Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

So sánh hiệu quả gây mê giảm đau thông thường với gây mê giảm đau ngoài màng cứng liên tục bằng Marcaine + Fentanyl trong và sau gây mê phẫu thuật ở bụng tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.14 KB, 11 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH HIỆU QUẢ GÂY MÊ GIẢM ĐAU THÔNG THƯỜNG
VỚI GÂY MÊ GIẢM ĐAU NGOÀI MÀNG CỨNG LIÊN TỤC
BẰNG MARCAINE+FENTANYL TRONG VÀ SAU GÂY MÊ-PHẪU THUẬT
Ở BỤNG TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Nguyễn Văn Chinh*, Huỳnh Thanh Long*, Trương Hữu Trí*, Nguyễn Thị Lan Minh*,
Nguyễn Thu Chung*

TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh hiệu quả gây mê-giảm đau thông thường với gây mê-giảm đau ngoài màng cứng liên tục
3 ngày bằng Marcaine+Fentanyl liều thấp trong gây mê phẫu thuật đại phẫu ở bụng. So sánh chi phí và sự hài
lòng của người bệnh.
Phương pháp: Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng
Đối tượng nghiên cứu: 81 bệnh nhân ASA I-III. Nhóm 1: 40 bệnh nhân (nam 23/57,5%; nữ 17/42,5%);
Nhóm 2: 41 bệnh nhân (nam 16/39%; nữ 25/61%). Nhóm 1: vô cảm gây mê nội khí quản, duy trì mê Sevoran,
Esmeron và Fentanyl; Nhóm 2: gây mê nội khí quản, duy trì mê Sevoran và giảm đau ngoài màng cứng 3 ngày
bằng Marcaine 0,1% 5mg/giờ+Fentanyl 10µg/giờ. Loại phẫu thuật chủ yếu trên đường tiêu hóa do K. Thời gian
thực hiện từ tháng 10/2014-9/2015 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương.
Kết quả: Tuổi trung bình nhóm 1 thấp hơn nhóm 2 (58,15 so với 60,71 tuổi). Tuổi thấp nhất 25 và cao nhất
90. Thời gian gây mê-phẫu thuật nhóm 1 lâu hơn nhóm 2 (176 so với 155, 73 phút). Phẫu thuật nhanh nhất 50
phút và lâu nhất 360 phút. Chiều dài vết mổ 13,67-14,49 cm (6-20 cm). Nhóm 2 giảm nhu cầu sử dụng thuốc mê,
giãn cơ và opioids trong mổ đáng kể. Hồi tỉnh sớm và rút ống nội khí quản sớm hơn nhóm 1 (40,59 so với 50,37
phút) nhưng thời gian lưu lại hồi sức dài hơn nhóm 1 (475,12 so với 358,75 phút) do bệnh mổ hở nhiều hơn mổ
nội soi (35 cas so vơi 25 cas). Hiệu quả giảm đau giờ đầu nhóm 2 tốt hơn (78,5% so với 55%). Ít tác dụng phụ
hơn. Mức tê T4-T6 nên giảm đau bao phủ được vùng mổ. Nhóm 1 có VAS >3-5; Nhóm 2 có VAS <3 (p<0,05).
Tai biến-biến chứng như mạch chậm, hạ hay tăng huyết áp, buồn nôn ói mửa sau khởi mê và sau mổ nhóm 2 thấp
hơn (p<0,05). Chi phí nhóm 2 thấp hơn nhóm 1 là 260.000 đồng/1cas mổ (957.000 so với 1.218.000 đồng/1cas)
Kết luận: Gây mê kết hợp giảm đau ngoài màng cứng liên tục trong và sau mổ cho hiệu quả giảm đau vượt


trội. Ít tác dụng phụ, an toàn, ít biến chứng, cải thiện giai đoạn hồi phục sớm góp phần tăng chất lượng cuộc
sống, giảm chi phí, tăng sự hài lòng của người bệnh.
Từ khóa: Gây tê ngoài màng cứng liên tục, phẫu thuật bụng trên và dưới; gây mê nội khí quản.

ABSTRACT
COMPARISON OF EFFECTS OF ENDOTRACHEAL ANESTHESIA WITH CONTINUOUS EPIDURAL
PAIN RELIEF WITH MARCAINE AND FENTANYL DURING AND AFTER ANESTHESIA IN MAJOR
ABDOMINAL SURGERY AT NGUYỄN TRI PHƯƠNG HOSPITAL
Nguyen Van Chinh, Huynh Thanh Long, Truong Huu Tri, Nguyen Thi Lan Minh, Nguyen Thu Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 6 - 2015: 23 - 33
Aim: To compare the effects of endotracheal Anesthesia with continuous epidural pain relief with a low dose
of Marcaine and Fentanyl in major abdominal surgery.
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS CKII Nguyễn Thu Chung

ĐT: 0908138846 Email:

23


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Method: prospective study, transective description based on clinical aspects.
Objects: 81 patients, ASA I-III. Group 1 with 40 patients (male 23/57,5%; female 17/42,5%). Group 2 with
41 patients (male 16/39%; female 25/61%). Group 1: tracheal intubation, endotracheal anesthesia is maitained
with Sevoran, Esmeron and Fentanyl. Group 2: combined tracheal intubation and continuous epidural pain relief
during 3 days are maintained with Marcaine 0,1% 5mg/hour and Fentanyl 10µg/hour. This technique is mainly
indicated on the cases of intestinal cancer and is applied from October 2014 to September 2015 at Nguyễn Tri

Phương Hospital.
Results: Average age in group 1 is lowes in Group 2 (58.15 vs 60.71 years). The lowest age is 25, the highest
90. The anesthetic time in group 1 is longer (176 min vs 155.73 min). The average duration for operation is 50
min (most rapid) and 360 min (slowest). The incision is 13.67-14.49 cm (6-20 cm). In operation, analgesic,
muscle relaxant, opioids are reduced markedly in group 2. Consciousness and endotracheal withdrawing is earlier
(40.59 min vs 50.37 min), but time for post-operation is longer in group 1 (475.12 min vs 358.75 min) because of
more open-operations than endoscopic operations (35 cases vs 25 cases). One hour after operation, pain relief in
group 2 is better (78,5% vs 55%) and few side effects; with good blockage extent at T4-T6; VAS ≤ 3 in group 2
while VAS >3-5 in group 1 (p<0,05). Such complications as slow pulse, hypertension, hypotension after induction
or pumping gas in abdomen; nausea or vomiting after operation in group 2 is lower (p<0,05). Cost in group 2 is
lower than cost in group 1: 260.000 $/cas (957.000 $ vs 1.218.000 $/cas)
Inclusion: Combined endotracheal anesthesia and continuous epidural pain relief during and after anesthesia
in major abdominal surgery is safe, efficacious and excellent painless procedure. Few side-effects and no important
complications occur. Refinnements in consciousness will contribute the quality of life. Cost is markedly low.
Key word: Continous epidural anesthesia; upper and lower abdominal surgery; tracheal intubation
mất ngủ; đau gây ra hàng loạt các rối loạn khác
ĐẶT VẤN ĐỀ
như stress phẫu thuật, tăng catecholamine, tăng
Sức khỏe là vốn quý của con người, là một
rối loạn nội tiết, chuyển hóa, hô hấp, tuần hoàn,
trong những điều kiện cơ bản để con người sống
tăng nguy cơ thành đau mạn tính. Nếu điều trị
hạnh phúc, là mục tiêu và cũng là nhân tố quan
đau không đầy đủ tại thân thể và nội tạng sẽ ảnh
trọng của con người trong việc góp phần phát
hưởng sâu sắc đến tâm lý và đời sống xã hội của
triển kinh tế, văn hóa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc
người bệnh. Do đó người bệnh có quyền được
trong mọi thời đại. Chính vì vậy mà “Nhiệm vụ
điều trị giảm đau tích cực trước-trong và sau mổ

của người Thầy Thuốc là chăm sóc sức khỏe cho
một cách hiệu quả nhất.
con người với sứ mệnh cao cả, hiểu biết và ý
Vô cảm cho loại phẫu thuật này là gây mê
thức đầy đủ, đồng thời phải xem sức khỏe của
toàn diện qua ống nội khí quản, duy trì mê để
bệnh nhân như là mối lo lắng đầu tiên của
mổ bao gồm thuốc mê hô hấp, thuốc giãn cơ,
mình” (Tuyên bố Helsinxki, 1864). Làm tốt được
giảm đau opioids. Trong quá trình sử dụng
điều này là chúng ta đã góp phần thực hiện và
người ta nghiên cứu thấy có nhiều ưu điểm
bảo vệ Hiến pháp 2013 của nước nhà về “Quyền
nhưng cũng có nhiều bất lợi. Tạp chí Canadian
của con người…’’
Journal of Anesthesiology số 52: 2, 2005 được
Đối với phẫu thuật đại phẫu ở bụng như cắt
Tung và CS báo cáo 1 cas sau gây mê với
u đại trực tràng làm phẫu thuật Miller, Whipple,
Desfluran gây rối loạn chức năng gan và tổn
cắt u tụy, cắt bán phần dạ dày, cắt tử cung phần
thương gan với tăng Transaminase, bệnh lý não
phụ…thời gian mổ dài, mức độ đau trong và sau
và tử vong. Halothan cũng hay gặp tình trạng
mổ là đáng kể kéo dài đến vài ngày sau đó…
này, nữ nhiều hơn nam nhất là nữ trung niên và
làm cho người bệnh có cảm giác khó chịu, sợ hãi,
béo phì, tỉ lệ 1/35.000(5). Isoflurane có tỉ lệ viêm

24



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
gan 1/800.000 và Sevofluran ít gặp hơn nên ngày
nay vẫn được ưa chuộng vì mùi ít nồng, dễ ngửi,
ngủ nhanh sau 3-5 phút, ổn định tim mạch và
không thấy tăng Troponine T bệnh nhân bệnh
tim mạch sẵn có và hồi tỉnh sớm(3). Merts và CS
(2003) thống kê báo cáo tỉ lệ sốc phản vệ do
thuốc trong gây mê ở Pháp 1/4.600cas trong đó
tử vong 6 % ; Ở Austria 1/5.000 cas. Tỉ lệ chung
cho các quốc gia 1/10.000 – 1/20.000 trong đó
thuốc giãn cơ 1/6.500 ca ~ 62%; nhựa 16,5%;
thuốc ngủ 7,4%; chất thay thế huyết tương 3,6%;
gélatine 93%; Morphine 1,9%; kháng sinh các loại
4,7% đặc biệt nhóm betalactamine 1/5.000 cas.
Nguyên nhân chính gây sốc phản vệ tìm thấy là
chất amino-6-penicillanic, còn nhóm amino-7cephalosporine của các cephalosporine thì ít gặp
hơn. Mặc khác, tỉ lệ sốc phản vệ do thuốc tê hay
thuốc mê hô hấp hiếm thấy(1,5). Tỉ lệ đặt nội khí
quản khó hay không đặt được 0,04-2,3%-10%
nhất là bệnh mổ tai mũi họng hay răng hàm mặt.
Tỉ lệ tử vong do không đặt được để gây mê hay
cấp cứu trên thế giới 5/100.000 cas can thiệp
ngoại khoa. Việt Nam chưa có báo cáo song thực
tế có lẻ cao hơn(2,3).
Gây tê ngoài màng cứng phối hợp gây mê
toàn thể trong những phẫu thuật lớn như ở
bụng, ngực… đem lại hiệu quả giảm đau liên
tục, bền vững và giảm việc dùng thuốc phối hợp

trong gây mê, giảm tỉ lệ tai biến do thuốc, giảm
tai biến-biến chứng trong giai đoạn chu phẫu
một cách đáng kể(5), ưu điểm vượt trội hơn so với
chỉ gây mê toàn thể và phối hợp giảm đau thông
thường khác được ví “giảm đau như đi tàu lượn
cao tốc”! Gỉảm đau là một nhu cầu chính đáng,
cần thiết của mọi bệnh nhân trong mọi cuộc gây
mê phẫu thuật.
Thực tiễn, qua một số nghiên cứu nước ngoài
cho thấy giảm đau ngoài màng cứng với nồng
độ thuốc tê Bupivacaine từ 0,25%; 0,1% liều 46ml/giờ + Morphine 0,2mg/giờ hoặc Fentanyl
4µg/ml x 4-6ml/giờ trong các phẫu thuật bụng
ngực, chi dưới đều cho kết quả giảm đau tốt; sau
mổ kết hợp với kháng viêm non-steroides hay
Acetaminophene nhưng có nhiều tác dụng phụ

Nghiên cứu Y học
cần quan tâm như hạ huyết áp 16%, buồn nôn-ói
mửa 10-20-50%, ngầy ngật-ngủ gà 10-20%, thay
đổi tim mạch khác 15%, rút ống nội khí quản sau
30-60 phút…mặc dù không liệt vận động và trụy
tim mạch như gây tê tủy sống(1,4,5,8,11). Khi kết hợp
gây mê nội khí quản và gây tê ngoài màng cứng
giảm đau liên tục trong và sau mổ góp phần
giảm đáng kể biến chứng hậu phẫu nhất là biến
chứng tim mạch chu phẫu 30%, giảm nhiễm
trùng viêm phổi 40%, tắc mạch phổi 50%, suy
thận cấp 30% so với chỉ gây mê toàn thân và
thuốc giảm đau thông thường khác(10).
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu cho thấy

dùng Bupivacaine 0,1% + Fentanyl 4µg/ml x 48ml/giờ cho kết quả giảm đau tốt nhưng tổng
liều Fentanyl lại quá cao (384-7684µg/24giờ) có
thể bất lợi ở bệnh nhân già, suy kiệt mặc dù
trong mổ có giảm mất máu 28,5% và chưa thấy
gia tăng nguy cơ nặng thêm do các bệnh sẵn có(9).
Trong phẫu thuật đại phẫu ở bụng phối hợp
giảm đau ngoài màng cứng liều Marcaine
5mg/giờ+Fentanyl 10 µg/giờ cho kết quả giảm
đau ngay giờ đầu sau mổ 83,87% và các giờ sau
giảm đau >90%, do đó cần phối hợp thêm 1 loại
giảm đau khác như Paracetamol hay Mobic mỗi
12 giờ đạt chất lượng giảm đau hoàn toàn lúc
nghĩ ngơi hay vận động, ngủ được, cải thiện lưu
thông ruột sớm sau 16-22 giờ, người bệnh phục
hồi sức khỏe nhanh và hài lòng cao mà chi phí
lại thấp(7).
Từ cơ sở nghiên cứu các tài liệu hiện có, xuất
phát từ tình hình thực tế bệnh mổ hàng ngày,
chúng tôi đề xuất nghiên cứu đề tài này nhằm
các mục tiêu sau:
1/ So sánh mức độ đau và hiệu quả giảm đau
ở 2 nhóm bệnh nhân được gây mê toàn thể giảm
đau thông thường và gây mê toàn thể với giảm
đau ngoài màng cứng.
2/ Các thay đổi trên hô hấp, tuần hoàn và các
phiền nạn trong và sau mổ để có kế hoạch đề
phòng, xử lý tình huống.
3/ Xác định tỉ lệ tai biến-biến chứng của 2 kỹ
thuật này.


25


Nghiên cứu Y học
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm
sàng.

Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật là K đại
tràng, Loét hay K dạ dày, U tụy, u xơ tử cung to,
u gan…tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ
tháng 10/2014 đến tháng 9/2015.

Kỹ thuật chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Không có chống chỉ định với gây tê ngoài
màng cứng.
Có chỉ định phẫu thuật cắt các u bướu ở
bụng như trên
Bệnh nhân có nhu cầu giảm đau ngoài màng
cứng liên tục 3 ngày.

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đang nhiễm trùng toàn thân,
đang sốc hay giảm khối lượng tuần hoàn.
Dị dạng cột sống, gù vẹo, viêm nhiễm lở loét
vùng cột sống lưng, có bệnh lý thần kinh trung
ương, tăng áp lực nội sọ, dị ứng thuốc tê hay các

thuốc họ Morphine, rối loạn đông máu.
Bệnh nhân kiên quyết từ chối.
Thu thập thiếu số liệu

Phương tiện và trang thiết bị
Tại phòng mỗ
Máy gây mê, nguồn dưỡng khí, Monitoring
theo dõi mạch, huyết áp, SpO2, ECG, mâm tê vô
trùng, bộ dụng cụ gây tê ngoài màng cứng
Perifix của hãng B/Braun, dung dịch sát trùng
da, găng tay vô khuẩn, miếng dán Askinase,
máy bơm tiêm điện, dây nối, bơm tiêm 60ml.
Thuốc gây mê và hồi sức
Dịch truyền, dây truyền dịch, dây ba chạc,
kim luồn 18G, thuốc tê Marcaine 0,5% lọ 20ml,
Midazolam, Fentanyl, Propofol, Esmeron,
Sevoran,
Atropine
Sulfat,
Ephedrine,

26

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
Adrenaline, hộp thuốc chống sốc và một số
thuốc khác.

Cách thức tiến hành
Sau khi có chỉ định phẫu thuật:


Tiếp cận bệnh nhân
Khám tiền mê trước mổ nhằm đánh giá tình
trạng sức khỏe bệnh nhân, các bệnh kèm theo
cần điều trị ổn định, các xét nghiệm tiền phẫu
cho phép mổ được, không có chống chỉ định với
gây tê ngoài màng cứng. Xếp loại ASA,
Malampati. Giaỉ thích cách thức tiến hành gây tê,
gây mê để cho người bệnh biết mà yên tâm tin
tưởng và hợp tác tốt. Ký tên đồng ý gây mê để
mổ và giảm đau ngoài màng cứng.
Tại phòng mổ
Tiếp đón ân cần, trấn an người bệnh và yêu
cầu họ hợp tác khi lấy ven truyền dịch với
Lactate Ringer’s hay NaCl 9‰, cố định kim luồn
chắc chắn. gắn monitoring kiểm tra hô hấp,
mạch, huyết áp, SpO2, ECG…, cài đặt tự động
mỗi 5 phút trong suốt cuộc mổ. Cho bệnh nhân
tự hít thở với oxy 5lít/phút qua mask.
Nhóm 1
Gây mê nội khí quản. Duy trì thuốc mê hô
hấp Sevoran, giãn cơ, Fentanyl. Sau mổ giảm
đau Paracethamol 3g/24giờ; Felden 20mg/mỗi 12
giờ, Morphine 10mg ngay khi về hồi sức.
Nhóm 2
Gây tê ngoài màng cứng trước gây mê nội
khí quản. Duy trì mê hô hấp Sevorane và giảm
đau ngoài màng cứng 3 ngày liều Marcaine
5mg/giờ và Fentanyl 10µg/giờ qua bơm tiêm
điện liên tục.


* Kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng
Bệnh nhân nằm nghiêng sang bên, tư thế
“cong lưng tôm”. Người làm kỹ thuật rửa tay,
mang găng, sát trùng da với cồn sau đó Bétadine
rồi làm sạch da vùng định gây tê với gạc thấm
cồn. Trải săng lỗ, xác định vị trí gây tê tại vùng
lưng L1-L2 hoặc L2-L3. Tê da tại đường giữa,
kim Tuohy 18 chọc vào vuông góc mặt da ở
điểm giữa hai khe đốt sống, khi mũi kim vào


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
4cm thì rút thông nồng kim ra, dùng kỹ thuật
xác định “mất sức cản” với NaCl 9‰, vừa đưa
kim vào vừa thử áp lực đến khi qua dây chằng
vàng cảm giác “sựt” rồi bơm nước vào cảm giác
nhẹ tay hơn, lúc này mũi kim đang ở trong
khoang ngoài màng cứng, xoay mặt vát kim về
phía đầu bệnh nhân, nhẹ nhàng luồn catheter
vào cho đều tay với độ sâu khoảng 5cm, sau đó
kết hợp vừa lui kim vừa luồn dây cho đến khi
kim rời khỏi mặt da, kiểm tra ngang mức dấu ba
chấm trên dây là được. Cố định vị trí dây luồn
bằng miếng dán trong Askinase và dây cho chắc
chắn, cho người bệnh nằm ngữa lại như cũ, bơm
liều test Marcaine 0,5% 10mg/2ml, kiểm tra sinh
hiệu ổn bắt đầu gây mê.

Nghiên cứu Y học
với Marcaine 0,1% 0,85mg/ml+ Fentanyl 1,65

µg/ml tốc độ 6ml/giờ (Cách pha Marcaine 0,5%
10ml; Fentanyl 100 µg/2ml; cho thêm NaCl 9‰
đủ 60ml).
Sau mổ
Duy trì giảm đau ngoài màng cứng 3 ngày
liên tục: Ngày 1: 6ml/giờ; Ngày 2: 5ml/giờ; Ngày
3: 4ml/giờ. Kết hợp Perfalgan 1g hoặc Mobic
15mg mỗi 12 giờ/lần. Rút catheter khi hết lọ
thuốc tê sau cùng (thông thường 3 lọ Marcaine
và 6 ống Fentanyl).

Ghi nhận các chỉ số theo dõi
Mạch, huyết áp, SpO2, ECG, EtCO2 mỗi
5phút/lần, hô hấp trước và sau mê. Mức độ liệt
vận động sau mổ theo thang điểm Bromage.
Thang điểm đau VAS.
Thang điểm Bromage đánh giá phong bế vận
động có 4 độ:
Độ 0: không phong bế vận động, cử động
được hoàn toàn gối và chân.

Hình 1,2: Minh họa hình ảnh gây tê ngoài màng
cứng có luồn catheter

Độ 1: Phong bế một phần. Một ít cử động
gối, không nâng cả chân lên được.

+ Kỹ thuật gây mê nội khí quản
Tiền mê


Độ 2: Phong bế hầu như hoàn toàn. Chỉ có cử
động được bàn chân.

Midazolam 2,5mg + Fentanyl 100µg pha
thành 10ml, IV.

Độ 3: Phong bế hoàn toàn. Không cử động
được bàn chân hoặc gối.

Khởi mê

Thước đo điểm đau VAS (Visual Analog Score):
10 điểm

Propofol 1% 100-150mg; Esmeron 25mg; IV;
bóp bóng giúp thở sau 2-3 phút tiến hành đặt
ống nội khí quản, bơm ballon, kiểm tra phổi có
thông khí đều hai phế trường, cố định ống nội
khí quản. chuyển sang thở máy gây mê. Bắt đầu
lên thuốc mê từ từ để duy trì mê.
Duy trì trong mổ
Thuốc mê hơi Sevoran 2-3%.
Riêng nhóm 2:

0-1: không đau
2-3: đau nhẹ
>3-5: đau vừa
>5-8: đau rất nhiều
>8-10: đau dữ dội
Đánh giá mức tê theo mốc phân bố cảm giác: T4:

ngang vú
T6: vùng hõm ức

+ Sau khởi mê

T8: ngang hai hạ sườn

Sinh hiệu ổn định, bolus qua catheter ngoài
màng cứng với Marcaine 0,125% 10mg +
Fentanyl 50µg/9ml; sau đó bơm tiêm điện duy trì

T10: ngang rốn

Qui ước
Nhận bệnh: T1; Gây tê NMC: T2; Gây mê: T3;

27


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học
Rạch da: T4; Thám sát bụng: T5; Cắt u bướu: T6;
Nối mặt cắt: T7; Đóng bụng: T8; Khâu da: T9;
Hồi sức: T10.

Tham khảo
Phẫu thuật viên và người bệnh nhận xét vô
cảm, đánh giá chất lượng tốt, trung bình hay
kém, mức độ hài lòng.


Thu thập và xử lý số liệu
Nam, nữ, tuổi đời, chiều cao, cân nặng, bệnh
kèm, sinh hiệu trong và sau mổ, đánh giá liệt
vận động, mức độ giảm đau của liều, thuốc bổ
sung; tác dụng phụ không mong muốn; các bất
thường có thể gặp…nhập số liệu trên phần mềm
SPSS 16.0 for Windows, xử lý theo phương pháp
toán thống kê. Có ý nghĩa khi p<0,05.

Từ tháng 10/2014-9/2015, tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương, chúng tôi tiến hành gây
mê-phẫu thuật cho 2 nhóm bệnh nhân mổ
chương trình loại đại phẫu ở bụng. Kết quả phân
tích như sau:

Đặc điểm chung của 2 nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Số lượng bệnh nhân:
Nam (%)
23 / 57,5%
16 / 39%

Nữ (%)
17 / 42,5%
25 / 61%

Bảng 2. Phân loại sức khỏe theo ASA:
NHÓM
1
2


ASA I
12 / 30%
13 /31,7%

ASA II
25 / 62,5%
27 / 65,9%

ASA III
3 / 7,5%
1 / 2,4%

Nhận xét: ASA III nhóm 1 cao hơn nhóm 2 là
2 ca.
Bảng 3. Tuổi đời, chiều cao, cân nặng
NHÓM
1
2

Tuổi (năm) Cân nặng (kg) Chiều cao (cm)
58,15 ± 14,89 55,93 ± 8,3 (40- 162,48± 6,03
(2786)
86)
(145-170)
60,71± 14,97 52,73 ± 11,98
159,56± 7,72
(25-90)
(31-85)
(145-175)


Nhận xét: Tuổi đời nhóm 2 cao hơn nhóm 1:
2,4%. Bệnh cao ở nhóm tuổi 45-75.
Bảng 4. Bệnh mổ

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

NHÓM
1
2

Nhận xét: Nam nhóm 1 nhiều hơn nhóm 2
và nữ thì ít hơn.

Tổng số
40
41

STT
BỆNH MỔ
NHÓM 1 (%) NHÓM 2 (%)
1
Kđại tràng
13 / 32,5%
9 / 21,9%
2
K đại tràng sigma
7 / 17,5%
3 / 7,3%
3

K trực tràng
6 / 15%
9 / 21,9%
4
Tắc mật do u tụy
1 / 2,5%
3 / 7,3%
5
Loét hay K dạ dày
6 / 15%
12 / 29,5%
6
K gan T
1 / 2,5%
0
7
U giả tụy khổng lồ
1 / 2,5%
1 / 2,4%
8
Sỏi OMC tái phát
1 / 2,5%
0
9
U mạc treo to
2 / 5%
0
10
Thoát vị bẹn
2 / 5%

0
11
U xơ tử cung rất to
0
4 / 9,7%
Nhóm 1: Mổ nội soi 15 (37,5%); mổ hở 25 (62,5%).
Nhóm 2: Mổ nội soi 6 (14,6%); mổ hở 35 (85,4%). Đa số
bệnh mổ trên đường tiêu hóa

Bảng 5. Bệnh nội khoa kèm
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

BỆNH NỘI KHOA
Tăng huyết áp
Bệnh tim TMCB, van tim
Lao phổi cũ, VPQM, COPD…
Viêm loét dạ dày, XHTH, …
Tiểu đường
Thiếu máu, SDD, suy thận mạn…
Đã phẫu thuật bụng > 2-4 lần
Bù máu trước mổ

Bù máu sau mổ

Nhận xét: bệnh nội khoa kèm đứng đầu là
tim mạch, đường tiêu hóa và suy dinh dưỡng,

28

NHÓM 1 (%)
16 / 40%
5 / 12,5%
4 / 10%
6 / 15%
7 / 17,5%
17 / 42,5%
9 / 22,5%
9 / 22,5%
3 /7,5%

NHÓM 2 (%)
18 / 43,9%
4 / 9,7%
4 / 9,7%
10 / 24,3%
3 / 7,3%
14 /34,15%
6 / 14,7%
6 /14,7%
2 / 4,9%

thiếu máu. Bù máu trước mổ nhiều nhất là 12

đơn vị (nhóm 1).


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học

Đặc điểm cuộc mổ
Bảng 6 Phân tích kết quả thu thập qua theo dõi bệnh nhân 2 nhóm
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

KẾT QUẢ
Số ngày điều trị trước mổ (ngày)
Mổ sau gây mê (phút)
Thời gian phẫu thuật (phút)
Chiều dài vết mổ (cm)
Thời gian rút ống NKQ (phút)
Dịch truyền (ml)
Hồi sức (phút)
Trung tiện (giờ)
Lưu catheter NMC (giờ)


NHÓM 1
7,3 ± 4,9 (1-19)
22,9 ±7,5 (15-30)
176± 83,07 (50-360)
13,67 ±5,65 (6-20)
50,37± 44,88 (20-280)
1747 ±145,27(1200-3000)
358,75± 91,74 (240-730)
Hậu môn tạm +

NHÓM 2
6,95± 4,85 (1-20)
15,84 ±9,23 (10-30)
155,73± 69,64(60-300)
14.49± 4,84(6-20)
40,95± 11,15(10-740)
1653± 128,93(1000-3200)
475,12± 45,34 (230-3000)
22,67± 6,9 (12-50)
68,81± 3,4 (52-76)

Thay đổi sinh hiệu trong và sau mổ:
Bảng 7. Thay đổi Mạch, Huyết áp trung bình, SpO2, EtCO2, hô hấp trong và sau mổ
MẠCH
Nhóm
T1
T2
T3
T4

T5
T6
T7
T8
T9
T10
%↓

HATB

SpO2

N1
N2
N1
N2
87,75
82,02
94,60
94,83
85,70
81,24
84,65
87,88
82,52
80,49
78,10
76,90
85,55
79,66

76,78
73,76
86,70
79,05
76,55
70,98
86,52
77,07
77,10
72,95
83,98
75,17
78,20
73,76
83,95
76,37
83,77
74,15
83,93
76,62
83,79
78,17
83,77
78,17
88,95
87,15
Sau khởi mê: Nhóm 1: Sau khởi mê: Nhóm 2:
HA ↓ 9,4 (P=0,047)
HA ↓8,2 (P=0,064)


Nhóm 1: 1ca (2,5%) M < 40; HA> 170/100
mmHg lúc bơm hơi ổ bụng. Kiểm tra P bơm hơi
tăng 22 mmHg. (Bình thường 12mmHg).

N1
98,78
99,00
99,48
99,62
99,70
99,80
99,62
97,60
98,10
97,45

EtCO2
N2
98,61
98,80
99,32
99,76
99,93
99,98
99,95
98,10
98,56
97,70

N1

31,50
32,10
30,67
30,90
29,87
29,92
29,50
28,93
29,15
29,45

N2
31,10
31,76
31,24
30,56
29,27
29,80
29,75
28,83
28,93
28,98

HÔ HẤP
N2
N1
19,95
18,39
TM
TM


Tập
20,15

Thở
19,04

Hiệu quả vô cảm
Bảng 8. Mức tê qua thử cảm giác trên da
Mức tê
Số BN
Tỉ lệ %

T4
18
43,90

T6
41
100

T8
41
100

T10
41
100

Bromage: độ 0 trong mọi thời điểm


Bảng 9 VAS (Visual Analog Score) của 2 nhóm
VAS
Nhóm
Ngáy 1
Ngày 2
Ngày 3

0-1
1
0 /100%
17 /42,5%
19/47,5%

>1-3
2
7 /17,7%
30/73,17 %
31/75,60%

1
22 /55%
23 /57,5%
21/52,5%

>3-5
2
25 /60,79%
11/26,83%
10/24,4%


1
18 /45%
0
0

2
9 /21,95%
0
0

Nhóm 2 cải thiện giảm đau tốt hơn
Bảng 10. Tai biến-Biến chứng
STT
1
2
3
4

Loại tai biến
M < 50
HATĐ <90
HATĐ >170
Buồn nôn, nôn ói

N1
4 /10%
7/17,5%
2/5%
5/12,5%


N2
3 /7,3%
6/14,62%
0
3/7,3%

Xuất hiện
Sau KM, bơm hơi
Bơm hơi ổ bụng
Hồi tỉnh

Xử trí
Atropine 0,5-1mg
↓ thuốc mê, bù dịch
Giãn cơ, mê
Primperan 10mg

29


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015

Nghiên cứu Y học
Bảng 11. So sánh chi phí căn cứ giá cả thuốc hiện nay
Nhóm 1:
Trong mổ
Sau mổ
Nhóm 2:
Trong mổ

Sau mổ

Ngày 1

Ngày 2

Ngày 3

604,000
255,000

180,000

180,000

390,000
436,000

65,000

65,000

Chi phí
1,218,000 $
603,000
614,000
957,000 $
390,000
567,000


Nhận xét: chi phí nhóm 2 thấp hơn 260.000 đồng Việt Nam

BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của 2 nhóm nghiên cứu
Theo bảng 1, 2, 3: 81 bệnh nhân (BN) của 2
nhóm nghiên cứu có 39 nam và 42 nữ. Nam
nhóm 1 nhiều hơn nhóm 2 là 7 BN; Nữ ít hơn
8BN. ASA I-II giữa 2 nhóm tương đương
nhau. Nhóm 1 có tỉ lệ ASA III cao hơn nhóm 2
là 5% (2BN) do có nhiều bệnh nội khoa kèm
theo và thời gian hồi sức trước mổ đến 19
ngày. Tuổi đời nhóm 1 thấp hơn nhóm 2 trung
bình 2 tuổi. Tuổi mắc bệnh thấp nhất 25 và cao
nhất 90. Lứa tuổi thường gặp các bệnh trong
nghiên cứu từ 45-75. Chiều cao và cân nặng
tương đương nhau và không khác biệt nhiều
so các nghiên cứu trong nước(7,10).

Bệnh mổ và bệnh nội khoa kèm theo
Bảng 4, 5 đa số bệnh mổ ở bụng thuộc đường
tiêu hóa như K đại trực tràng hay K dạ dày. K dạ
dày nhóm 1 là 6 BN/15% và nhóm 2 là 12
BN/29,5%. Ngoài ra là các bệnh mổ khác như u
tụy, u gan, u mạc treo, u xơ tử cung to…Nhóm 1
mổ nội soi nhiều hơn nhóm 2 (15/6 BN); Nhóm 2
mổ hở nhiều hơn nhóm 1 (35/25 BN) (bảng 4).
Bệnh nội khoa kèm đứng đầu là tăng huyết
áp (bảng 5), nhóm 1 có 16 BN/40% và nhóm 2 có
18 BN/43,9%. Tiếp theo là bệnh hô hấp mạn như
VPQM, COPD, lao phổi cũ…có thể ảnh hưởng

đến hô hấp sau mổ. Ngoài ra, bệnh viêm loét dạ
dày, xuất huyết tiêu hóa cũ hay mới gây thiếu
máu cần bù máu trước mổ để nâng Hct lên >30%
và Albumine >25g/l để người bệnh có khả năng
chịu đựng được cuộc mổ lớn như vậy. Nhóm 1
có 3 BN/9BN trước mổ bù 8-12 đơn vị máu và
sau mổ bù thêm 2-3 đơn vị máu nữa. Nhóm 2 có

30

6 BN/14,7% bù máu trước mổ và 2 BN/4,9% bù
máu sau mổ. Tỉ lệ BN suy dinh dưỡng trong 2
nhóm khá cao. Nhóm 1 có 17 BN/42,5% và nhóm
2 có 14 BN/34,51% nên việc điều trị cân bằng
dinh dưỡng qua đường tiêu hóa hay đường tĩnh
mạch trước và sau mổ rất quan trọng và cần thiết
cho mọi người bệnh. Đề án của Khoa Dinh
Dưỡng đang thực hiện suất ăn, uống bệnh lý áp
dụng cho bệnh nhân đang điều trị nội trú hiện
nay sẽ góp phần cải thiện sức khỏe cho người
bệnh sớm bình phục là việc làm đúng đắn, hợp
lý và chúng tôi rất quan tâm, ủng hộ.

Đặc điểm về gây mê hồi sức trong phẫu
thuật
Tuổi cao là một trong những yếu tố làm tăng
nguy cơ bệnh tật. Tuổi cao không làm tăng đáng
kể nguy cơ phẫu thuật nhưng những biến đổi
sinh lý bệnh trong quá trình tích tuổi và các bệnh
lý kèm theo thường làm cho nguy cơ gây mêphẫu thuật gia tăng đáng kể. Hơn nửa, tuổi càng

cao thì việc chuyển hóa thuốc qua gan, đào thải
qua thận ít nhiều bị ảnh hưởng. Nguy cơ tích lũy
thuốc dẫn đến ngộ độc thuốc có thể xãy ra nhất
là khi sử dụng quá nhiều dược chất trong lúc gây
mê để mổ kéo dài như thuốc giãn cơ, thuốc giảm
đau opioids, BDZ… do đó cần phải thận trọng
các bệnh nhân cao tuổi, suy kiệt, nhiều bệnh kèm
theo, suy gan, suy thận, dị ứng thuốc đã biết
trong quá khứ. Mặc dù các opioids như
Morphine được xem là tiêu chuẩn vàng cho điều
trị giảm đau đạt >90% (WHO bậc 3-opioid
mạnh), tỉ lệ dị ứng 1,9% , tác dụng phụ khác như
ngủ gà ngầy ngật>90%, buồn nôn ói mửa có thể
đến 50%(5). Đối với thuốc mê hô hấp như
Isofluran hay Sevofluran có nhiều ưu điểm hơn


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
các thuốc mê khác vì nó đáp ứng được tất cả các
yếu tố của vô cảm là gây ngủ, mất ý thức, bất
động, giảm đau và duy trì đúng độ mê sẽ không
có thức tỉnh trong mổ, tỉ lệ gây viêm gan thấp
nhất 1/800.000 ca. Về dược lý của Sevoran có hệ
số hòa tan máu/khí thấp, mùi ít nồng, dễ ngửi,
ngủ nhanh sau 3-5 phút ở nồng độ 2-8% cho trẻ
con hay người lớn, khi ngưng thuốc mê hơi này
sẽ được đào thải dễ dàng qua đường hô hấp và
hồi tỉnh nhanh sau 5-10 phút(3).
Cả 2 nhóm nghiên cứu chúng tôi đều chọn
Sevoran để duy trì mê trong mổ đều rất thuận lợi.

Nhóm 1 đã sử dụng trung bình hết 88ml
Sevoran/1 cas cho cuộc gây mê trung bình 176
phút (bảng 6). Tuy nhiên, do hầu hết cuộc mổ kéo
dài nên trong mổ chúng tôi kết hợp thêm thuốc
giãn cơ Esmeron để kiểm soát thông khí bằng thở
máy gây mê và mềm cơ trong phẫu thuật, lượng
thuốc này sử dụng trung bình 55mg/cas do đó
cuối cuộc mổ phải sử dụng thuốc hóa giải giãn cơ
thường qui bằng Néostigmine 1mg + Atropine
0,5mg tĩnh mạch; Giảm đau Fentanyl sử dụng
trung bình 200µg /ca.
Nhóm 2 được phối hợp giảm đau ngoài
màng cứng liên tục qua bơm tiêm điện với liều
Marcaine 5mg/giờ+Fentanyl 10 µg/giờ và duy trì
mê hơi Sevoran nồng độ 1-3% đáp ứng được
nhu cầu gây mê phẫu thuật, ổn định huyết động
học hơn nhóm 1 ngay lúc khởi mê (hạ huyết áp
nhóm 1 là 9,4%; nhóm 2 là 8,2%), trong và sau
mổ 3 ngày không có tăng huyết áp sau mổ mặc
dù trong nhóm có 18 BN kèm bệnh lý này. Nhu
cầu thuốc mê sử dụng trung bình 65ml/1 cas và
giãn cơ Esmeron 35mg/ 1cas, sau mổ hầu hết BN
thở tốt không cần hóa giãi giãn cơ như nhóm 1.
Mặc dù thay đổi mạch và huyết áp sau khởi
mê ở cả 2 nhóm nhưng không có ý nghĩa thống
kê vì p >0,05. Hô hấp cả 2 nhóm trước và sau mổ
đều cải thiện tốt về SpO2 và tần số hô hấp 16-25
lần/phút. Mặc dù mổ nội soi có bơm hơi ổ bụng
nhưng cả 21 BN này đều không có tăng thán khí
do EtCO2 <32 mmHg. Tuy nhiên trong nhóm 1

có 1BN (2,5%) sau khi bơm hơi ổ bụng thấy
mạch chậm <40 lần/phút và huyết áp tăng vọt

Nghiên cứu Y học
lên 170/100 mmHg, lập tức kiểm tra áp lực bơm
hơi phát hiện trên máy báo áp lực tự động tăng
lên đến 22mmHg; xử lý xả hơi ổ bụng, điều
chỉnh áp lực bơm hơi còn 12mmHg, vận tốc bơm
5 lít/phút, Atropine 1mg, ngưng thuốc mê và
tăng thông khí, sau 3 phút cải thiện dần và mạch,
huyết áp cũng trở về bình thường sau đó (bảng
7). Chính vì mổ nội soi có bơm hơi ổ bụng có bất
lợi như vậy nên phẫu thuật viên cần tôn trọng
đúng các nguyên tắc khi thực hiện và Bác sĩ gây
mê Hồi sức phải kiểm tra kỹ áp lực trên máy nội
soi cũng như theo dõi sát BN trong giai đoạn này
để sớm phát hiện các tai biến-biến chứng mà xử
lý kịp thời, bảo vệ sự an toàn tối đa cho người
bệnh mổ. So sánh thời gian rút ống nội khí quản
thì nhóm 2 rút được sớm hơn, sớm nhất là 10
phút và muộn là 50 phút (40,95 so với 50,37
phút), tuy nhiên nhóm 2 có 2 BN/4,8% ở tuổi 89
và 90 được mổ hở cắt u đại tràng, cơ thể suy
dinh dưỡng nặng 31kg, sức thở kém nên chúng
tôi lưu ống nội khí quản đến 2 ngày và giữ lại
phòng hồi sức điều trị đến ngày thứ 4 ổn định
mới chuyển lại khoa. Thời gian trung tiện trung
bình 22 giờ, chứng tỏ lưu thông ruột sớm như
nhiều tác giả nước ngoài nghiên cứu(6).


Hiệu quả giảm đau, tai biến-biến chứng
của 2 nhóm nghiên cứu (bảng 8,9,10)
Hiệu quả giảm đau
Trong mổ được đánh giá dựa vào mạch và
huyết áp ổn định hoặc giảm hơn lúc nhận bệnh
10-15%. Khi người bệnh hồi tỉnh, trả lời được,
chúng tôi đánh giá mức độ đau theo thang điểm
thị giác VAS. Ngay giờ đầu tại hồi sức, Nhóm 1
có VAS > 3-5 điểm 45% trong khi nhóm 2 có
21,95% BN mổ cắt bán phần dạ dày kêu đau vết
mổ nhiều. Xử lý ở nhóm 1 Morphine 10mg (IM)
và nhóm 2 bolus ngoài màng cứng 6ml thuốc tê
và duy trì qua bơm tiêm điện 6ml/giờ (liều
Marcaine 0,1% 5mg/giờ+Fentanyl 10ug/giờ).
Nhóm 2 cải thiện giảm đau tốt hơn nhóm 1
(p<0,05). Nhóm 2 có Bromage độ 0 trong mọi
thời điểm, vận động dễ dàng tại giường bệnh.
Mức tê đạt đến T4-T6 nên hiệu quả giảm đau

31


Nghiên cứu Y học
bao phủ được vùng mổ đến mũi ức mà chưa
thấy ảnh hưởng đến nhịp tim hay hạ huyết áp
do thuốc tê phong bế giao cảm ngực. Đây là liều
thấp hơn rất nhiều so với một số nghiên cứu
khác(4,10,11), liều này tương tự như nghiên cứu(7).
Các ngày sau cả 2 nhóm đều đáp ứng được giảm
đau như đề xuất.


Tai biến-biến chứng
Trong 2 nhóm nghiên cứu có liên quan
trực tiếp đến việc dùng các dược chất để khởi
mê như Midazolam, Propofol, Fentanyl,
Esmeron. Theo lý thuyết có thể gặp hạ huyết
áp đến 20% so với lúc ban đầu nhận bệnh.
Nghiên cứu của chúng tôi có nhóm 1 hạ huyết
áp 17,5% và nhóm 2 có 14,62%. Mạch chậm <
50 lần/phút ở nhóm 1 có 10% và nhóm 2 có
7,3%. Xử lý bù dịch, Ephedrine và Atropine
cho kết quả ổn định nhanh để sau đó duy trì
thuốc mê hô hấp Sevoran chuẩn bị cho giai
đoạn phẫu thuật được thuận lợi. Buồn nôn ói
mửa giai đoạn hồi tỉnh ở nhóm 1 là 12,5% và
nhóm 2 là 7,3%. Xử lý thuốc chống nôn thông
thường Primperan 10mg và hút sạch dịch dạ
dày. Ngoài ra, nhóm 2 chưa gặp tai biến-biến
chứng của tê ngoài màng cứng như gập tắc
catheter, tụ máu, abces, tổn thương thần kinh
hay tai biến nặng nề khác như y văn đã nêu(1,2).
Thời gian lưu catheter trung bình 68,8 giờ (5276 giờ). Mặc dù tình trạng ngộ độc thuốc tê
Marcaine (Bupivacaine) hiếm gặp nhưng
chúng tôi cũng chuẩn bị sẵn sàng Intralipide
20% 250ml để xử lý khi có cấp cứu ngộ độc
thuốc tê xãy ra liều 1-3mg/kg (IV), sau đó duy
trì liều 0,5mg/kg truyền tĩnh mạch cho đến khi
cơn ngộ độc đi qua và người bệnh hồi tỉnh lại,
sinh hiệu ổn định thì ngưng.
Tóm lại: Tê ngoài màng cứng là phương

pháp giảm đau hiệu quả nhất trong dự phòng,
đón đầu đau và tác dụng lâu bền với catheter
ngoài màng cứng bơm tiêm điện liên tục trong
những phẫu thuật lớn ở bụng, ngực, thay
khớp chi dưới. Hầu hết các nghiên cứu trong
và ngoài nước đều chứng minh hiệu quả giảm
đau chắn chắn, nhiều ưu điểm mà không còn

32

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
bàn cãi ngoài việc chọn liều và nồng độ để
giảm tác dụng phụ như chậm nhịp tim, hạ
huyết áp, liệt vận động chân(8). Giảm buồn nôn
ói mửa đến >50% so với giảm đau PCA(4). Phối
hợp kỹ thuật giảm đau ngoài màng cứng trong
mổ sẽ giảm nhu cầu sử dụng thuốc mê do
giảm MAC (ít tốn thuốc), thuốc giảm đau
opioids, giãn cơ và các tác dụng phụ khác sau
mổ so với chỉ gây mê nội khí quản giảm đau
thông thường khác, giúp BN hồi tỉnh sớm,
giảm stress ngoại khoa, giảm lo âu, ngủ dễ,
tăng khả năng vận động sớm, phục hồi lưu
thông ruột nhanh, giảm đáng kể nguy cơ biến
chứng huyết khối, thuyên tắc đặc biệt thuyên
tắc phổi…giúp BN cải thiện và phục hồi các
chức năng cơ thể tốt hơn, tăng chất lượng cuộc
sống sau mổ, tăng sự hài lòng và giảm chi phí.

Chi phí

Theo bảng 11 căn cứ giá thành hiện nay để
tính chi phí thuốc, vật tư tiêu hao (không tính chi
phí máu) trong mổ và thuốc giảm đau sau mổ 3
ngày thì chi phí nhóm 1 cao hơn khoảng 260
ngàn đồng/1 ca mổ (1.218.000 đồng so với
957.000 đồng).
Theo PGS. Mats Enlund BV TW Vasteras-Thụy
sĩ nghiên cứu về kinh tế y tế rút ra kết luận: “Chi
phí của thuốc mê so với tổng chi phí của 1 giờ
phòng mổ là 22 USD/300 USD. Chi phí của thuốc
mê mỗi giờ tương ứng với chi phí chờ Bác sĩ
phẫu thuật trong 3 phút”.

KẾT LUẬN
Gây mê nội khí quản, duy trì mê với Sevoran
và giảm đau ngoài màng cứng liên tục 3 ngày
bằng Marcaine 0,1% 5mg/giờ+Fentanyl 10 µg/giờ
đem lại chất lượng giảm đau hiệu quả, an toàn, ít
tác dụng phụ, BN hồi phục nhanh, tăng sự hài
lòng và giảm chi phí hơn các kỹ thuật khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Auroy Y, Benhamou D, Bargues L. (2002), Major
complications of regional anesthesia in France. Anesthesiology,
97: 1274-80.
Công Quyết Thắng (2002), Gây tê tủy sống-gây tê ngoài màng

cứng, Bài giãng Gây mê Hồi sức, tập 2, Nxb Y học, tr. 44-83.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
3.
4.

5.

6.

7.

Công Quyết Thắng (2002), Các thuốc gây tê, gây mê, Bài giãng
Gây mê Hồi sức, tập 1, Nxb Y học, tr. 531-549.
Mann C, Pouzeratt Y, Boccara G, Peccoux C, Vergne C, Brunat
G, Domergue D. (2000), Comparison of intravenous or
Epidural Patient-controlled Analgesia in the Elderly after
Major abdominal surgery, Anesthesiology: volum 92(2), p. 433
Merts PM et al (2003), Choc anaphylactique. Conférences
d’actualisation, Congrèes national d’anesthe’sie et de re’animation;
45e, p-p: 308-323
Moiniche S, Bulow S, Hesselfeldt P, Hestbaerk A, Kehlet H
(1995), Convalescence and hospital stay after colonic surgery
with balanced analgesia, early oral feeding, and enforced
mobilisation, Eur J Surg. 161 (4):p-p: 283-8.
Nguyễn Thu Chung (2014), Hiệu quả giảm đau ngoài màng
cứng liên tục bằng Marcaine+Fentanyl trong và sau gây mê
phẫu thuật đại phẫu ở bụng tại Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương, Y học TP. Hồ Chí Minh* Tập 18* Phụ bản của số 6*

2014, tr 68-77

Nghiên cứu Y học
8.

9.
10.

11.

Nguyễn Hữu Tú (2015), Chống đau trong ngoại khoa: qui tắc
và tổ chức, Hội nghị khoa học các phương pháp điều trị đau
can thiệp, Ngày 02/5/2015; tr. 115-147.
Thore’n T, Sundberg A, Wattwil M, Garvill JE, Jurgensen U,.
(1989), Acta Anaesthesiol Scand, 3392), p-p:181-5.
Trần Thị Ngọc Phượng, Huỳnh Thị Thỉ, Trần Đỗ Anh Vũ,
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng (2013), Gây mê Hồi sức cho phẫu
thuật cắt bàng quang tận gốc kèm tạo hình bàng quang bằng
ruột, Y học TP. Hồ Chí Minh tập 18* số 1* 2014, tr. 312-317.
Zugel N, Bruer C, Breitschaft K, Angster R, (2002), Effect of
thoracic epidural analgesia on the early postoperative phase
after interventions on the gastrointestinal tract, Chirurg, 73 (3),
p-p: 262-8.

Ngày nhận bài báo:

08/09/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/10/2015
Ngày bài báo được đăng:


05/11/2015

33



×