhằm đánh giá:
- Nguyện vọng muốn sinh con ở các bệnh nhân
ung thư phụ khoa trong độ tuổi sinh sản.
- Nguyện vọng muốn bảo tồn chức năng sinh sản
ở các bệnh nhân này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Các bệnh nhân ≤ 45 tuổi được chẩn đoán xác
định là ung thư có giải phẫu bệnh lý xác định nhập
viện tại khoa Xạ 2 - Bệnh viện Ung Bướu TPHCM.

Bệnh nhân được giải thích về mục đích cuộc
khảo sát và đồng ý trả lời phỏng vấn.
Cỡ mẫu: do chưa có khảo sát nào tương tự về vấn
đề này, chúng tôi chọn dự kiến tỉ lệ trả lời bệnh nhân
có nguyện vọng muốn sinh con là 50% để số mẫu là
tối đa, p=0,5, độ lệch chuẩn 10%, α=0,05.
Cỡ mẫu n ≥ (1,96)2 p(1-p)/(0,1)2 = 96 bệnh nhân.

174

Thực tế có 150 bệnh nhân được phỏng vấn.
2.2. Phương pháp: phỏng vấn theo bảng câu
hỏi
Phỏng vấn được thực hiện bởi nhân viên y tế theo
mẫu câu hỏi được soạn sẵn. Bệnh nhân có quyền từ
chối không trả lời hay ngưng trả lời bất cứ lúc nào.
Kết quả phỏng vấn sẽ được tổng hợp và xử lý
bằng phần mềm SPSS 13.0 for Windows.
2.3. Tiêu chuẩn đánh giá
Tiêu chuẩn đánh giá chính: Tỉ lệ bệnh nhân có
nguyện vọng muốn sinh con.
III. KẾT QUẢ
3.1. Bệnh nhân
3.1.1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân tham gia
nghiên cứu
Tổng cộng có 150 bệnh nhân đều là nữ ≤ 45 tuổi
điều trị tại khoa Xạ 2 – BV Ung Bướu TPHCM.
Tuổi trung bình: 37 tuổi, trung vị 38 tuổi, độ lệch
chuẩn: 5,6 tuổi.


Biểu đồ 1: Phân bố tuổi của các bệnh nhân
Bảng 1: Phân bố các loại ung thư của nhóm bệnh nhân
Loại ung thư

n

%

Cổ tử cung

140

93,3

Nội mạc tử cung

3

2

Âm hộ

3

2

Âm đạo

2


1,3

Khác (a)

2

1,3

Ghi chú: (a): 1 ca Sarcôm thân tử cung,
1 ca Sarcôm môi lớn

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019


Bệnh viện Trung ương Huế
Bảng 2: Trình độ học vấn của nhóm bệnh nhân
Trình độ học vấn

n

%

Mù chữ

12

8

Tiểu học


42

28

Trung học cơ sở

49

32,7

Trung học phổ thông

33

22

Đại học / Cao đẳng

8

5,3

Không rõ

6

4

3.1.2. Các câu trả lời về tiếp nhận thông tin
Câu hỏi 1. Tình trạng hôn nhân hiện tại của Cô/

Bà là gì?

Dân tộc: Kinh 96%; Hoa 2%; Khơ me 1.3%; Ba
Biểu đồ 2: Tình trạng hôn nhân hiện tại của bệnh nhân
na 0.7%
Bảng 3: Nguyện vọng của bệnh nhân về mong muốn sinh thêm con
Câu hỏi

Trả lời

92%
2
51,3%
Không rõ
16%

C2. Cô/Bà đã có con chưa?
C3. Số con còn sống hiện tại của
Cô/Bà là bao nhiêu?
C4. Cô/Bà còn muốn sinh thêm
con sau này nữa không?

>2
10%
Không
56,7%

Chưa
8%
0

8%

1
30,7%

C5. Nếu muốn sinh thêm, Cô/Bà muốn sinh thêm bao nhiêu con?


27,3%
1
24%

2
2%

Chưa
xác định
1,3%

Bảng 4: Nguyện vọng của bệnh nhân về mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản
Câu hỏi
C6. Cô/Bà có muốn bảo tồn
chức năng sinh sản không?

Trả lời
Không
24,7%

Không rõ
31,3%


C7. Lý do Cô/Bà muốn bảo tồn chức năng sinh sản?

Còn muốn
sinh thêm con
27,3%


44%
Vấn đề
QHTD (b)
11,3%

Khác
5,3%

Chú thích: (b) QHTD: quan hệ tình dục
IV. BÀN LUẬN
Đặc điểm nhóm bệnh nhân
Tại các nước đang phát triển, ung thư cổ tử cung
là ung phụ khoa thường gặp nhất, kế đến là ung thư
nội mạc tử cung, buồng trứng, âm hộ và âm đạo,
đây cũng là thứ tự các ung thư phụ khoa thường gặp
tại Việt Nam [1]. Khoa Xạ 2 Bệnh viện Ung Bướu
TPHCM phụ trách xạ trị các ung thư phụ khoa. Xạ
trị cùng với phẫu trị là mô thức điều trị chính trong
các ung thư cổ tử cung, nội mạc tử cung, âm hộ và

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019


âm đạo, ít có vai trò trong điều trị ung thư buồng
trứng. Bệnh nhân ung thư cổ tử cung thường gặp
nhất chiếm đến 80-90% tổng số bệnh của khoa, kế
đến là ung thư nội mạc tử cung. Trong khảo sát này,
90% bệnh nhân được khảo sát là bệnh nhân ung thư
cổ tử cung phù hợp với phân bố bệnh tại khoa Xạ 2.
Đỉnh tuổi thường gặp trong ung thư phụ khoa
thường là lớn tuổi, đối với ung thư cổ tử cung, nội
mạc tử cung, buồng trứng là sau 50 tuổi, riêng với
ung thư âm hộ và âm đạo đỉnh tuổi xảy ra trễ hơn,

175


Khảo sát nguyện vọng
Bệnh
sinh
viện
con
Trung
ở bệnh
ương
nhân...
Huế
thường sau 60 tuổi. Tuy nhiên, ung thư buồng trứng
có thể gặp ở người rất trẻ, thậm chỉ ở trẻ em như đối
với ung thư buồng trứng loại tế bào mầm. Ung thư
cổ tử cung rất hiếm gặp ở người dưới 20 tuổi, hiếm
gặp ở người trẻ dưới 25 tuổi, sau 25 tuổi tần suất
tăng dần cho đến sau 50 tuổi. Ung thư nội mạc tử

cung có tuổi mắc bệnh và đỉnh tuổi thường gặp trễ
hơn ung thư cổ tử cung.
Trong nghiên cứu này, do đối tượng khảo sát nằm
trong độ tuổi sinh sản ≤ 45 tuổi, chúng tôi ghi nhận
tuổi nhỏ nhất là 21 tuổi, tuổi trung bình là 37 tuổi,
tuổi trung vị là 38 tuổi là phù hợp. Đỉnh tuổi thường
gặp nhất của khảo sát này là 41-45 tuổi chiếm 34%,
có 35,3% số bệnh nhân ≤ 35 tuổi.
Trình độ văn hóa tiểu học là 28%, trung học cơ
sở 32.7%, trung học phổ thông 22% và đại học/
cao đẳng 5.3%. Nhìn chung, đại đa số bệnh nhân
(>90%) biết chữ, có thể đọc viết, trong đó gần 1/3
có trình độ văn hóa từ trung học phổ thông trở lên,
đây là những đối tượng có khả năng tự tìm hiểu về
bệnh của mình và có đủ trình độ tiếp thu các thông
tin về chẩn đoán và điều trị.
Kết quả cho thấy đa số bệnh nhân đã lập gia đình
và có con (96% và 92%), trong đó có 30,7% có 1
con còn 61,3% đã có từ 2 con trở lên, chỉ có 8% là
chưa có con. Tuy nhiên có đến 27,3% số bệnh nhân
có nguyện vọng mong muốn sinh thêm con và 16%
không thể xác định được mình có nguyện vọng sinh
thêm con trong tương lai hay không.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy độ
tuổi kết hôn lần đầu trung bình của phụ nữ Việt Nam
vào năm 2016 (mới nhất) ở nông thôn là 24,5 tuổi,
ở thành thị là 26,4 tuổi. Trong khảo sát này chỉ có 2
bệnh nhân ở độ tuổi dưới 25tuổi nên 96% bệnh nhân
đã kết hôn là phù hợp [3].
Quan điểm của bệnh nhân về nguyện vọng

muốn sinh thêm con
Các bệnh nhân khi được phỏng vấn đa số đều tỏ
ra bối rối khi vừa tiếp nhận tin xấu. Họ căng thẳng,
đau buồn, sợ chết, lo lắng cho gia đình, người thân.
Mối quan tâm của bệnh nhân lúc này chủ yếu là

176

mình còn sống được bao lâu và làm sao để điều trị
bệnh. Nhiều bệnh nhân không thể đưa ra được quyết
định về nguyện vọng có muốn sinh thêm con không
và buông xuôi để tùy bác sĩ quyết định. Điều này
không khác biệt nhiều đối với bệnh nhân ở các nước
phương Tây khi nguyện vọng muốn sinh thêm con
thay đổi nhiều ở thời điểm trước và sau khi tiếp nhận
chẩn đoán (48,1% giảm còn 27,5%) [5] và nhiều
bệnh nhân sau khi kết thúc điều trị đã cảm thấy hối
tiếc và thay đổi nguyện vọng so với lúc đầu [6,7].
Trong khảo sát của chúng tôi, có 27,3% bệnh
nhân cho biết là còn có ý định muốn sinh thêm con.
Tuy nhiên vẫn ưu tiên cho điều trị chỉ khi nào việc
điều trị vẫn an toàn thì mới xét đến việc sinh thêm
con. Các bệnh nhân này tập trung ở nhóm chưa lập
gia đình và chưa sinh con. Đối với các bệnh nhân chỉ
có 1 con, không ít bệnh nhân cũng không hay chưa
có ý định sinh thêm con. Các bệnh nhân này chiếm
đa số trong số 16% bệnh nhân lựa chọn không rõ là
muốn sinh con nữa hay không.
Theo thống kê dân số của Liên Hợp Quốc, tỉ lệ
sinh trung bình của người Việt Nam trong 5 năm gần

đây là 1,96 con / mẹ (2017) [4] nên những bệnh nhân
đã có đủ 2 con hoặc hơn thì ít quan tâm đến vấn đề
bảo tồn chức năng sinh sản. Trong nghiên cứu này, có
61,3% bệnh nhân đã có từ 2 con trở lên, hầu như bệnh
nhân không còn ý định sinh thêm con. Ngược lại, có
đến 38,7% bệnh nhân chưa có hay chỉ có 1 con thì
vấn đề này cần phải được bàn luận kỹ với bệnh nhân.
Với sự thay đổi của xã hội ngày nay, nhiều bệnh
nhân ly hôn hoặc tái hôn sau điều trị [8]. Khi điều
trị bệnh ổn định thời gian dài, khỏi bệnh, nhiều bệnh
nhân kết hôn lần hai, lúc này có thể phát sinh nhu
cầu có con với chồng sau. Vì vậy, bất cứ lúc nào có
cơ hội bảo tồn chức năng sinh sản, bác sĩ cần đặt vấn
đề và bàn luận nghiêm túc với bệnh nhân.
Quan điểm của bệnh nhân về nguyện vọng bảo
tồn chức năng sinh sản
Kết quả cho thấy 44% bệnh nhân có mong muốn
được bảo tồn chức năng sinh sản, trong đó các lí do
chính được đưa ra là vì muốn sinh thêm con (27,3%)

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019


Bệnh viện Trung ương Huế
và lo sợ ảnh hưởng đến đời sống tình dục (11,3%).
Bên cạnh đó cũng khá nhiều bệnh nhân không thể
đưa ra được quyết định cho mình (31,3%) khi còn
nhiều lo lắng, băn khoăn trong việc quyết định điều
trị bệnh và lựa chọn các phương pháp điều trị.
Nhiều nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của

bệnh nhân ung thư sau điều trị cho thấy các vấn đề
liên quan đến sinh sản và tình dục đã ảnh hưởng
nhiều đến tâm lý của bệnh nhân [5, 9, 10, 11]. Khảo
sát của Jessica R Gorman và các cộng sự (2010)
cho rằng vấn đề liên quan đến sinh sản sau điều trị
góp phần gây ra các triệu chứng trầm cảm kéo dài,
gần 20% trường hợp đã được báo cáo [5]. Gần đây,
Chapman CH và các cộng sự (2018) đã báo cáo
78,7% bệnh nhân ung thư phụ khoa sau điều trị với
phương pháp xạ trị cho rằng vấn đề tình dục là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống [7].
Muốn bảo tồn chức năng sinh sản, điều kiện tiên
quyết là phải giữ được buồng trứng. Lý tưởng nhất
là giữ lại được 1 buồng trứng và tử cung, như vậy
sau này bệnh nhân có thể thụ thai, mang thai và sinh
con bình thường. Nếu chỉ giữ được buồng trứng mà
không giữ được tử cung thì sau này bệnh nhân phải
nhờ thụ tinh nhân tạo và mang thai hộ. Nếu đánh giá
không thể giữ được buồng trứng và cả tử cung thì có
thể tư vấn bệnh nhân dự trữ trứng trước khi điều trị,
sau này phải thụ tinh nhân tạo và mang thai hộ. Về
điều trị, phẫu trị bảo tồn có thể giúp bảo tồn được
buồng trứng, tử cung trong ung thư buồng trứng và
cổ tử cung giai đoạn sớm. Hóa trị cũng giúp bảo

tồn chức năng sinh sản trong một số trường hợp ung
thư buồng trứng. Điều trị nội tiết giúp bảo tồn chức
năng sinh sản trong một số rất ít trường hợp ung thư
nội mạc tử cung giai đoạn rất sớm phụ thuộc nội

tiết. Ngược lại, ung thư âm hộ nếu chỉ được phẫu
thuật đơn thuần ở giai đoạn sớm hầu như không
ảnh hưởng đến chức năng sinh sản, tuy nhiên rất
ít bệnh nhân ung thư âm hộ được hưởng lợi ít này,
phần vì ung thư âm hộ thường xảy ra ở người lớn
tuổi, phần vì đa số gặp ở giai đoạn muộn cần xạ trị
bổ túc sau mổ. Xạ trị vùng chậu điều trị các ung
thư phụ khoa (ung thư cổ tử cung, nội mạc tử cung)
hay xạ trị hạch chậu trong ung thư âm hộ sẽ làm
mất chức năng sinh sản của buồng trứng, do đó nếu
bệnh nhân cần bảo tồn chức năng sinh sản thì cần
thiết phải phẫu thuật chuyển vị buồng trứng ra khỏi
trường chiếu xạ hay phẫu thuật lấy buồng trứng ra
dự trữ trước khi xạ trị.
V. KẾT LUẬN
Khảo sát ở bệnh nhân ung thư phụ khoa trong
độ tuổi sinh sản cho thấy 96% bệnh nhân đã lập gia
đình và 92% có con. Tuy nhiên 27,3% bệnh nhân
vẫn có nguyện vọng muốn sinh thêm con và 44%
bệnh nhân mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản.
Như vậy, việc giải thích các ảnh hưởng của điều
trị cho bệnh nhân và đưa ra các biện pháp hỗ trợ,
chuẩn bị trước (Ví dụ như lưu trữ trứng,...) để giải
quyết các ảnh hưởng đó tùy theo nguyện vọng của
bệnh nhân là rất cần thiết. Nên tư vấn kỹ để khắc
phục được các vấn đề tâm lý sau điều trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Globocan 2018 – World Health Organization
(WHO).

2. Miriam F, Tracy W, Rick A, MD, et al. How
Cancer Treatments Can Affect Fertility in
Women. Accessed at />treatment/treatments-and-side-effects/physicalside-effects/fertility-and-sexual-side-effects/
fertility-and-women-with-cancer/how-cancer-

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019

treatments-affect-fertility.html on June 28, 2017.
3. Tổng cục Thống kê Việt Nam. http: www.gso.
gov.vn/SLTK/
4. Phòng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc. Bảng
dân số Việt Nam 1955 – 2017. />viet-nam/.
5. Chapman CH, Heath G, Fairchild P, et al. Gynecologic radiation oncology patients report unmet

177


Khảo sát nguyện vọng
Bệnh
sinh
viện
con
Trung
ở bệnh
ương
nhân...
Huế
needs regarding sexual health communication
with providers. J Cancer Res Clin Oncol. 2019;
145(2):495-502.

6. Halliday LE, Boughton MA, Kerridge I. Mothering and self-othering: the impact of uncertain
reproductive capability in young women after
hematological malignancy. Health Care Women
Int. 2014; 35(3):249-65.
7. Catherine Benedict, PhD, Bridgette Thom, MS,
Joanne F. Kelvin, RN. Young Adult Female Cancer Survivors’ Decision Regret About Fertility Preservation. J Adolesc Young Adult Oncol.
2015; 4(4): 213–8.
8. Hoàng Thị Thanh Thúy, Cam Ngọc Thúy, Trần
Đặng Ngọc Linh, và cs. Khảo sát quan điểm và
tình hình tái khám sau điều trị của bệnh nhân

178

ung thư.Tạp chí Ung thư học Việt Nam 2012; số
4: 595-600.
9. Kent EE, Arora NK, Rowland JH, et al. Health information needs and health-related quality of life
in a diverse population of long-term cancer survivors. Patient Educ Couns. 2012; 89(2):345-52.
10.Halliday LE, Boughton MA, Kerridge I. Mothering and self-othering: the impact of uncertain
reproductive capability in young women after
hematological malignancy. Health Care Women
Int. 2014; 35(3):249-65.
11.Jessica R Gorman, Vanessa L Malcame, Scott
C Roesch, et al. Depressive Symptoms among
Young Breast Cancer Survivors: The Importance
of Reproductive Concerns. Breast Cancer Res
Treat. 2010; 123(2): 477–485.

Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019




×