Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm của biến chứng thận và biến chứng thần kinh ngoại biên trên các bệnh nhân đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.16 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM CỦA BIẾN CHỨNG THẬN VÀ BIẾN CHỨNG THẦN KINH NGOẠI
BIÊN TRÊN CÁC BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI
HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Quốc Tuấn*, Đặng Huỳnh Anh Thư*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm của biến chứng thận và biến chứng thần kinh trên các bệnh nhân đái tháo
đường đang điều trị tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân tích.
Kết quả: Có sự tương quan thuận có ý nghĩa ở mức trung bình giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ và mức tiểu
đạm với R = 0,336 (P < 0,05). Tổn thương thần kinh ngoại biên trên BN ĐTĐ có tính chất đối xứng rất rõ, nhất
là ở chi dưới. Bất thường về thời gian tiềm của thần kinh giữa-cảm giác, và bất thường về vận tốc dẫn truyền của
thần kinh mác sâu là thường gặp nhất.
Kết luận: Biến chứng thận và biến chứng thần kinh ngoại biên do đái tháo đường luôn xuất hiện gần như
đồng thời. Bất thường về thời gian tiềm ở các dây cảm giác gặp nhiều hơn so với các dây vận động.
Từ khóa: bệnh thận mạn (BTM), độ lọc cầu thận ước đoán (eGFR), đái tháo đường (ĐTĐ).

ABSTRACT
THE CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS OF DIABETIC NEPHROPATHY
AND NEUROPATHY IN PATIENTS TREATED AT THE HCMC MEDICAL CENTER
Le Quoc Tuan, Dang Huynh Anh Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 13 - 18
Objective: To investigate the clinical and paraclinical characteristics of diabetic nephropathy and neuropathy
in patients treated at the HCMC Medical Center.
Methods: descriptive cross-sectional study.
Results: There was a significant correlation between disease duration of diabetes and proteinuria level with R
= 0.336 (P <0.05). Peripheral neuropathy in diabetic patients is symmetrical, especially in the lower extremities.


Abnormal latency on median nerve and abnormal nerve conduction velocity on profound peroneal nerve is the
most common.
Conclusions: Diabetic nephropathy and peripheral neuropathy appear almost simultaneously. Abnormal
latency on the sensory nerves is more common than the motor nerves.
Keywords: chronic kidney disease (CKD), estimated glomerular filtration rate (eGFR), diabetes
nhanh trong dân số, ước đoán có thể lên đến 380
ĐẶT VẤN ĐỀ
triệu người trên toàn thế giới vào năm 2025. Tại
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh lý mạn
Việt Nam số người mắc đái tháo đường cũng gia
tính, đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết
tăng song hành với sự phát triển kinh tế xã hội.
do thiếu insulin tuyệt đối hoặc tương đối kèm
Năm 2003, điều tra quốc gia về tình hình bệnh
theo các rối loạn về chuyển hóa glucid, lipid,
đái tháo đường và yếu tố nguy cơ được tiến
protid. Tỷ lệ đái tháo đường ngày càng tăng
* Bộ môn Sinh lý học, Đại Học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Quốc Tuấn, ĐT: 01696929792

Nội Tiết

Email:

13


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017


hành trên cả nước, kết quả ghi nhận tỷ lệ mắc
bệnh đái tháo đường là 2,7%, trong đó vùng đô
thị và khu công nghiệp có tỷ lệ mắc bệnh đến
4,4%(9). Theo đó, tỷ lệ các biến chứng mạn tính
gây nên bởi đái tháo đường cũng tăng lên đáng
kể, trong đó hai biến chứng thường gặp là biến
chứng thận đái tháo đường và biến chứng thần
kinh ngoại biên. Tỷ lệ mới mắc của suy thận mạn
giai đoạn cuối do đái tháo đường đã tăng gấp
đôi trong vòng một thập kỷ qua, chiếm 45% các
trường hợp cần điều trị thay thế thận ở Hoa Kỳ.
Chính những điều này đã đặt ra vấn đề cần
thiết phải theo dõi và phát hiện sớm các biến
chứng mạn tính của đái tháo đường, đưa ra
quyết định điều trị hợp lý nhằm cải thiện chất
lượng cuộc sống cho người bệnh. Vì vậy, chúng
tôi nhận thấy việc khảo sát đặc điểm của biến
chứng thận và biến chứng thần kinh trên các
bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị tại Bệnh
viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
do đái tháo đường là quan trọng tại thời điểm
hiện tại, đưa ra cái nhìn toàn diện, khái quát về
bệnh, từ đó giúp các nhân viên y tế có thái độ
tích cực hơn trong việc tư vấn và điều trị sớm
biến chứng này.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo

đường tại phòng khám Thận và Nội tiết – Bệnh
viện Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 05/2014
đến 09/2014.

Cần lặp lại các tiêu chí (1), (2), (3) vào một
ngày khác để xác định chẩn đoán.

Tiêu chuẩn loại trừ
Đang có bệnh hemoglobin đã được chẩn
đoán, thiếu máu (Hb < 11.8 g/dL).
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.

Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích.

Kỹ thuật chọn mẫu
Liên tục không xác suất.

Phương pháp thu thập số liệu
Định lượng HbA1c theo phương pháp sắc ký
lỏng cao áp HPLC bằng máy D10 của hãng
BioRad; đo dẫn truyền thần kinh ngoại biên
(gồm thời gian tiềm, biên độ điện thế, vận tốc
dẫn truyền) ở các dây quay, giữa, trụ, chày, mác
bằng máy đo điện cơ Neuro-MEP-Micro; đánh
giá vi đạm niệu qua tỉ số ACR (albumin /
creatinine) bằng máy Acon Mission U500; đánh
giá độ lọc cầu thận dựa trên nồng độ creatinine
huyết thanh theo 2 công thức MDRD
(Modification of Diet in Renal Disease Study) và

CKD-EPI
(Chronic
Kidney
Disease
Epidemiology Collaboration Study).
Công thức MDRD:
eGFR (mL/ph/1,73m2 da) = 186 × (creatinine
huyết thanh)-1.154 × (tuổi)-0.203
(Nhân với 0,742 nếu là nữ,
nhân với 1,21 nếu là người da đen.)

Tiêu chuẩn chọn vào

Công thức CKD-EPI:

Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu
chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ 2013:

eGFR = 141 x min(Cr/κ, 1)α x max (Cr/κ, 1)-1.209

HbA1C ≥ 6,5 %.
Đường huyết đói ≥ 126 mg/dL (7,8mmol/L).
Đường huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung
nạp glucose ≥ 200 mg/dL (11,1mmol/L).
Đường huyết bất kỳ ≥ 200 mg/dL
(11,1mmol/L) kết hợp với triệu chứng điển
hình của tăng đường huyết (tiểu nhiều, khát
nhiều, gầy nhiều).

14


x 0,993Tuổi
(Trong đó, κ là 0,7 cho nữ và 0,9 cho nam, α là -0,329
cho nữ và -0,411cho nam, min là giá trị nhỏ hơn giữa
Cr/κ và 1, and max là giá trị lớn hơn giữa Cr/κ or 1.
Nhân với 0,018 nếu là nữ, nhân với 1,59 nếu là người
da đen)

Xử lý số liệu
Phần mềm STATA 10.0.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện ghi
nhận trên 50 bệnh nhân đái tháo đường.
Chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt

Nghiên cứu Y học

có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ mắc ĐTĐ, tuổi,
BMI, huyết áp, nồng độ hemoglobin huyết
thanh, đường huyết đói, và HbA1c ở cả 2 giới
nam và nữ.

Bảng 1. Đặc điểm giới, tuổi, BMI, huyết áp, hemoglobin, đường huyết, HbA1c
Tuổi (năm)
2

BMI (kg/m )
Huyết áp tâm thu (mmHg)
Huyết áp tâm trương (mmHg)
Hemoglobin (g/dL)
Đường huyết đói (mg/dL)
HbA1c (%)

Tổng cộng n = 50
60,2 ± 11,1
23,3 ± 2,3
133,0 ± 10,1
77,2 ± 6,4
12,4 ± 1,5
145,9 ± 56,8
7,5 ± 0,9

Bảng 2. Độ lọc cầu thần ước đoán theo công thức
CKD-EPI
GFR (mL/phút)
< 15
15 – 30
30 – 60
60 – 90
> 90
Tổng cộng

Số BN (n)
3
5
18

15
9
50

Tỷ lệ (%)
6,0%
10,0%
36,0%
30,0%
18,0%
100%

Creatinine huyết thanh trung bình của nhóm
nghiên cứu là 1,73 ± 1,93 mg/dL. Chúng tôi ước
đoán độ lọc cầu thận của các BN theo 2 công
thức MDRD và CKD-EPI. Kết quả GFR trung
bình theo MDRD là 59,6 ± 33,2 ml/phút/1,73m2
da, dao động từ 4,1 đến 171,8 ml/phút/1,73 m2
da; và theo CKD-EPI là 57,7 ± 29,1
ml/phút/1,73m2 da, dao động từ 3,6 đến 129,4
ml/phút/1,73 m2 da.
Theo nhiều tài liệu cho thấy tổn thương thận
trên BN ĐTĐ ở giai đoạn đầu là hiện tượng tăng
độ lọc cầu thận, khoảng thời gian này có thể kéo
dài đến 10 năm đối với ĐTĐ type 1(1,2). Tuy nhiên
một khi bệnh thận ĐTĐ đã bước vào giai đoạn
toàn phát thì diễn tiến bệnh rất khác nhau trên
từng BN, có thể giảm GFR lên đến 20ml/phút
mỗi năm và sự suy giảm này chịu ảnh hưởng
cộng của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng là

mức kiểm soát đường huyết, kiểm soát huyết áp
và chế độ ăn tiết chế đạm.
Theo nghiên cứu của tác giả Jorien Willems
và cộng sự, công thức CKD-EPI có ít sai lệch hơn
công thức MDRD trong việc ước đoán độ lọc cầu

Nội Tiết

Nam n=25
58,0 ± 10,0
23,1 ± 2,0
134,3 ± 8,7
78,0 ± 4,8
12,8 ± 1,8
136,2 ± 50,8
7,4 ± 0,7

Nữ n=25
62,3 ± 11,1
23,5 ± 2,6
131,6 ± 11,4
76,5 ± 7,6
12,0 ± 1,0
155,6 ± 61,7
7,5 ± 1,1

P
> 0,05
> 0,05
> 0,05

> 0,05
> 0,05
> 0,05
> 0,05

thận trên các BN có mức eGFR cao (> 60
ml/phút/1,73m2 da). Các BN trong nghiên cứu
thường có hiện tượng tăng lọc trong giai đoạn
đầu của bệnh thận ĐTĐ so với các nguyên nhân
gây suy thận mạn khác. Do đó, chúng tôi sử
dụng công thức CKD-EPI để ước đoán độ lọc
cầu thận cho các phép toán thống kê. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận phần lớn BN
đã bắt đầu có biểu hiện suy giảm chức năng
thận, với số BN có GFR dưới 60 ml/phút (theo
công thức CKD-EPI) chiếm 52,0%. Khi thực hiện
tính toán chúng tôi nhận thấy có mối liên quan
nghịch có ý nghĩa ở mức trung bình với R = 0,395 (P < 0,01) giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ và
GFR. Điều này phù hợp với kết luận của nhiều
tác giả rằng sự suy giảm chức năng thận trên BN
ĐTĐ đi đôi với thời gian mắc bệnh(3).
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 18 BN có tiểu
đạm vi thể (chiếm 36,0%) và tiểu đạm đại thể là
15 BN (chiếm 30,0%). Số BN có đạm niệu dương
tính tập trung chủ yếu ở nhóm có thời gian bệnh
trên 5 năm với 22/33 BN (chiếm 66,7%), khác biệt
có ý nghĩa so với nhóm có thời gian bệnh dưới 5
năm với 6/17 BN (35,3%), P < 0,05. Ngoài ra,
chúng tôi còn ghi nhận sự tương quan thuận có
ý nghĩa ở mức trung bình với R = 0,336 (P < 0,05)

giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ và mức tiểu đạm.
Kết quả này khá phù hợp với nghiên cứu của
tác giả Diệp Thị Thanh Bình về tần suất tiểu đạm
vi thể trên BN ĐTĐ là 33,7%; và sự liên quan
giữa thời gian mắc bệnh với mức tiểu đạm (R =

15


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

0,53 đối với ĐTĐ type 1 và R = 0,04 đối với ĐTĐ
type 2). Khác biệt về hệ số R ở đây có thể giải
thích là do trong dân số nghiên cứu của mình,
chúng tôi không có sự phân biệt ĐTĐ type 1 và
type 2 như tác giả.
Bảng 3. Mức độ tiểu đạm ở nhóm nghiên cứu
Thời gian bị ĐTĐ Thời gian bị
P
<5
5-10
> 10 ĐTĐ trung
bình
năm năm
năm
Bình thường 11
4
2

4,1 ± 4,1
Vi thể
7
3
8
8,1 ± 7,4 < 0,05
Đại thể
4
2
9
9,0 ± 5,6
Tổng cộng 22
9
19
7,5 ± 5,8
Đạm niệu

Khi so sánh GFR ở hai nhóm có và không
có tiểu đạm, chúng tôi ghi nhận sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (P < 0,001) với GFR ở
nhóm không có tiểu đạm là 76,8 ± 22,4 cao hơn
hẳn so với nhóm có tiểu đạm là 47,9 ± 27,8
ml/phút/1,73 m2 da.

Những kết quả trên hoàn toàn phù hợp với y
văn về diễn tiến tự nhiên của tổn thương thận
trên BN ĐTĐ. Sự hiện diện của giai đoạn tiểu
đạm vi thể, kéo dài khoảng 5 năm, là một điểm
đánh dấu đã kết thúc giai đoạn tăng lọc ban đầu
thường sau 5-10 năm được chẩn đoán ĐTĐ, tiếp

đó là giai đoạn tiểu đạm đại thể; và luôn song
hành với đó là sự giảm dần chức năng thận đến
bệnh thận mạn giai đoạn cuối(7,8).
Khi thực hiện khảo sát, chúng tôi nhận
thấy tất cả các chỉ số về điện sinh lý của các
dây TK ngoại biên đều không có sự khác biệt
giữa 2 bên trái/phải. Điều này chứng tỏ tổn
thương thần kinh ngoại biên trên BN ĐTĐ có
tính chất đối xứng rất rõ, nhất là ở chi dưới.
Kết quả này tương tự với nghiên cứu của tác
giả Lê Quang Cường(4).

Bảng 4. Đặc điểm điện sinh ký của các dây thần kinh vận động ngoại biên ở các nghiên cứu

TK giữa-vận động

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (mV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

TK trụ-vận động

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (mV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

TK chày-vận động

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (mV)

Vận tốc dẫn truyền (m/s)

TK mác sâu-vận động

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (mV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

Chúng tôi
4,0 ± 0,9
9,1 ± 2,8
51,7 ± 6,7
Chúng tôi
2,5 ± 0,4
6,2 ± 1,7
51,3 ± 5,4
Chúng tôi
4,6 ± 0,8
9,7 ± 4,6
40,7 ± 5,4
Chúng tôi
2,7 ± 0,9
10,9 ± 5,8
49,3 ± 12,9

J.Partanen
6,4 ± 3,3
51,2 ± 4,0
P.Valensi
8,2 ± 0,2

55,7 ± 1,0
Kimura
3,96 ± 1,0
5,8 ± 1,9
48,5 ± 3,6
J.Partanen
3,0 ± 2,0
43,3 ± 4,4

N.M.Hòa
3,5 ± 0,3
12 ± 4,2
55,4 ± 3,5
N.M.Hòa
2,5 ± 0,5
5,7 ± 2
56,4 ± 4,4
N.M.Hòa
3,7 ± 0,6
11,5 ± 3,4
48 ± 3,7
N.M.Hòa
3,3 ± 0,6
6,1 ± 2
47,4 ± 2,7

Bảng 5. Đặc điểm điện sinh ký của các dây thần kinh cảm giác ngoại biên ở các nghiên cứu

16


TK giữa-cảm giác

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (µV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

TK trụ-cảm giác

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (µV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

TK quay-cảm giác

Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (µV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

Chúng tôi
3,3 ± 0,9
10,9 ± 6,6
46,0 ± 11,1
Chúng tôi
2,1 ± 0,4
12,2 ± 5,8
57,5 ± 7,9
Chúng tôi
1,9 ± 0,5
19,7 ± 17,0
59,5 ± 11,2


J.Partanen
12,7 ± 6,8
47,7 ± 5,0
L.Q.Cường
3,18 ± 0,51
7,94 ± 2,3
50,1 ± 8,5
J.Partanen
20,0 ± 7,8
58,0 ± 4,1

L.Q.Cường
4,20 ± 0,76
8,45 ± 3,87
51,97 ± 8,36
N.M.Hòa
2,2 ± 0,3
13,5 ± 3,4
N.M.Hòa
2,0 ± 0,2
26,9 ± 9,0

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

TK mác nông-cảm giác


Thời gian tiềm (ms)
Biên độ điện thế (µV)
Vận tốc dẫn truyền (m/s)

Kết quả này của chúng tôi cho thấy không
có sự khác biệt nhiều với những nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước về các chỉ
số điện sinh ký trên BN ĐTĐ ở các dây TK vận
động và cảm giác ngoại biên(4,5,7). Vận tốc dẫn
truyền ở các dây TK ngoại biên trong nghiên
cứu của chúng tôi đa số có giá trị thấp hơn so
với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Mai Hòa,
có thể là do nhiều BN tham gia nghiên cứu của
chúng tôi đã ở giai đoạn bắt đầu xuất hiện các
biến chứng mạch máu nhỏ.
Bất thường về thời gian tiềm ở các dây TK
cảm giác gặp nhiều hơn so với các dây TK vận
động, trong đó tỷ lệ cao nhất là TK giữa-cảm giác
(38,0%), khác biệt có ý nghĩa so với các dây TK
còn lại. Điều này củng cố quan điểm tổn thương
TK ngoại biên trên BN ĐTĐ ảnh hưởng sớm lên
các dây TK cảm giác hơn là các dây vận động.
Kết quả của chúng tôi thấp hơn ghi nhận của tác
giả Nguyễn Mai Hòa (56,67%), khác biệt này có
thể do số BN có hội chứng ống cổ tay trong
nghiên cứu của Nguyễn Mai Hòa khá cao
(46,67%), làm cho tỷ lệ bất thường thời gian tiềm
của TK giữa-cảm giác cao hơn.
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy có hiện
tượng giảm biên độ điện thế ở hầu hết các dây

TK được khảo sát, trừ TK giữa-vận động. Tỷ lệ
bất thường cao nhất là dây TK giữa-cảm giác
(98,0%), cao hơn so với kết quả của tác giả Imada
(38%). Sự khác biệt này là do chúng tôi chọn giá
trị bình thường về biên độ điện thế của TK giữacảm giác cao hơn tác giả (>20µV so với >12µV).
Kết quả của chúng tôi một lần nữa cho thấy bệnh
TKNB do ĐTĐ ảnh hưởng nhiều trên các dây TK
cảm giác hơn so với vận động(6).
Ở chi dưới chúng tôi nhận thấy tỉ lệ bất
thường về biên độ điện thế của dây TK mác
sâu (34,0%) và mác nông (32,0%) cao hơn TK
chày (6,0%). Kết quả này phù hợp với nhận xét
của các tác giả Lê Quang Cường và Nguyễn

Nội Tiết

Chúng tôi
4,0 ± 1,0
3,5 ± 1,9
39,0 ± 5,2

Nghiên cứu Y học
J.Partanen
6,1 ± 3,1
41,9 ± 3,6

N.M.Hòa
2,4 ± 0,4
16,5 ± 5,4


Mai Hòa gợi ý tính nhạy cảm của TK mác cao
hơn TK chày trong chẩn đoán bệnh lý TK
ngoại biên do ĐTĐ(4,5).
Như đã biết, dấu hiệu đặc trưng của tổn
thương thần kinh ngoại biên do hủy myelin là
giảm vận tốc dẫn truyền. Với BN ĐTĐ, có sự
hủy myelin thứ phát diễn ra trên từng đoạn của
sợi trục do các bất thường về chuyển hóa, sinh ra
bởi tình trạng đường huyết tăng cao mạn tính.
Điều này phù hợp với kết quả của chúng tôi khi
ghi nhận bất thường về vận tốc dẫn truyền gặp ở
hầu như tất cả các dây TK được khảo sát. Trong
đó, bất thường về vận tốc dẫn truyền của TK
mác chiếm tỉ lệ cao nhất (mác sâu: 96,0%; mác
nông: 42,0%). Kết quả này cũng thể hiện tính
chất lan tỏa của tổn thương TK ngoại biên do
ĐTĐ mà các tác giả Aaron Vinik và Lê Quang
Cường đã từng ghi nhận(5,10).

KẾT LUẬN
Qua khảo sát đặc điểm của các bệnh nhân
đái tháo đường đang điều trị tại Bệnh viện Đại
Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh, chúng tôi rút ra
những kết luận sau:
1. Creatinine huyết thanh trung bình của
nhóm nghiên cứu là 1,73 ± 1,93 mg/dL; GFR
trung bình theo MDRD là 59,6 ± 33,2
ml/phút/1,73m2 da; và GFR trung bình theo
CKD-EPI là 57,7 ± 29,1 ml/phút/1,73m2 da.
2. Tỷ lệ tiểu đạm vi thể là 36,0%, tiểu đạm đại

thể là 30,0%. Có sự tương quan thuận có ý nghĩa
ở mức trung bình giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ
và mức tiểu đạm với R = 0,336 (P < 0,05).
3. Tổn thương thần kinh ngoại biên trên BN
ĐTĐ có tính chất đối xứng rất rõ, nhất là ở chi
dưới. Bất thường về thời gian tiềm ở các dây TK
cảm giác gặp nhiều hơn so với các dây TK vận
động, trong đó tỷ lệ cao nhất là TK giữa-cảm
giác, bất thường về vận tốc dẫn truyền của TK

17


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017

mác chiếm tỉ lệ cao nhất (96% đối với mác sâu và
42% đối với mác nông).

6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

7.

1.

2.


3.

4.

5.

18

Ananth UN, Martin RH, David RM, Alan N, Baldev MS (2011).
Evidence for Consistency of the Glycation Gap in Diabetes.
Diabetes Care, 34, 1712-1716.
Anath UN, Paul B, Baldev M.S (2013). Association of Glycation
Gap With Mortality and Vascular Complications in Diabetes.
Diabetes Care, 39, 1-7.
Emmanuel C, Isabela B, Camille Cussac P, Qinda C, Sabrina C,
Yaha J, Minh TN, Nathalie C, Paul V (2013). Glycation Gap Is
Associated With Macroproteinuria but Not With Other
Complications in Patients With Type 2 Diabetes. Diabetes Care,
36, 2070-2076.
Lê Quang Cường. (1997). Tốc độ dẫn truyền thần kinh ở người
Việt Nam trưởng thành bị Đái tháo đường. Tạp chí Y học thực
hành, 4, 9-11.
Nguyễn Mai Hoà. (2008). Khảo sát điện cơ trên bệnh nhân Đái
tháo đường mãn tính. Tạp chí Y học TPHCM, 12(1), 352-358.

8.

9.

10.


Partanen J, et al. (1995). Natural history of peripheral
neuropathy in patients with non-insulin-dependent diabetes
mellitus. New England Journal Medicine, 89-94.
Santiago RS, Javier R, Jose MC, Felipe FC, Felix C (2011).
Progression of Nephropathy in Type 2 Diabetes: The Glycation
Gap Is a Significant Predictor after Adjustment for
Glycohemoglobin (Hb A1c). Clinical Chemistry, 57(2), 264-271.
Santiago RS, Javier R, Jose MG, Felipe FC (2012). Estimation of
the Glycation Gap in Diabetic Patients With Stable Glycemic
Control. Diabetes Care, 35, 2447-2450.
Trần Văn Bình (2009), “Điều tra dịch tễ học bệnh Đái tháo
đường và hội chứng chuyển hoá tại một số vùng sinh thái của
Việt Nam”, Hà Nội: Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu cấp bộ 2009
Valensi P, et al. (1997). Diabetic peripheral neuropathy: effects
of age, duration of diabetes, glycemic control, and vascular
factors. Journal of Diabetes Complications, 11, 27-34.

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

27/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017


Chuyên Đề Nội Khoa



×