Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát tần số tim và sự sử dụng thuốc ức chế bêta trong điều trị suy tim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.72 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

KHẢO SÁT TẦN SỐ TIM VÀ SỰ SỬ DỤNG THUỐC ỨC CHẾ BÊTA
TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TIM
Huỳnh Thị Thanh Phương*, Châu Ngọc Hoa**

TÓM TẮT
Mở đầu: Ngày nay, suy tim (ST) vẫn là một trong những vấn đề hàng đầu của ngành y tế trên khắp thế
giới. Thuốc ức chế beta (UCB) được khuyến cáo mức độ I trong điều trị ST. Tần số tim (TST) là yếu tố nguy cơ
độc lập cho bệnh tim mạch bao gồm ST. Trong thực hành làm sàng, TST và sự sử dụng thuốc UCB vẫn chưa
được quan tâm đúng mức.
Mục tiêu: Khảo sát tần số tim và sự sử dụng thuốc ức chế beta trong điều trị suy tim.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên BN ST tại thời điểm xuất viện ở khoa Nội Tim
mạch, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 1/2014 đến tháng 05/2014.
Kết quả: Có 105 BN ST tham gia NC trong 5 tháng. Tần số tim trung bình lúc xuất viện của BN ST là 84,6 ±
17,7 lần/phút. Tỷ lệ phần trăm bệnh nhân (BN) có TST<60, 61 – 70, 71 – 89, ≥90 lần/phút lần lượt là 4,8%, 14,3%,
50,5%, 30,5%. Tỉ lệ sử dụng UCB trên BN ST là 36,2%.Không có BN trong nghiên cứu(NC) đạt tới liều đích.
Kết luận:TST xuất viện ở BN ST trong NC còn cao, tỷ lệ sử dụng và liều thuốc UCB còn thấp so với các
nước phát triển.
Từ khóa: tần số tim, suy tim, thuốc ức chế beta.

ABTRACT
HEART RATE AND THE USAGE OF BETA BLOCKER IN TREATMENT OF HEART FAILURE
Huynh Thi Thanh Phuong, Chau Ngoc Hoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 1 - 2016: 202 - 207
Background: Nowadays, heart failure is still one of leading problem in global health. Beta blockers are
recommended as class I in heart failure therapy. Heart rate is an independent risk factor for cardiovascular disease,
including heart failure. In clinical practice, increasing heart rate and beta blocker use in patients with heart failure
have not been adequately concerned.


Objectives: To survey heart rate and the use of beta blockers in heart failure.
Methods: A cross-sectional study was carried out from January 2014 to May 2014 to investigate patients
with heart failure at the time of discharge at the Cardiovascular Department, Nhan Dan Gia Dinh Hospital.
Results: 105 patients participated in our 5-month-study. The average heart rate at the time of discharge was
84.6 ± 17.7 beats per minute. The percentage of heart rate groups <60, 61 – 70, 71 – 89, and ≥90 beats per minute
were 4.8%, 14.3%, 50.5%, and 30.5%, respectively. The use of beta blocker was observed in 36.2% of patients,
none of which achieved optimal dose.
Conclusions: Heart rate of patients with heart failure at the time ofdischarge was high. The use and dosing
of beta blocker was lower than those in developed countries.
Key words: heart rate, heart failure, beta blocker

* Khoa Hồi sức Viện Tim TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: ThS BS Huỳnh Thị Thanh Phương ĐT: 0939662423 Email:

202

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
MỞ ĐẦU
Ngày nay, mặc dù có nhiều tiến bộ trong
chẩn đoán và điều trị, STvẫn là một trong những
vấn đề hàng đầu của ngành y tế trên khắp thế
giới. Tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ mới mắc còn khá cao
và có xu hướng gia tăng theo tuổi. Tại Mỹ, năm
2012 ước tính khoảng 5,1 triệu người được chẩn
đoán ST và hằng năm có thêm khoảng 650.000
trường hợp mới mắc(11). Mục tiêu điều trị ST bao
gồm giảm triệu chứng, giảm tỷ lệ nhập viện và

giảm tỷ lệ tử vong(10).Vai trò của thuốc UCB
trong ST dần được xác định qua các công trình
NC lớn trên thế giới. Về sinh lý bệnh, thuốc tác
động lên những yếu tố gây ra ST. Về mục tiêu
điều trị, thuốc giảm các biến cố tim mạch, giảm
tần suất nhập viện và tỷ lệ tử vong. Vì vậy, thuốc
UCB đượckhuyến cáo mức độ I trong điều trị
ST(10). Thuốc UCB còn có thể giảm được TST.
Nhiều công trình NC cho thấy TST là một yếu tố
nguy cơ độc lập cho bệnh tim mạch bao gồm
ST(9,16). Hiện nay, các hướng dẫn quốc tế trong
điều trị ST đã được áp dụng rộng rãi hơn tại Việt
Nam. Tuy nhiên, những NC về sự sử dụng ức
chế beta và kiểm soát TST ở BNSTvẫn chưa được
thực hiện. Do đó, chúng tôi thực hiện NC “Khảo
sát tần số timvà sự sử dụng thuốc ức chế beta
trong điều trị suy tim”.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu Y học

BN không đồng ý tham gia NC.

Phương pháp thu thập số liệu:
Sau khi nhập viện, BN sẽ được hỏi thăm
bệnh sử và khám lâm sàng, tiến hành phỏng vấn
bảng câu thu thập số liệu, theo dõi diễn tiến
trong quá trình điều trị. Khi BS trực tiếp điều trị

cho chỉ định xuất viện, chúng tôi sẽ tiến hành đo
điện tâm đồ để xác định TST.Trước khi tiến hành
đo, chúng tôi giải thích và dặn dò bệnh nhân
nằm nghỉ tại giường trong 5 phút, khi đó chúng
tôi tiến hành đo điện tim. Điện tim 12 chuyển
đạo sau khi đo xong sẽ được tính tần số tim dựa
vào khoảng trung bình 5 đoạn P-P của 5 chuyển
đạo liên tiếp.

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Các số liệu được lấy thông qua qua việc
hỏi bệnh sử, tiền căn, hồ sơ sức khỏe, khám
lâm sàng và hồ sơ bệnh án theo mẫu phiếu thu
thập số liệu (phụ lục 2). Số liệu sẽ được nhập
vào Excel.Xử lý số liệu bằng phần mềm thống
kê R 3.1.0.

KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Từ tháng 1/2014 đến tháng 5/2014, tại bệnh
viện Nhân dân Gia Định có 105 BN đủ tiêu
chuẩn tham gia vào NC.Chúng tôi xin đưa ra các
kết quả phân tích dựa trên nhóm dân số NCcó
đặc điểm ở bảng 1.

BNST nhập khoa Nội Tim mạch Bệnh viện
Nhân Dân Gia Định từ tháng 01/2014 đến tháng
05/2014.

Tần số tim ở bệnh nhân suy tim

TST trung bình là 84,6 ± 17,7 lần/phút. BN có
TST thấp nhất là 56 lần/phút, cao nhất là 147
lần/phút. Biểu đồ 1 minh họa từng nhóm TST
trong NC.Theo đó, chỉ 19% BN đạt TST dưới 70
lần/phút.

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu

NC cắt ngang mô tả

Đối tượng nghiên cứu

BN ST được chẩn đoán và điều trị theo Khoa
Nội tim mạch Bệnh viện Nhân dân Gia Định.

Tiêu chuẩn loại trừ
BN có NMCT trong vòng 3 tháng.
BN có được chẩn đoán suy nút xoang, block
A-V độ III, BN có đặt máy tạo nhịp.

Tim Mạch

Thời gian nằm viện (ngày)
Tuổi
Tỷ lệ Nữ : Nam

Giá trị
9,92 ± 5,19 (3 – 32)

67,9 ± 15,2 (22 – 97)
2:1

Yếu tố nguy cơ tim mạch (%)
Tăng huyết áp
60
Đái tháo đường
29,5

203


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

Thừa cân – béo phì
Rối loạn lipid máu
Hút thuốc lá
Tiền sử tim mạch (%)
ST trước đó
Nhồi máu cơ tim
Đột quỵ
Bệnh van tim hậu thấp

Giá trị
32,4
14,3
6,7
89,5

26,7
4,8
6,7

Nguyên nhân ST (%)
Bệnh mạch vành
59
Không bệnh mạch vành
41
Phân độ NYHA (%)
NYHA II
27,6
NYHA III
67,6
NYHA IV
4,8
Nhóm BN Tăng huyết áp
119,8 ± 15,6 (90 – 160)
Huyết áp tâm thu (mmHg)
Huyết áp tâm trương (mmHg)
70,9 ± 8,2 (60 – 80)
Nhóm BN không tăng huyết áp
114 ± 14,1 (90 – 140)
Huyết áp tâm thu (mmHg)
Huyết áp tâm trương (mmHg)
68 ± 8,3 (50 – 90)
Phân suất tống máu (%)
PSTM ≤40%
34,3
40

25,7
PSTM > 50%
40
Các loại thuốc chính trong điều trị ST (%)
UCMC/UCTT
81,9
UCB

36,2

Lợi tiểu kháng aldosterone
Lợi tiểu

63,8
61,9

Digoxin
Ivabradine
Đặc điểm về nhịp(%)
Rung nhĩ

35,2
11,4

Nhịp xoang

73,3

26,7


NYHA: New York Heart Association ( Hiệp hội tim New
York); UCMC/UCTT: ức chế men chuyển/ức chế thụ thế

Sự sử dụng thuốc ức chế beta trong điều trị
suy tim:
Tại thời điểm xuất viện có 38 BN trong 105
BN được sử dụng UCB, chiếm tỷ lệ 36,2%. Trong
đó, loại UCB được sử dụng nhiều nhất là
bisoprol với 85%, metoprolol chiếm tỷ lệ 10% và
nebivolol là 5%. Liều dùng của từng loại UCB so
với liều chuẩn được trình bày trong bảng
2.Không có BN được dùng đến liều đích của
thuốc UCB như trong các khuyến cáo đưa ra. Ở
nhóm BN được dùng thuốc UCB có đến 73,6%
có TST ≥ 70 lần/phút (biểu đồ 2).
Bảng 2: Liều dùng của các thuốc ức chế beta
Liều dùng của
UCB
Bisoprolol

*

6,25% 12,5%
8,6%

*

*

25%


*

50%

*

100%

54,4% 34,2% 2,8%

Metoprolol
Nebivolol

100%
100%

*: Tỷ lệ phần trăm so với liều chuẩn.

Biểu đồ 2: Tần số tim ở bệnh nhân được sử dụng ức
chế beta

BÀN LUẬN
Tần số tim trong dân số nghiên cứu
TST trung bình trong NC của chúng tôi thấp
hơn tác giả Buyng-su là do TST trong NC này
được đo lúc BN nhập viện(17). BN ST lúc nhập
viện thường trong tình trạng không ổn định, có
thể do đợt cấp của bệnh cảnh ST hoặc do sự
nặng lên của các bệnh đi kèm hoặc sự khởi phát

của một bệnh mới. Vì thế, để đánh giá TST của
BN, chúng tôi chọn thời điểm xuất viện.

Biểu đồ 1:Tần số tim phân bố theo nhóm

204

Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi lại cao hơn
các NC khác. Sự khác biệt này có thể do nhiều

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
nguyên nhân. Thứ nhất, TST ở BN rung nhĩ cao
hơn so với nhịp xoang. Tỷ lệ rung nhĩ trong NC
của chúng tôi là 27%, cao hơn so với NC của tác
giả Irineu (9,6%). NC của Jennifer thì không chọn
BN rung nhĩ vào NC(5). Thứ hai, NC của chúng
tôi thực hiện trên những BN nhập viện còn tác
giả Nobuyuki và Jennifer thực hiện ở BN ngoại
trú. Cuối cùng, có thể kể đến tỷ lệ sử dụng các
thuốc làm giảm nhịp tim ở BN ST. Qua các công
trình NC và các hướng dẫn điều trị cho thấy
UCB có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát
nhịp tim ở BN ST. Dù vậy, trong NC của chúng
tôi tỷ lệ sử dụng thuốc này chỉ đạt được 36,2%.
100% BN được dùng với thuốc này trong NC của
Jennnifer. Các NC của Irineu, Nobuyuki, Oshima
có tỷ lệ sử dụng thuốc lần lượt là 76%, 49%,

79,3%(11,13,15). Hiện tại vẫn chưa có khuyến cáo về
TST tối thiểu cần đạt ở BN ST. Tuy nhiên, trong
hướng dẫn về điều trị ST của ESC cho thấy TST
≥70 lần/phút là ngưỡng mà các bác sĩ cần phải
quan tâm và điều chỉnh. Trong NC của chúng tôi
có đến 81% BN có TST ≥70 lần/phút.

Sự sử dụng thuốc ức chế beta trong điều trị
suy tim
Tỷ lệ thuốc ức chế beta trong nghiên cứu
Tại Việt Nam, chúng tôi chưa tìm được số
liệu để so sánh, tuy nhiên số BN được uống UCB
trong NC vẫn còn thấp, chỉ có 38 BN (36,2%),
thấp hơn so với các NC khác thực hiện tại nước
ngoài.NC ADHERE năm 2005 cho thấy có 47%
BN có sử dụng thuốc UCB lúc nhập viện và tăng
lên 58% lúc xuất viện(1). NC ESC – HF Pilot thực
hiện tại châu Âu ghi nhận có 60% BN được sử
dụng UCB lúc nhập viện và tỷ lệ này là 86,7%
khi xuất viện(8). Tại Nhật, NC HIJC – HF ghi
nhận khi xuất viện chỉ có 34,2% trên 3578 BN ST
được kê toa với UCB(7). Một NC khác trên 199 BN
xuất viện có 158 BN được sử dụng UCB(13). Qua
NC cho thấy BN được sử dụng UCB thường là
BN trẻ tuổi, có PSTM thấp hơn. Những BN này
có nguyên nhân ST là bệnh thiếu máu cơ tim.Với
mục đích đánh giá về hiệu quả của việc tuân thủ
các hướng dẫn điều trị, NC SUGAR thực hiện

Tim Mạch


Nghiên cứu Y học

trên 1297 BN ST đa trung tâm tại Hàn Quốc cho
thấy tỷ lệ thuốc UCB được sử dụng lúc xuất viện
là 69,1%(17). Lý do của việc ít sử dụng UCB trên
lâm sàng chưa được NC một cách có hệ thống.
Tuy nhiên, những nguyên nhân thường gặp có
thể kể đến là tuổi cao, có bệnh đồng mắc, quan
điểm của thầy thuốc lâm sàng. Bên cạnh những
yếu tố trên, cũng phải nhắc đến tác dụng phụ mà
những loại thuốc này có thể gây ra, đặc biệt là
khi sử dụng với liều cao(4,8). Những tác dụng đã
được ghi nhận bao gồm nhịp chậm, mệt, hạ
huyết áp, lạnh đầu chi, hội chứng Raynaud.
Ngoài ra, thuốc còn có một số chống chỉ định
như block nhĩ thất độ II - III, hen ác tính, suy nút
xoang, nhịp chậm <50 lần/phút.Thời gian nằm
viện cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng
đến sự điều trị với UCB. BN vào viện vì một đợt
nặng hơn của ST hoặc trong một bệnh cảnh
khác. Do đó, cần phải có thời gian để BN ổn định
hơn và xem xét việc dùng UCB. NC của chúng
tôi có thời gian nằm viện trung bình là 9,92 ± 5,19
ngày. Thời gian nằm viện ngắn không đủ cho
các bác sĩ theo dõi hiệu quả điều trị cũng như
tăng liều cho thích hợp(2). Vì thế, việc điều trị với
UCB thường được trông đợi BN sau khi BN xuất
viện và tái khám.


Liều lượng của các loại thuốc ức chế beta
Mặc dù qua các thử nghiệm lâm sàng và các
hướng dẫn điều trị đã đề xuất liều đích hoặc liều
cao nhất mà BN có thể chịu đựng được của UCB
nhưng tỷ lệ BN đạt được liều mục tiêu trong
thực hành hằng ngày vẫn còn thấp. Trong NC
của tác giả Maggioni và cs thực hiện trên BN
nằm viện có 37,3% BN được sử dùng liều chuẩn
của carvedilol, đối với bisoprolol và metoprolol
lần lượt là 20,7% và 21,4%(8). NC của
Gheorghiade và cs trên những BN ngoại trú có
20,5% được điều trị với liều chuẩn ở thời điểm
bắt đầu NC và qua sau 24 tháng theo dõi tỷ lệ
này là 30,3%(6). Tác giả Fowler và cs cũng ghi
nhận có sự khác biệt giữa thực tế và các khuyến
cáo về việc sử dụng thuốc UCB. Trong NC này,
55% BN uống ít hơn 25 mg carvedilol mỗi ngày,
41% BN uống 25 mg 2 lần mỗi ngày(3). Kết quả từ

205


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

NC của chúng tôi cho thấy không có loại UCB
nào được sử dụng đến liều đích. Đa phần, các
bác sĩ chỉ dùng đến 12,5% hoặc 25% so với liều
chuẩn Trong thực hành lâm sàng hằng ngày có

nhiều lý do khiến cho việc sử dụng UCB không
đạt đến liều mục tiêu. Đó có thể do các bệnh
đồng mắc như: COPD, hen, bệnh động mạch
ngoại biên hoặc những tác dụng do thuốc mang
lại nhất là sử dụng với liều cao. Các NC về liều
lượng được thực hiện tại các nước phương Tây
nên việc áp dụng cho BN châu Á sẽ khó khăn.
Tại Nhật,theo khuyến cáo của Bộ Y Tế liều cao
nhất của các loại thuốc UCB chỉ bằng một nửa so
với các nước phương Tây. Theo đó, liều cao nhất
của carvedilol là 10 mg uống 2 lần một ngày,
bisoprolol 5 mg một lần trong ngày(13). Tại Việt
Nam, chúng tôi chưa tìm được khuyến cáo về
liều mục tiêu của UCB trong điều trị ST.

Tần số tim ở bệnh nhân được dùng ức chế beta
Trong nhóm được uống UCB, tỷ lệ BN có
nhịp tim ≥ 70 lần/phút vẫn chiếm số lượng lớn.
Trong NC của chúng tôi 28 BN (73,6%) có TST
≥70 lần/phút. Điều này có thể giải thích bởi liều
dùng UCB còn thấp. Tuy nhiên trong NC của
Stuart và cs trên 172 BN nhịp xoang, PSTM ≤
35% và được theo dõi trong quá trình tăng liều
UCB. Kết quả có 84,3% BN được dùng UCB
trong đó 65% dung nạp được hơn 50% liều đích
nhưng vẫn có đến 41,9% BN có TST ≥ 70
lần/phút(14). Tương tự như vậy, NC của Jennifer
và cs cũng có đến 63,9% BN ST có nhịp tim ≥70
lần/phút mặc dù được uống UCB ở liều từ 50%
liều đích trở lên(5). Tác giả Moreno và cs quan sát

cho thấy có 36,5% BN được điều trị đạt liều đích
của UCB nhưng nhịp tim vẫn trên 70 lần/phút(11).
Những NC trên cho thấy việc sử dụng thuốc
UCB có thể không kiểm soát được TST như
mong muốn. Từ đó, vai trò của ivabradine được
bổ sung để có thể kiểm soát TST một cách tốt
hơn. Trong khuyến cáo của ESC, có thể sử dụng
ivabradine với những BN nhịp xoang PSTM ≤
35%, TST ≥ 70 lần/phút, NYHA II – IV mặc dù đã
được điều trị với UCB đạt liều đích (hoặc liều

206

cao nhất mà BN có thể chịu đựng được), UCMC
(hoặc UCTT) và lợi tiểu kháng aldosterone.

KẾT LUẬN
Qua NC 105 trường hợp BN ST tại Khoa Tim
mạch BV Nhân Dân Gia Định, chúng tôi nhận
thấy BN nhịp xoang chiếm tỷ lệ 73%. TST trung
bình ở BN ST là 84,6 ± 17,7 lần/phút. Tỷ lệ phần
trăm BN có TST <60, 61 – 70, 71 – 89, ≥90 lần/phút
lần lượt là 4,8%, 14,3%, 50,5%, 30,5%.BN được sử
dụng thuốc ức chế beta chiếm tỷ lệ 36,2%.Trong
NC không có BN được sử dụng đến liều đích
của thuốc ức chế beta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Adams KF, Fonarow GC, Emerman CL, LeJemtel TH, Costanzo
MR, Abraham WT, et al. (2005), "Characteristics and outcomes of
patients hospitalized for heart failure in the United States:
rationale, design, and preliminary observations from the first
100,000 cases in the Acute Decompensated Heart Failure
National Registry (ADHERE)", Am Heart J, 149(2), 209-216.
2. Arnold SV, Spertus JA, Masoudi FA, Daugherty SL, Maddox
TM, Li Y, et al (2013), "Beyond medication prescription as
performance measures: optimal secondary prevention
medication dosing after acute myocardial infarction", J Am Coll
Cardiol, 62(19), 1791-1801.
3. Fowler MB, Lottes SR, Nelson JJ, Lukas MA, Gilbert EM,
Greenberg B, et al (2007), "Beta-blocker dosing in communitybased treatment of heart failure", Am Heart J, 153(6), 1029-1036.
4. Franciosa JA (2004), "The potential role of community-based
registries to complement the limited applicability of clinical trial
results to the community setting: heart failure as an example",
Am J Manag Care, 10(7 Pt 2), 487-492.
5. Franke J, Wolter JS, Meme L, Keppler J, Tschierschke R, Katus
HA, et al (2013), "Optimization of pharmacotherapy in chronic
heart failure: is heart rate adequately addressed?", Clin Res
Cardiol, 102(1), 23-31.
6. Gheorghiade M, Albert NM, Curtis AB, Thomas Heywood J,
McBride ML, Inge PJ, et al (2012), "Medication dosing in
outpatients with heart failure after implementation of a practicebased performance improvement intervention: findings from
IMPROVE HF", Congest Heart Fail, 18(1), 9-17.
7. Kawashiro N, Kasanuki H, Ogawa H, Matsuda N, Hagiwara N
(2008), "Clinical characteristics and outcome of hospitalized
patients with congestive heart failure: results of the HIJC-HF
registry", Circ J, 72(12), 2015-2020.
8. Maggioni AP, Dahlstrom U, Filippatos G, Chioncel O, Leiro MC,

Drozdz J, et al (2010), "EURObservational Research Programme:
the Heart Failure Pilot Survey (ESC-HF Pilot)", Eur J Heart Fail,
12(10), 1076-1084.
9. McAlister FA, Wiebe N, Ezekowitz JA, Leung AA, Armstrong
PW (2009), "Meta-analysis: beta-blocker dose, heart rate
reduction, and death in patients with heart failure", Ann Intern
Med, 150(11), 784-794.
10. McMurray JJ, Adamopoulos S, Anker SD, Auricchio A, Bohm
M, Dickstein K, et al (2012), "ESC Guidelines for the diagnosis

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

11.

12.

13.

14.

and treatment of acute and chronic heart failure 2012: The Task
Force for the Diagnosis and Treatment of Acute and Chronic
Heart Failure 2012 of the European Society of Cardiology.
Developed in collaboration with the Heart Failure Association
(HFA) of the ESC", Eur Heart J, 33(14), 1787-1847.
Moreno IB, Carlo CH, Pereira-Barretto AC (2013), "Optimized
treatment and heart rate reduction in chronic heart failure.",

Arquivos Brasileiros de Cardiologia, 101, 442-448.
National Institute of Health National Heart, Lung, and Blood
Institute (2012), NHLBI Fact Book Fiscal Year 2012, U.S
Department of Health and Human Services, National Institute of
Health, National Heart, Lung, and Blood Institute, 33 - 52.
Oshima K, Kohsaka S, Koide K, Nagatomo Y, Nagai T, Endo Y,
et al (2013), "Discharge heart rate and future events among
Japanese patients with acute heart failure receiving beta-blocker
therapy", WJCD, 3(1A), 159-167.
Russell S, Oliver M, Rose H, Davies J, Llewellyn-Griffiths H,
Raybould A, et al (2011), "93 Optimal medical therapy in heart
failure: is there space for additional heart rate control?", Heart,
97(Suppl 1), A54.

Tim Mạch

Nghiên cứu Y học

15. Shiba N, Nochioka K, Miura M, Kohno H, Shimokawa H (2011),
"Trend of westernization of etiology and clinical characteristics
of heart failure patients in Japan--first report from the CHART-2
study", Circ J, 75(4), 823-833.
16. Swedberg K, Komajda Ml, Böhm M, Borer JS, Ford I, DubostBrama A, et al (2010), "Ivabradine and outcomes in chronic heart
failure (SHIFT): a randomised placebo-controlled study", The
Lancet, 376(9744), 875-885.
17. Yoo B, Oh J, Hong B, Shin D, Bae J, Yang D, et al (2014), "SUrvey
of Guideline Adherence for Treatment of Systolic Heart Failure
in Real World (SUGAR): A Multi-Center, Retrospective,
Observational Study", PLoS ONE, 9(1), e86596.


Ngày nhận bài báo:

12/11/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/11/2015

Ngày bài báo được đăng:

15/02/2016

207



×