Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Nghiên cứu giải pháp nâng cao hứng thú học tập môn GDTC cho học sinh khối 11 trường THPT tân trào tuyên quang (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.45 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN ÂN THÔNG

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN GDTC
CHO HỌC SINH KHỐI 11 TRƯỜNG
THPT TÂN TRÀO - TUYÊN QUANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN ÂN THÔNG

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN GDTC
CHO HỌC SINH KHỐI 11 TRƯỜNG
THPT TÂN TRÀO - TUYÊN QUANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành học: Giáo dục Thể chất

Cán bộ hướng dẫn:

TS. Lê Trương Sơn Chấn Hải


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: NGUYỄN ÂN THÔNG
Sinh viên lớp K39 Khoa Giáo dục thể chất Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hứng thú học
tập môn GDTC cho học sinh khối 11 trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang”,
là công trình nghiên cứu của riêng tôi, đề tài không trùng với kết quả nghiên
cứu của các tác giả khác. Các kết quả nghiên cứu này mang tính thời sự cấp
thiết đúng thực tế khách quan của trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Sinh viên

Nguyễn Ân Thông


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Giải thích từ viết tắt

1


CSVC

2

GD

3

GD&ĐT

4

GDTC

5

NXB

Nhà xuất bản

6

TD

Thể dục

7

TDTT


8

TT

9

TTTC

Cơ sở vật chất
Giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Giáo dục thể chất

Thể dục thể thao
Thứ tự
Thể thao tự chọn


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUÁT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................... 5
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu ...................................................... 5
1.2 Khái niệm hứng thú học tập..................................................................... 9
1.3. Khái niệm hứng thú học môn GDTC.................................................... 10
1.4. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh THPT ................................... 15
1.5. Đặc điểm chung về hoạt động sư phạm trong lĩnh vực GDTC ............ 17
CHƯƠNG 2. NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN
CỨU ............................................................................................................... 19
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 19

2.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 19
2.3. Tổ chức nghiên cứu............................................................................... 24
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................... 25
3.1 Thực trạng và nguyên nhân dẫn tới thiếu hứng thú học tập môn GDTC
của học sinh khối 11 trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang .................... 25
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập môn GDTC cho học
sinh khối 11 trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang.................................. 34
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 48
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 50


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 Kết quả phỏng vấn về tinh thần và thái độ của học sinh trong giờ
GDTC (n = 390)............................................................................ 27
Bảng 3.2. Kết quả quan sát thái độ trong giờ học GDTC của học sinh
khối 11 trường THPT Tân Trào (n = 390).................................... 29
Bảng 3.3. Thực trạng kết quả học tập giữa học kỳ 1 môn GDTC của học sinh
khối 11 trường THPT Tân Trào (n = 390).................................... 30
Bảng 3.4. Xúc cảm của học sinh khối 11 khi học môn GDTC ( n=390)........ 30
Bảng 3.5. Sự ham thích các môn thể thao của học sinh trường THPT Tân Trào
- Tuyên Quang ( n=390) ............................................................... 31
Bảng 3.6 Kết quả phỏng vấn về những nguyên nhân mà học sinh cho là ảnh
hưởng tới hứng thú khi học GDTC (n = 390)............................... 33
Bảng 3.7. Kết quả phỏng vấn giáo viên về các giải pháp sử dụng để nâng cao
hứng thú cho học sinh học môn GDTC (n=10) ............................ 39
Bảng 3.8. Kế hoạch thực nghiệm .................................................................... 41
Bảng 3.9 Kết quả học tập môn GDTC giữa học kỳ 1 và giữa học kỳ 2 của học
sinh khối 11 trường THPT Tân Trào (n = 390) ............................ 44
Bảng 3.10. Xúc cảm của học sinh khối 11 đối với môn GDTC giữa học kỳ 1

và giữa học kỳ 2 năm học 2016 - 2017 (n = 390)......................... 45


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển
mạnh mẽ như vũ bão thì nhu cầu của con người ngày càng trở nên đa dạng
phong phú và không ngừng vươn tới đỉnh cao. Nhân loại đều hướng tới chân
trời tri thức mà hạt nhân là giáo dục. Ở đất nước ta hiện nay giáo dục được
Đảng và Nhà nước coi là quốc sách hàng đầu vì nó là chìa khóa cho sự phát
triển đất nước, là công cụ trang bị cho con người bước vào cuộc sống. Đối với
toàn xã hội thì mục đích của giáo dục là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”, còn đối với thế hệ trẻ thì giáo dục có mục đích làm cho
họ trở thành những con người có nhân cách toàn diện: “Phát triển cao về trí
tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo
đức” [3] tạo nên những nhân tố mới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, tiến
kịp với trào lưu chung của thế giới. TDTT trước hết liên quan chặt chẽ với sự
nghiệp đào tạo cho đất nước những con người phát triển toàn diện hợp lý.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng Tháng Tám thành công Bác Hồ đã nêu rõ
tầm quan trọng của TDTT đối với việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà,
gây đời sống mới, coi đó là một trong những công tác cách mạng. Bản thân
Bác đã nêu gương: “Tự tôi ngày nào cũng tập, tập đa dạng thích hợp với điều
kiện sống và công tác suốt đời hoạt động cách mạng phong phú của mình”[7].
Ngày nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác TDTT nói
chung và GDTC trong nhà trường nói riêng, coi sức khỏe là vốn quý của con
người, là loại tài sản quốc gia vô cùng quan trọng. Sự quan tâm đó được thể
hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn
cách mạng với các yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình cụ thể.
Chỉ thị 17/CT – TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác

TDTT đến năm 2010: đẩy mạnh hoạt động Thể dục, Thể thao ở trường học,


2

đảm bảo mỗi trường học đều có giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể
dục đúng tiêu chuẩn tạo điều kiện nâng cao chất lượng Giáo dục Thể chất.
Tăng cường nhà đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực Thể dục, thể thao, ưu tien
cho việc phát triển Thể dục, thể thao trường học, ở nông thôn và miền núi,
định hướng phát triển Thể dục, thể thao… “Phát triển mạnh thể thao quần
chúng, thể thao nghiệp dư, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên, làm tốt
công tác GDTC trong trường học” [2] và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh
GD và ĐT, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững, về công tác GD và ĐT đã khẳng định rõ GDTC trong
trường học là cực kỳ quan trọng. GDTC không chỉ tác động tích cực tới quá
trình phát triển và hoàn thiện thể chất mà còn góp phần quan trọng phát triển
các phẩm chất đạo đức, nhân cách và những phẩm chất cần thiết cho cuộc
sống, học tập và lao động của con người. Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 24 -31994 của Ban Bí thư TW Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thể dục thể
thao trong giai đoạn mới khẳng định: “Phát triển TDTT là bộ phận quan
trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
nhằm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, công tác TDTT góp phần tích
cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức lối sống lành
mạnh, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao sức lao
động và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang ”[1].
Hứng thú học tập như điều kiện tâm lý sư phạm nâng cao chất lượng
dạy học. Hứng thú học tập là yếu tố tạo ra chất lượng học tập ở mỗi người
học. Có hứng thú học tâp các em sẽ xây dựng được động cơ học tập, tính tự

giác, tự tin, sáng tạo, say sưa trong quá trình lĩnh hội và sự vận dụng những


3

điều lĩnh hội được vào giải quyết nhiệm vụ học tập một cách linh hoạt,
sáng tạo hơn, nhờ đó kết quả học tập của các em học sinh ngày càng nâng
cao, năng lực của học sinh từng bước được hình thành, phát triển một cách
tích cực.
Ngày nay, với quan điểm con người vừa là động lực, vừa là trung tâm
của sự phát triển, công tác GDTC trong nhà trường đặc biệt quan trọng. Theo
Luật Thể dục, thể thao năm 2006 quy định về GDTC và hoạt động thể thao
trong nhà trường là chương trình bắt buộc đối với hệ thống giáo dục quốc
dân, bao gồm Từ mầm non đến bậc Đại học. Hệ thống chương trình GDTC ở
trường THPT hiện nay gồm các môn học bắt buộc như: Thể dục, điền kinh, và
các môn thể thao tự chọn như bóng chuyền, bóng rổ, bóng đá, bơi... với sự cố
gắng khắc phục nhưng khó khăn chung và thiếu thốn về nhiều mặt, cho đến
nay công tác GDTC trong nhà trường THPT nói riêng đã thu được những
thành tích đáng kể về nhận thức lẫn chất lượng dạy học như đã áp dụng dạy
35 tiết mỗi kỳ, với 2 tiết/ tuần nội dung thực hành bài tập theo đúng nội dung,
đúng thời gian quy định, với các hoạt động thể thao ngoại khóa, các nhà
trường đều tổ chức hội khỏe cấp trường, kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
Tuy nhiên trong những năm gần đây việc học tập môn GDTC của học sinh
THPT nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, chưa mang được hiệu quả như
mong muốn không ít học sinh sợ GDTC, coi GDTC là một việc mệt nhọc.
Hứng thú học tập giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả của quá trình học tập. Việc hình thành hứng thú học tập môn GDTC sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn này, góp phần tăng
thêm lòng yêu thích, cũng như trách nhiệm của học sinh đối với việc rèn
luyện sức khỏe của bản thân.

Đã có đề tài nghiên cứu về giải pháp hứng thú học tập môn GDTC như
của sinh viên Đặng Thị Hải Yến (2011) các đề tài nghiên cứu với đối tượng


4

và địa điểm khác, tuy nhiên chưa có đề tài nghiên cứu giải pháp nâng cao
hứng thú học tập môn GDTC cho học sinh khối 11 trường THPT Tân Trào Tuyên Quang.
Xuất phát từ những lí do trên để tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu giải pháp nâng cao hứng thú học tập môn GDTC cho học
sinh khối 11 trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang”.
* Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu giải pháp để nâng cao hứng thú học tập môn GDTC cho
học sinh khối 11 trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang. Từ đó góp phần tích
cực vào việc nâng cao chất lượng học tập môn GDTC.
* Gia thuyết khoa học
Nếu áp dụng tốt giải pháp để nâng cao hứng thú học tập môn GDTC
cho học sinh khối 11 thì sẽ nâng cao được hiệu quả công tác GDTC và thể
thao tại trường THPT Tân Trào - Tuyên Quang một cách có hiệu quả nhất.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUÁT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm chung về hứng thú
Là một hiện tượng tâm lý phức tạp, được thể hiện khá rộng rãi trong
thực tiễn cuộc sống cũng như trong các ngành khoa học, hứng thú là một vấn
đề đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Do đứng trên quan điểm

và góc độ khác nhau mà nhà khoa học có nhiều quan điểm không giống nhau
về khái niệm này.
* Quan niệm của nhà tâm lý học phương tây
- Nhà tâm lý học I.Phshecbac đã coi hưng thú như một thuộc tính bẩm
sinh của con người, xác định nguồn gốc sinh vật của hứng thú.
- Buhlr coi hứng thú là nguồn gốc của tinh thần của tính tích cực biểu đạt
tài liệu và coi nó như một thuộc tính vốn có.
- Một số tác giả cho rằng hứng thú như một trường hợp riêng của thiên
hướng. [16]
Các nhà tâm lý học phương Tây coi hứng thú như một thuộc tính sẵn có
của con người, là thuộc tính bẩm sinh. Nhưng quan niệm này mang tính duy
tâm phiến diện. Họ đã hạ thấp vai trò của giáo dục giáo dưỡng và hoạt động
có ý thức của con người.
* Quan niệm của nhà tâm lý học macxít
Theo họ thì khái niệm hứng thú không phải là cái gì trừu tượng, không
phải là một thuộc tính có sẵn có trong nội tại của con người là kết quả của sự
hình thành nhân cách, nó phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại
của con người.
- S.L.Rubinxtein coi hứng thú biểu hiện là khuynh hướng tác động một
cách hiểu biết, có ý thức đối với khách thể mà con người định hướng vào đó.


6

- Có tác giả lại gắn hứng thú với nhu cầu. Sbinle quan niệm: Hứng thú là
kết cấu bao gồm nhiều nhu cầu. Việc quy hứng thú về nhu cầu như vậy là
không đúng vì hứng thú khác nhu cầu về vấn đề khoái cảm.
- Trong đề cương bài giảng tâm lý học trẻ em và sư phạm, các tác giả đã
nêu: “Hứng thú là định hướng có lựa chọn cá nhân vào sự vật hiện tượng của
thực tế xung quanh. Sự định hướng đó đặc trưng bởi sự vươn lên thường trực

với nhận thức, tới những kiến thức càng đầy đủ sâu sắc” [9].
Như vậy, khái niệm hứng thú của nhà tâm lý học macxít phản ánh nhiều
quá trình quan trọng, từ những quá trình riêng lẻ (tri giác, trí nhớ) cho tới tổ
hợp nhiều quá trình (nhận thức, tình cảm, ý chí) và khái niệm hứng thú rất
rộng. Nhưng các quan niệm trên phần nào hạn chế, phiến diện vì đã thu hẹp
khái niệm hứng thú, quy hứng thú vào giới hạn của nhận thức hoặc tình cảm,
nhu cầu… thực chất hứng thú không phải là nhu cầu hay tình cảm mà hứng
thú có quan hệ chặt chẽ với các quá trình đó. Người ta cho rằng hứng thú vừa
liên quan tới trí thông minh, vừa với tình cảm lẫn ý trí.
Tâm lý học hiện đại có khuynh hướng nghiên cứu hứng thú không tách
rời toàn bộ cấu trúc tâm lý cá nhân. Phân tích cấu trúc hứng thú, tiến sĩ tâm lý
học N.G.Ma-rô-zô-va đã nêu ít nhất ba yếu tố đặc trưng cho hứng thú gồm:
- Có cảm xúc đúng đắn với hoạt động
- Có khía cạnh nhận thức của cảm xúc đó
- Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động đó, tức là hoạt
động tự nó lôi cuốn vì kích thích không phụ thuộc vào các động cơ khác như:
tinh thần, nghĩa vụ… có thể hỗ trợ làm nảy sinh duy trì và hứng thú nhưng
không xác định được bản chất của hứng thú.
Ba thành tố trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong hứng thú cá
nhân, ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của hứng thú, mỗi yếu tố đó có thể
nổi lên mạnh mẽ hay ít nhiều.


7

Qua những phân tích trên chúng ta có thể định nghĩa hứng thú như sau:
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó có khả năng
mang đến cho con người những rung cảm đặc biệt đồng thời cá nhân nhận
thức được ý nghĩa của nó đối với cuộc sống.
Đặc điểm của hứng thú: Mỗi hứng thú theo nguyên tắc bao gồm hai

nhân tố đó là nhận thức và tình cảm. Trong tâm lý con người, sự phát triển
của hứng thú gắn liền với trình độ phát triển của nhận thức và tình cảm.
Hứng thú của con người rất đa dạng và phức tạp cũng như hoạt động
muôn mầu muôn vẻ của họ. Dựa trên những căn cứ khác người ta có thể chia
hứng thú ra nhiều loại tương ứng.
- Căn cứ vào nội dung của đối tượng hưng thú và phạm vi hoạt động của
hứng thú có thể chia thành:
Hứng thú vật chất: Nguyện vọng muốn có đủ chỗ ở, đủ tiện nghi, hứng
thú ăn mặc…trong xã hội tư bản hứng thú vật chất chỉ mang tính chất ích kỷ,
nó trở thành ham muốn xa hoa.
Hứng thú nhận tri thức: Hứng thú học tập, hứng thú khoa học có tính
chuyên môn như hứng thú toán học…
Hứng thú chính trị - xã hội: Là hứng thú với những hình thức nhất định
của công tác xã hội, đặc biệt là hoạt động tổ chức, lãnh đạo, hứng thú thời
cuộc…
Hứng thú thẩm mỹ: Hứng thú văn học, sân khấu, hội họa…
- Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú, có thể chia thành hứng thú trực
tiếp và hứng thú gián tiếp
Hứng thú trực tiếp: Là hứng thú với quá trình hoạt động như quá trình
nhận thức, hẹp hơn nữa là quá trình nắm vững kiến thức, quá trình lao động
và sáng tạo.
Hứng thú gián tiếp: Là hứng thú với kết quả hoạt động như muốn học
vấn, có nghề nghiệp, cương vị trong xã hội… hoặc kết quả vật chất của quá
trình lao động.


8

Sự tương quan đúng mức giữa hứng thú trực tiếp và hứng thú gián tiếp là
điều kiện thuận lợi nhất cho động cơ tích cực của cá nhân. Người ta thường

dùng hứng thú gián tiếp để kích thích hứng thú trực tiếp.
- Căn cứ vào tính bền vững của hứng thú tập luyện có hứng thú bền vững
và hứng thú không bền vững.
Hứng thú bền vững: thường gắn liền với năng lực cao và nhận thức sâu
sắc nghĩa vụ và thiên hướng của mình.
Hứng thú không bền vững: Thường bắt nguồn từ sự nhận thức hời hợt
đối tượng hứng thú.
Qua phân tích của các nhà khoa học chúng tôi nhận thấy hứng thú gián
tiếp, hứng thú bền vững và tích cực quyết định trực tiếp đến GDTC.
1.1.2 Vai trò của hứng thú trong trong đời sống cá nhân nói chung và
trong hoạt động thể thao nói riêng
a. Vai trò của hứng thú đối với đời sống cá nhân
Hứng thú có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống, hoạt động của
con người. Con người chỉ cảm thấy thoải mái vì có hứng thú. Hứng thú kích
thích tính tích cực của con người. Hứng thú làm tăng tính làm việc, cá nhân
có sức chịu đựng dẻo dai và làm việc một cách say sưa.
Hứng thú làm tăng quá trình hiệu quả của nhận thức. Vì nó quan hệ với
chú ý và tình cảm nên khi có hứng thú thì cá nhân hướng toàn bộ quá trình
nhận thức vào đối tượng khiến quá trình đó nhạy bén và sâu sắc hơn. Hứng
thú làm hiệu quả nhận thức được nâng cao, con người hoạt động không thấy
mệt mỏi.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng để thỏa mãn hoạt động, khi đó hứng
thú trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động. Nhờ có hứng thú con
người nảy sinh tính cách tốt đẹp như: Kiên trì, độc lập, …
b. Vai trò của hứng thú trong hoạt động thể thao
Hoạt động thể thao là một dạng hoạt động đặc biệt bởi nó đòi hỏi sự
căng thẳng về thể chất và tâm lý tối đa trong thi đấu và trong các buổi huấn


9


luyện. Mặt khác hoạt động thể thao mang tính tự nguyện thuần túy, hiệu quả
của nó phụ thuộc rất nhiều vào hứng thú, sự say mê, các động cơ trực tiếp và
hoài bão của người tập.
Hứng thú thể thao có ảnh hưởng quyết định rất nhiều tới tính tích cực
của người tập. Hứng thú, sự say mê, các động cơ trực tiếp và hoài bão của
người tập. Hứng thú có ảnh hưởng nhiều tới tính tích cực của người tập. Hứng
thú giúp cho người tập vượt qua được khó khăn thường phải gặp trong các
điều kiện cụ thể của hoạt động thể thao và thúc đẩy họ đạt được những thành
tích thể thao cao.
1.2 Khái niệm hứng thú học tập
1.2.1 Định nghĩa hứng thú học tập
Hứng thú học tập chính là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối
với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý
nghĩa thiết thực của nó trong quá trình nhận thức và trong đời sống của cá
nhân [9].
1.2.2 Các loại hứng thú học tập
a . Hứn g t hú tr ực t iếp tr ong ho ạt độn g họ c tậ p
Hứng thú trực tiếp chủ yếu nhằm vào việc nhận thức, tiếp thu tri thức
chứa đựng trong các môn học ở trường. Ngoài ra, hứng thú trực tiếp không
chỉ nhằm vào nội dung của môn học cụ thể mà còn hướng vào quá trình đạt
được những kiến thức đó, nhằm vào hoạt động nhận thức. Và trong quá trình
hoạt động đó đã diễn ra việc vận dụng những phương pháp học tập đã tiếp thu
được, việc lĩnh hội được những phương pháp học tập mới và hoàn thiện nó
cũng thuộc về đối tượng của hứng thú trực tiếp.
Vậy hứng thú trực tiếp trong học tập là hứng thú đối với nội dung tri
thức, quá trình học tập, và những phương pháp tiếp thu, vận dụng những tri
thức đó. Nói cách khác, hứng thú trực tiếp là sự say mê hướng vào đối tượng
và cách thức chiếm lĩnh đối tượng đó.



10

b. Hứng th ú gi án ti ếp trong hoạ t độ ng họ c t ập
Hứng thú gián tiếp trong hoạt động học tập là thái độ lựa chọn đặc biệt
của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập do những yếu tố bên
ngoài đối tượng của hoạt động này gây nên và gián tiếp liên quan đến đối
tượng ấy [9].
Hứng thú gián tiếp trong hoạt động học tập có một số đặc điểm sau:
+ Nó thường hướng tới những khía cạnh bên ngoài, có liên quan đến đối
tượng của hoạt động học tập (khen thưởng, điểm số).
+ Có tính chất tình huống rất rõ nét: Khi nhận được tri thức cần thiết
hoặc khi đã kết thúc hành động, hứng thú cũng biết mất, các dấu hiệu của thờ
ơ lại xuất hiện (theo phong trào, ảnh hưởng của bạn bè...).
+ Ít có tác dụng thúc đẩy hành động, học sinh không chú ý đến đối tượng
của hoạt động theo sáng kiến riêng của mình.
+ Không được ý thức một cách rõ ràng, học sinh không thể giải thích
được; đó có phải là hứng thú học tập hay không? Vì sao các em lại hứng thú
với đối tượng đó?
+ Nó được xuất hiện theo những phản ứng có thể rất mạnh nhưng cũng
thường rất ngắn ngủi.
1.3. Khái niệm hứng thú học môn GDTC
1.3.1 Định nghĩa
Hứng thú học môn GDTC là thái độ lựa chọn đặc biệt của học sinh đối
với quá trình, kết quả lĩnh hội và vận dụng kiến thức GDTC trong quá trình
học tập cũng như trong cuộc sống, do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết
thực của môn GDTC với bản thân [16].
1.3.2 Những thành tố tâm lý cấu thành hứng thú học môn GDTC của
học sinh THPT
Có thể xác định cấu trúc của hứng thú học môn GDTC của học sinh bao

gồm 3 thành phần chủ yếu sau:


11

- Thành tố xúc cảm trước hết tham gia vào việc chuẩn bị tạo nên một
thái độ đúng đắn đối với môn GDTC, đối với việc học môn GDTC của học
sinh. Đây là tiền đề tâm lý của hứng thú học môn GDTC. Những xúc cảm
khác sẽ xuất hiện trong quá trình hoạt động tìm tòi như niềm vui nhận thức là thành tố cơ bản và dấu hiệu của hứng thú học môn GDTC; niềm vui đạt
thành tích sẽ giúp duy trì được hứng thú học môn GDTC.
- Thành tố nhận thức giữa vai trò rất lớn trong việc duy trì hứng thú học
môn GDTC. Học sinh hiểu giá trị và ý nghĩa của việc học môn GDTC từ đó
xuất hiện thái độ tự giác, đúng đắn củng cố cho hứng thú học môn GDTC của
các em.
- Hành động của học sinh:
+ Ý chí có một vai trò lớn trong việc khắc phục những xúc cảm sai trái
nảy sinh trong hoạt động học GDTC hoặc trong khi thực hiện bài tập khó.
+ Động cơ có vai trò hai mặt trong quá trình phát triển hứng thú học
môn GDTC, một mặt động cơ trực tiếp xuất hiện từ hoạt động học GDTC.
Mặt khác, động cơ là những động cơ xã hội rộng rãi giúp củng cố hứng thú
môn GDTC.
+ Tính tích cực tạo điều kiện cho việc tìm tòi và xuất hiện niềm vui
trong hoạt động học GDTC. Tính tích cực tạo ra một hoạt động định hướng
theo chiều mạnh lên và những rung động đúng đắn. Khi hứng thú học môn
GDTC xuất hiện sẽ nâng cao tính tích cực và hiệu quả lĩnh hội tri thức và kỹ
xảo.
1.3.3 Các biểu hiện của hứng thú học môn GDTC
Hứng thú học môn GDTC của học sinh được biểu hiện thông qua các
dấu hiệu, các chỉ số cụ thể trong hoạt động học tập, trong cuộc sống của các
em. Nhà giáo dục có thể quan sát và nhận biết chung. Những biểu hiện này

khá phong phú, đa dạng và nhiều khi còn phức tạp, chúng có thể đan xen vào
nhau. Đó là:


12

- Biểu hiện về mặt xúc cảm: Học sinh có xúc cảm tích cực (yêu thích,
say mê…) đối với môn GDTC: các em thực sự yêu thích môn GDTC, coi học
GDTC là niềm vui, niềm hạnh phúc.
- Biểu hiện về mặt nhận thức: Học sinh nhận thức đầy đủ, rõ ràng
những nguyên nhân của sự yêu thích trên; những nguyên nhân đó có thể trực
tiếp liên quan đến đối tượng của hoạt động học GDTC (đến nội dung và
phương pháp tư duy học GDTC), hoặc gián tiếp liên quan đến đối tượng trên.
- Biểu hiện về mặt hành động: Học sinh biểu hiện các hành động học
tập tích cực, chủ động, sáng tạo không chỉ trong giờ lên lớp mà còn ở cả ngoài
lớp hàng ngày như:
+) Trong giờ lên lớp:
> Say mê học tập, chăm chú nghe giảng.
> Hăng hái tập luyện.
> Tích cực làm việc theo nhóm để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
+) Ở ngoài lớp và ở nhà:
> Tập luyện ngoại khóa thường xuyên.
> Tích cực tham gia các hoạt động, phong trào TDTT ở khu dân cư.
- Biểu hiện về mặt kết quả học tập:
Kết quả học tập xếp loại đạt môn GDTC.
1.3.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới hứng thú học môn GDTC
* Những yếu tố khách quan:
Đó là những yếu tố bên ngoài học sinh, tác động vào học sinh bằng
nhiều con đường khác nhau. Các yếu tố đó bao gồm:
- Đặc điểm môn GDTC: Đó là nội dung, tính chất, cơ cấu, sự sắp xếp

chương trình, phương pháp dạy và học môn GDTC…. Đặc điểm của môn
GDTC với tư cách là đối tượng lĩnh hội, có tác dụng lớn đối với việc hình
thành hứng thú học môn GDTC ở học sinh.


13

- Giáo viên: Đó là trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, lòng say mê
nhiệt tình, sự hứng thú với nghề nghiệp của giáo viên đối với môn GDTC, đặc
biệt là phương pháp dạy môn GDTC …. Những điều đó có ảnh hưởng cơ bản
đến sự phát triển đến hứng thú học môn GDTC ở học sinh.
- Đặc điểm của bài tập:
Do các bài tập giáo viên đưa ra có mức độ khó tăng dần, thiếu hấp dẫn
khó thực hiện… nên các bài tập được thực hiện một cách gò ép, uể oải, chán
nản, chống đối…. Người tập có thái độ không thích thú, không có sự cố gắng
thì không thể có tác dụng như những bài tập được thực hiện một cách hào
hứng, tự giác, chủ động. Ở đây những yếu tố mới và tính hấp dẫn của bài tập
có ý nghĩa quan trọng.
- Đặc điểm của môi trường thực hiện bài tập:
Hầu hết các nội dung của môn GDTC được giảng dạy ở ngoài trời
chính vì vậy yếu tố thời tiết, địa hình, điều kiện vệ sinh của môi trường tập
luyện tốt là tiền đề góp phần nâng cao hiệu quả giờ học cũng như hứng thú
học của học sinh. Môi trường tự nhiên thuận lợi sẽ làm tăng tác dụng của bài
tập, cho phép áp dụng lượng vận động lớn hơn, tổ chức nghỉ ngơi hợp lý, gây
cảm xúc hứng thú cho người tập. Ngược lại, sự thay đổi của môi trường sẽ
làm giảm đi mức độ hứng thú của học sinh như: Trời mưa, lạnh, nắng nóng…
- Cơ sở vật chất:
Từ trước tới nay môn GDTC vẫn được coi là môn học phụ, môn điều
kiện ở các trường THPT nên sự quan tâm và đầu tư đối với môn GDTC cũng
chưa đầy đủ và thiết bị phục vụ giảng dạy, tập luyện vẫn còn thiếu thốn nhiều.

Hiện nay tất cả các trường học trong cả nước học sinh học môn thể dục ngoài
sân trường hoặc sân vận động, nếu trời mưa là các em phải nghỉ. Chính vì vậy,
đảm bảo cơ sở vật chất tốt cũng là điều kiện nâng cao hiệu quả giờ học GDTC
và hứng thú học tập như đảm bảo: Dụng cụ, sân bãi, nhà tập, nhà đa năng…


14

Tóm lại, hứng thú học môn GDTC của học sinh khối 11 nảy sinh và
phát triển dưới ảnh hưởng qua lại của tổ hợp những yếu tố chủ quan và những
yếu tố khách quan nhất định. Do đó muốn hình thành và phát triển hứng thú
học môn GDTC cho học sinh, cần phải chú ý cả những yếu tố bên trong, cũng
như yếu tố bên ngoài, đặc biệt là cần chú ý đến vai trò “Chủ đạo của người
giáo viên”.
* Những yếu tố chủ quan:
Đó là những yếu thuộc về chủ thể học sinh như:
- Đặc điểm cá nhân người tập: Tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe và
thể lực, học tập và khả năng vận động.
Cùng một bài tập có thể gây lên những hiệu quả khác nhau tùy thuộc
vào đặc điểm cá nhân người tập. Một lượng vận động nhẹ của vận động viên
có thể là nặng, quá sức đối với người tập. Đa phần những học sinh nam, học
sinh có thể lực tốt và khả năng vận động tốt sẽ dễ hình thành hứng thú học
môn GDTC hơn so với những em nữ và em có thể lực yếu và khả năng vận
động kém. Nói cách khác, sự phát triển về thể chất là cơ sở tạo ra thành tích
và kết quả tốt trong học tập môn GDTC. Thành tích có vai trò tâm lý vừa là
tiền đề cho hứng thú học môn GDTC, vừa là động cơ bổ trợ duy trì hứng thú
học môn GDTC. Đầu tiên, thành tích tạo thành một cái nền xúc cảm đúng
đắn, là tiền đề hứng thú học môn GDTC, sau đó khi hứng thú xuất hiện, nó
tạo nên một thành tích cao hơn nữa và thành tích này lại tiếp tục làm phát
triển và duy trì hứng thú học môn GDTC.

- Học sinh cần có thái độ đúng đắn với việc học tập, đối với bộ môn
GDTC. Nó được thể hiện ở 2 mặt:
+ Thái độ xúc cảm tích cực với việc học môn GDTC.
+ Thái độ có ý thức đối với việc học môn GDTC, hiểu được ý nghĩa
của việc học GDTC, ý nghĩa cá nhân cũng như xã hội của nó.


15

Yếu tố này là điều kiện và tiền đề quan trọng của sự hình thành
hứng thú học môn GDTC ở học sinh khối 11, nó sẽ giúp cho sự duy trì và phát
triển hứng thú học môn GDTC.
- Các yếu tố chủ quan khác như: Nhu cầu, tính ham hiểu biết, niềm vui
nhận thức, sự nỗ lực ý chí, những năng lực…của học sinh cũng ảnh hưởng tới
sự hình thành, phát triển hứng thú học môn GDTC ở các em.
1.4. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
1.4.1. Đặc điểm tâm lý
- Về mặt tâm lý các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn để mọi
người tôn trọng mình, đã có một trình độ hiểu biết nhất định, có khả
năng phân tch, tổng hợp, muốn hiểu biết, nhiều hoài bão, nhưng còn nhiều
nhược điểm và kinh nghiệm cuộc sống còn ít.
- Độ tuổi này chủ yếu là hình thành thế giới quan, tự ý thức hình thành
về tnh cách và hướng về tương lai. Đó cũng là lứa tuổi của lãng mạn, độc đáo
và mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó là tuổi nhu cầu sáng tạo, nảy
nở những tình cảm mới. Thế giới quan không phải là một niềm tn lạnh nhạt
mà nó là sự say mê ước vọng nhiệt tình. Các em có thái độ tự giác tch cực,
trong học tập, xuất phát từ động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa
chọn nghề nghiệp sau này. Do đó quá trình hưng phấn cao hơn quá trình ức
chế nên các em tếp thu nhanh nhưng cũng chóng chán. Khi đạt được một
số kết quả sẽ dẫn đến tự mãn, điều đó có tác động không tốt đến tập luyện

cũng như thi đấu thể thao. Vì vậy khi tiến hành tập luyện, huấn luyện cho các
em ở lứa tuổi này cần phải uốn nắn nhắc nhở chỉ bảo tận tình định hướng và
động viên các em hoàn thành tốt nhiệm vụ, có hình thức khen thưởng
động viên đúng lúc kịp thời. Trong quá trình huấn luyện dần dần từng bước
động viên các em tếp thu chậm. Từ đó làm cho các em không cảm thấy
chán có định hướng phấn đấu và hiệu quả bài tập được nâng cao.


16

1.4.2 Đặc điểm sinh lý
- Ở lứa tuổi này cơ thể các em đã phát triển nhưng tốc độ giảm dần,
chức năng sinh lý tương đối ổn định, khả năng hoạt động của các cơ quan, bộ
phận của cơ thể được nâng cao, sự phát triển hình thể đã tương đối hoàn
thiện.
Hệ thần kinh: Các bộ phận thần kinh đã khá hoàn thiện, kích thước não
hành tuỷ đạt đến mức của người trưởng thành hoạt động phân tch, tổng
hợp của vỏ não tăng. Trên vỏ não có các tri giác hoạt động có định hướng
sâu sắc hơn, khả năng nhận biết cấu trúc động tác và tái hiện chính xác khả
năng vận động được nâng cao, ngoài ra do việc hoạt động của các tuyến
giáp trong tuyến sinh dục cũng ảnh hưởng đến hoạt động thể dục thể
thao, các bài tập đơn điệu làm cho học sinh nhàm chán mệt mỏi. Vì vậy
cần phải thay đổi nhiều hình thức tập luyện.
Hệ cơ: Ở lứa tuổi này đang phát triển nhưng chậm hơn so với hệ
xương, số lượng sợi cơ tăng chậm nhưng chiều dài sợi cơ phát triển nhanh.
Đàn tnh cơ tăng nhưng không đều, do đó để củng cố và phát triển sức nhanh,
mạnh cần phát triển sức bền và sức mạnh bền. Khi áp dụng các bài tập cần
tăng dần lượng vận động, tránh tăng lượng vận động đột ngột dễ dẫn tới
chấn thương. Cơ không đều chủ yếu là cơ nhỏ dài, do đó cơ hoạt động sớm
dễ dẫn tới mệt mỏi.

Hệ tuần hoàn: Tiếp tục phát triển toàn diện. Tim đập 70 - 80 lần/phút.
Phản ứng của hệ tuần hoàn tương đối rõ rệt. Sau vận động mạch đập
và huyết áp phục hồi tương đối nhanh chóng, cho nên có thể tập các bài
tập mạnh, tốc độ hay dai sức. Ở lứa tuổi này diện tích tiếp xúc phổi khoảng
100 200 cm2. Dung lượng phổi tăng nhanh, tần số thở 10 - 20 lần/phút. Tuy
nhiên cơ vẫn còn yếu.


17

Hệ xương: Xương giảm tốc độ phát triển, sụn ở xương có độ dài nhưng
chuyển thành xương ụ. Cột sống đã ổn định về hình dáng nhưng chưa được
củng cố dễ bị cong vẹo.


18

Hệ máu: Ở lứa tuổi này các em hoạt động cơ bắp cho nên hệ máu có
những thay đổi nhất định. Hàm lượng hêmôglôbin cũng như hàm lượng
trong máu đều tăng làm cho dung dịch oxi trong máu cũng tăng lên, sau các
hoạt động kéo dài thì hồng cầu sẽ giảm đi và quá trình hoạt động xảy ra
nhanh.
Hệ hô hấp: Ở lứa tuổi này làm biến đổi về trạng thái, chức năng của hệ
hô hấp và có sự thay đổi về chiều dài của chu kì hô hấp. Tỉ lệ thở ra hít vào
thay đổi độ sâu và tần số hô hấp. Dung tch sống và thông khí phổi tăng
tối đa. Khả năng hấp thụ oxi tối đa.
Trao đổi năng lượng: Ở giai đoạn này đòi hỏi về các chất đường, đạm,
mỡ và muối khoáng rất lớn, quá trình chuyển hoá xảy ra rất nhanh lượng
tế bào tăng một mặt chuyển hoá cho quá trình trưởng thành cơ thể, mặt
khác để cung cấp cho quá trình vận động thể lực.

- Như vậy tất cả các bộ phận cơ quan trong cơ thể ở lứa tuổi này vẫn
đang phát triển và dần đi đến hoàn thiện. Do đó việc huấn luyện, giảng dạy
phải hết sức lưu ý để làm sao tạo điều kiện tốt nhất để các em tếp tục phát
triển cân đối và hoàn thiện.
Tóm lại: Từ việc hiểu và nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh
là cơ sở để chúng tôi đưa ra giải pháp phù hợp để hình thành và nâng
cao hứng thú học môn GDTC.
1.5. Đặc điểm chung về hoạt động sư phạm trong lĩnh vực GDTC
Hoạt động GDTC học sinh, thực chất là một quá trình dạy học, huấn
luyện. Nó tồn tại như một thể thống nhất bao gồm nhiều thành phần
như: Điều tra sức khỏe, thể chất học sinh, xác lập mục đích, nội dung nhiệm
vụ, phương pháp, phương tện tập luyện, huấn luyện và đánh giá kết quả
GDTC cho học sinh. Thầy giáo với hoạt động dạy học và huấn luyện, học sinh
với hoạt động học tập và tập luyện. Mục đích của hoạt động sư phạm
trên lĩnh vực GDTC:


19

- Tập luyện dạy, học tập để trang bị kiến thức, hiểu biết kỹ năng có liên
quan đến việc tăng cường sức khỏe và hoàn thiện thể chất.
- Giáo dục làm phát triển ý thức tự chăm sóc sức khỏe, hoàn thiện
thể chất bản thân cũng như phát triển năng lực hoạt động thể lực và
nhân cách học sinh nói chung trong quá trình GDTC và đời sống cá nhân.
- Góp phần chăm lo sức khỏe thể chất, tinh thần và xã hội cho học
sinh, sinh viên. Như vậy, GDTC là một mặt giáo dục tương đối độc lập và
mang tính đặc thù chuyên môn nhất định. Chính mục đích sư phạm trên đây
đặt ra những yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong quá trình GDTC.



×