Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tìm hiểu khả năng xác định từ loại cơ bản của học sinh lớp 4 qua các bài tập đọc (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.34 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

======

LƯƠNG THỊ TUYỀN

TÌM HIỂU KHẢ NĂNG XÁC ĐỊNH
TỪ LOẠI CƠ BẢN CỦA HỌC SINH LỚP 4
QUA CÁC BÀI TẬP ĐỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt

Người hướng dẫn khoa học

ThS. ĐỖ THỊ HIÊN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo Trường ĐHSP Hà Nội
2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Tiểu học đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong
suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – Th.S. Đỗ Thị
Hiên, người đã hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tập thể thầy cô giáo và các
em học sinh của trường Tiểu học Bắc Cường (thành phố Lào Cai – tỉnh Lào
Cai), trường Tiểu học Tự Nhiên (Thường Tín – Hà Nội) đã tạo điều kiện cho
em khảo sát thực tế. Cảm ơn gia đình, bạn bè, những người luôn bên em,


động viên, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Lương Thị Tuyền


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
quả và số liệu trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chưa được công
bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Lương Thị Tuyền


KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ĐHQG

: Đại học Quốc Gia

ĐT

: động từ


HSTH

: học sinh tiểu học

NXB

: nhà xuất bản

SGK

: sách giáo khoa

tr

: trang


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu........................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiêm cứu .......................................... 5
6. Cấu trúc của khóa luận................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................. 7
1.1. Cơ sở lí luận............................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm về từ loại ................................................................................ 7

1.1.2. Vấn đề phân định từ loại.......................................................................... 7
1.1.2.1.

Mục đích phân định từ loại ......................................................... 7

1.1.2.2.

Tiêu chí phân định từ loại ........................................................... 8

1.1.3. Hệ thống từ loại tiếng Việt ...................................................................... 9
1.1.3.1.

Danh từ........................................................................................ 9

1.1.3.2.

Động từ...................................................................................... 14

1.1.3.3.

Tính từ ....................................................................................... 17

1.1.4. Sự chuyển hóa từ loại ............................................................................ 19
1.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................... 21
1.2.1. Nội dung chương trình từ loại trong SGK tiếng Việt ở Tiểu học ........ 21
1.2.1.1.

Nội dung chương trình từ loại cơ bản ở Tiểu học..................... 21

1.2.1.2.


Phân bố nội dung chương trình từ loại trong SGK tiếng Việt .. 24

1.2.1.3.

Nhận xét .................................................................................... 27


1.2.2. Việc cần thiết dạy học từ loại cơ bản cho HSTH .................................. 28
CHƯƠNG 2: MIÊU TẢ VÀ PHÂN LOẠI KHẢ NĂNG XÁC ĐỊNH TỪ
LOẠI CƠ BẢN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC .............................................. 29
2.1. Nhận diện phân định từ trong câu ......................................................... 30
2.1.1. Dựa vào cấu tạo từ ................................................................................. 30
2.1.2. Dựa vào nghĩa của từ ............................................................................. 31
2.1.3. Dựa vào ngữ điệu, cách ngắt nghỉ nhịp trong câu và trọng âm phân ranh
giới từ .............................................................................................................. 31
2.2. Nhận biết và phân loại từ loại cơ bản .................................................... 33
2.2.1. Khả năng nhận biết danh từ .................................................................. 33
2.1.2. Khả năng nhận biết về động từ .............................................................. 40
2.1.3. Khả năng nhận biết về tính từ................................................................ 45
2.3. Bài tập nhận biết hiện tượng chuyển loại giữa các từ loại cơ bản......... 53
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 60


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1



1.1. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp
phần làm nên nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức và thống nhất của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, là của cải vô giá và lâu đời được cha ông ta sáng tạo, giữ gìn và
bảo vệ trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước. Vì vậy tiếng Việt
có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con
người Việt Nam.
Ngày nay, trong xu thế chung của thế giới, khi sự phát triển như vũ
bão của khoa học công nghệ đã tác động không hề nhỏ đến đời sống kinh tế
xã hội của đất nước ta. Trước những thay đổi to lớn của đất nước, trách nhiệm
của mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ tri thức là phải luôn luôn có
ý thức giữ gìn và bảo vệ sự giàu có và trong sáng của ngôn ngữ dân tộc, để
tiếng Việt mãi mãi xứng đáng với vai trò là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của cộng đồng người Việt Nam, là công cụ bảo tồn và phát triển nền văn
hóa của dân tộc.
Để làm được điều đó, trước hết phải đổi mới nội dung và phương
pháp dạy và học tiếng Việt trong nhà trường ở tất cả các bậc học đặc biệt là
bậc học Tiểu học.
1.2. Môn Tiếng Việt là một môn học vô cùng quan trọng trong hệ thống
giáo dục của nước ta từ trước đến nay. Ở tiểu học, từ năm 2001 Bộ Giáo dục
– Đào tạo ban hành chương trình Tiểu học mới trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; chương trình môn tiếng Việt được biên soạn mới nhấn
mạnh chủ trương: “Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường học
tập của lứa tuổi”. Đó chính là coi trọng tính thực hành, thực hành các kỹ

2



năng sử dụng tiếng Việt trong những môi trường giao tiếp cụ thể. Từ đó giúp
các em phát triển tư duy, cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản về tự
nhiên, xã hội, con người đồng thời bồi dưỡng tâm hồn, tình yêu quê hương
đất nước cho các em.
Trong chương trình tiếng Việt lớp 4 có các phân môn: Tập đọc, Kể
chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Luyện từ và câu.Trong đó phân môn Luyện từ
và câu giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho học sinh các kiến thức
về từ ngữ và ngữ pháp. Dạy học về từ loại là một hoạt động không thể thiếu
trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học nói riêng, trong chương trình Tiếng
Việt phổ thông nói chung.
1.3. Xác định từ loại chính xác cho các từ trong văn bản tiếng Việt là
vấn đề rất quan trọng. Việc xác định này sẽ hỗ trợ cho việc phân tích cú pháp
các văn bản góp phần giải quyết tính đa nghĩa của từ và trợ giúp các hệ thống
rút trích thông tin đến ngữ nghĩa. Hệ thống bài tập về từ loại có số lượng
không nhiều song vấn đề từ loại tiếng Việt được đưa ra vào bài giảng dạy
ngay từ cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và lên đại học. Các
bài tập trong sách giáo khoa là cơ bản, đa số học sinh đều làm được do đó khó
phân loại học sinh khá giỏi. Trong khi đó để dạy học đạt được kết quả cao
tránh đưa ra các bài tập gây nhàm chán hoặc quá khó đối với các em. Qua
quan sát thực tế xác định từ loại cơ bản của học sinh, chúng tôi còn nhận thấy
còn nhiều những vấn đề tồn tại làm cho hiệu quả học từ loại tiếng Việt chưa
cao. Là một giáo viên tiểu học tương lai, trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt
trong nhà trường chúng tôi muốn tìm hiểu thực tế về khả năng xác định từ loại
của học sinh tiểu học để từ đó đưa ra các biện pháp giúp học sinh học và biết
cách xác định chính xác nhất các từ loại đồng thời chúng tôi rút được kinh
nghiệm để có phương pháp dạy các bài về từ loại được hiệu quả tốt. Vì vậy

3



chúng tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề nghiên cứu “Tìm hiểu khả năng xác định
từ loại cơ bản của học sinh lớp 4 qua các bài tập đọc”.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề từ loại là một trong những vấn đề cơ bản của ngữ pháp học
truyền thống với nhiều khía cạnh, góc độ nhìn nhận khác nhau.
Học thuyết về từ loại ra đời từ thời cổ Hy Lạp gắn với tên tuổi của nhà
triết học Arixtôt. Thuở ấy từ loại được đặt trong mối quan hệ với lôgic, song
Arixtôt đã không gắn các từ loại với các phạm trù mà ông đề xuất. Ông chỉ
chú ý đến tính chất của vị ngữ của động từ và cho rằng động từ thể hiện vị thế
của phán đoán. Danh từ thì được coi là tên gọi của các sự vật.
Các nhà ngữ pháp học của học phái Alêchxăngđri định nghĩa danh từ
và động từ không phải theo các thành phần của phán đoán mà theo những
khái niệm do chúng biểu hiện: “Danh từ là từ loại biến cách chỉ vật thể, đồ
đạc, được phát ngôn cả cái chung và cái riêng”. “Động từ là từ loại không
biến cách và thể hiện các hoạt động chủ động và bị động”.
Thế kỉ XVI – XVII các nhà ngữ pháp duy lý lại đặt trở lại mối quan hệ
giữa từ loại và các phạm trù của lôgic, cụ thể là mối quan hệ giữa động từ với
vị thế của phán đoán. Danh từ và tính từ được giải thích như những từ chỉ sự
vật không xác định nào đó qua một khái niệm đã xác định mà ngẫu nhiên đối
với bản chất sự vật.
Trong nhiều năm, mối quan hệ giữa từ loại và các phạm trù của lôgic
chưa được giải quyết một cách thỏa đáng. Phải đến cuối thế kỉ XIX vấn đề từ
loại tiếng Việt mới được bàn lại, theo đó vấn đề từ loại được xem xét:
Năm 1986, tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Từ
loại) quan tâm đến các vấn đề:
1) Bản chất và các đặc trưng của từ loại, tiêu chuẩn phân định từ loại.
2) Hệ thống các từ loại tiếng Việt.

4



3) Từ loại là các phạm trù của tư duy.
Năm 1999, tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại,
NXB Giáo dục nghiên cứu các vấn đề: khái niệm về từ loại, đối tượng, tiêu
chí, mục đích phân định từ loại. Đặc biệt tác giả đi sâu tìm hiểu hệ thống từ
loại cơ bản, ranh giới giữa từ loại cơ bản với từ loại không cơ bản.
Đến năm 2004, trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, khi
nghiên cứu về từ loại tiếng Việt Diệp Quang Ban đã đưa ra ba tiêu chuẩn để
phân định từ loại tiếng Việt: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ cú
pháp. Ngoài ra khi bàn về vấn đề các lớp từ tiếng Việt, tác giả phân thành hai
lớp lớn: thực từ và hư từ. Trong đó tác giả tập trung nghiên cứu ba từ loại
thuộc lớp thực từ: danh từ, động từ, tính từ.
Và gần với vấn đề chúng tôi nghiên cứu là cuốn Ngữ pháp tiếng Việt,
NXB Giáo dục, 2006, tác giả Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung đã dành
ra một chương nghiên cứu về từ loại tiếng Việt với trọng tâm là tiêu chuẩn
phân định từ loại và hệ thống từ loại tiếng Việt. Theo tác giả, hệ thống từ loại
tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ.
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ).
Đồng thời tác giả có sự lý giải cho các sắp xếp trên.
Những cuốn sách trên chỉ viết trên cơ sở lý luận mà không được thực
nghiệm ở trường tiểu học. Nhận thức được tầm quan trọng của việc gắn lý
thuyết với thực tiễn, gắn việc tiếp thu tri thức và thực hành tri thức, chúng tôi
mạnh dạn tiến hành điều tra thực nghiệm về khả năng xác định từ loại cơ bản
của học sinh tiểu học. Từ đó, có cơ sở đề ra biện pháp tổ chức dạy học phù
hợp nhằm giúp học sinh xác định từ loại đạt hiệu quả nhất.

5



3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực tế khả năng xác định từ loại cơ bản của học sinh. Trên
cơ sở đó nhận định đúng thực trạng đối tượng học sinh thuộc các lớp khác
nhau.
- Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh tiểu học phân định từ loại
tiếng Việt. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt nói
chung và dạy học từ loại (phân môn Luyện từ và câu) nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát cơ sở lí thuyết về từ loại cơ bản và dạy học từ loại
trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học.
- Trên cơ sở lý luận đã có, tiến hành tìm hiểu thực trạng khả năng phân
định từ loại tiếng Việt ở hai lớp 4 với đối tượng học sinh như nhau.
- Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh tiểu học phân định chính xác
từ loại tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát.
+ Đọc và tra cứu tài liệu.
+ Điều tra thống kê tư liệu thực.
+ Mô tả, phân loại và so sánh tư liệu.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiêm cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi chỉ nghiên cứu khả năng phân định
từ loại của học sinh lớp 4 của hai trường tiểu học Bắc Cường (thành phố Lào

6



Cai, tỉnh Lào Cai) và trường tiểu học Tự Nhiên (huyện Thường Tín thành phố
Hà Nội).
5.2. Đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu khả năng xác định từ loại cơ bản
của học sinh tiểu học lớp 4.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung
khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Miêu tả và phân loại khả năng xác định từ loại cơ bản của
học sinh tiểu học

7


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1.

Cơ sở lí luận

1.1.1. Khái niệm về từ loại
Theo tác giả Lê Biên: “Từ loại là khái niệm chỉ sự phân loại từ nhằm
mục đích ngữ pháp, theo bản chất ngữ pháp của từ”. (dẫn theo 6, tr.8).
Theo tác giả Đinh Văn Đức, “Từ loại là những lớp từ có cùng bản chất
ngữ pháp được phân chia theo ý nghĩa khái quát, theo khả năng kết hợp với
các từ ngữ khác và thực hiện những chức năng ngữ pháp nhất định ở trong
câu. Hệ thống từ loại có tính chất là cơ sở của cơ cấu ngữ pháp trong ngôn
ngữ nhất định”. (dẫn theo 10, tr.23).
Tác giả Lê Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hưởng đưa ra khái niệm về các từ

loại như sau: “Từ loại là các loại từ phân chia về mặt ngữ pháp. Nói cách
khác, phân loại các từ về mặt ngữ pháp, ta được các từ loại”. (dẫn theo 12, tr.
53).
Còn theo Diệp Quang Ban và Hoàng Thung: “Từ loại là kết quả nghiên
cứu vốn từ trên bình diện ngữ pháp. Đó là những lớp từ có chung bản chất
ngữ pháp, được biểu hiện trong các đặc trưng thống nhất làm tiêu chuẩn tập
hợp và quy loại”. (dẫn theo 3, tr.74)
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt – 2008 (Nguyễn Văn Xô) định nghĩa:
“Từ loại là phạm trù ngữ pháp bao gồm các từ có chung đặc điểm ngữ pháp
và ý nghĩa khái quát như: danh từ, động từ, tính từ…”. (dẫn theo 13, tr.1327)
1.1.2. Vấn đề phân định từ loại
1.1.2.1.Mục đích phân định từ loại
Kết quả của quá trình phân định từ loại là thiết lập được một danh sách
các từ loại của một ngôn ngữ cụ thể. Đương nhiên việc đó là cần thiết, nhưng
mục đích của việc khảo sát từ loại không chỉ đừng lại ở đó.

8


Mục đích của việc phân định từ loại là nhằm phát hiện bản chất ngữ
pháp, tính quy tắc trong hoạt động ngữ pháp và sự hành chức của các lớp từ
loại trong quá trình thực hiện những chức năng cơ bản của ngôn ngữ: làm
công cụ để giao tiếp, để tư duy trừu tượng. Từ đó có thể sử dụng các lớp từ
cho đúng quy tắc, hợp với phong cách và chuẩn mực của tiếng Việt.
1.1.2.2.Tiêu chí phân định từ loại
Trong tiếng Việt, người ta dựa vào ba tiêu chí sau đây để phân chia từ
loại:
a. Ý nghĩa ngữ pháp khái quát của từ
Ý nghĩa khái quát là ý nghĩa phạm trù chung có tính chất khái quát hóa
cao, nó là kết quả của quá trình trừu tượng hóa nghĩa của hàng loạt cái cụ thể:

danh từ chỉ sự vật; động từ chỉ hoạt động, trạng thái; còn tính từ chỉ đặc điểm,
tính chất…
b. Khả năng kết hợp của từ
Khả năng kết hợp của một từ là năng lực tồn tại của từ đó xuất hiện
trong một tổ hợp từ có nghĩa với tư cách một yếu tố thường trực trong tổ hợp
từ đó.
- Danh từ có khả năng kết hợp với: tất cả, những, các, mọi, này, kia,
đó…
Ví dụ: Mọi quyển sách đều hay và ý nghĩa.
- Động từ có khả năng kết hợp với: hãy, đừng, chớ…
Ví dụ: Đừng ngủ nữa, hãy tập thể dục đi.
- Tính từ có khả năng kết hợp với: hơi, rất, lắm, quá…
Ví dụ: rất xinh, đỏ quá, hơi hồng...
c. Khả năng đảm nhận chức vụ cú pháp

9


(Khả năng đảm nhận các chức vụ ngữ pháp, chức năng của các thành
phần câu, chức năng nối tiếp các thành phần câu, chức năng tình thái hóa của
câu).
Khả năng giữ chức vụ cú pháp trong câu thường được sử dụng như một
tiêu chuẩn hỗ trợ. Các từ thuộc một lớp nào đó có thể đảm đương không phải
một mà vài ba chức vụ cú pháp ở trong câu. Trong số các chức vụ cú pháp đó
thường có một hoặc vài chức vụ nổi lên rõ hơn có tính chất tiêu biểu cho lớp
từ đó.
- Danh từ thường làm chủ ngữ. Đôi khi làm vị ngữ, danh từ thường phải
kết hợp với từ “là”.
Ví dụ: Mây trôi bồng bềnh.
Lam là lớp trưởng lớp tôi.

- Động từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ, động từ mất khả
năng kết hợp với đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, cứ, hãy, đừng, chớ…
- Tính từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ tính từ mất khả
năng kết hợp với đã, đang, sẽ, cũng, vẫn, cứ, rất, lắm, quá…
1.1.3. Hệ thống từ loại cơ bản tiếng Việt
Trong phạm vi khóa luận của chúng tôi chỉ đi nghiên cứu ba từ loại cơ
bản đó là Danh từ, Động từ và Tính từ.
1.1.3.1. Danh từ
a. Đặc điểm ngữ pháp
- Về ý nghĩa khái quát: Danh từ là những thực từ có ý nghĩa khái quát chỉ
sự vật (bao gồm các thực thể như người, động vật, cây cối, các vật thể tự
nhiên, các hiện tượng xã hội và các khái niệm trừu tượng thuộc phạm trù tinh
thần).
Ví dụ: con mèo, công nhân, tình yêu, hạnh phúc, chim, bàn, ghế, hoa…

10


- Về khả năng kết hợp: Danh từ có khả năng kết hợp với các số từ chỉ số,
chỉ lượng ở trước (những, các…) và các từ chỉ định ở sau (này, kia, ấy, nọ,
đó…) để tạo nên một cụm từ chính phụ mà nó là trung tâm. Ngoài ra có thể
nhận diện danh từ căn cứ vào khả năng kết hợp với từ nghi vấn nào ở phía sau
để tạo thành câu hỏi. Những từ không có khả năng đó không phải là danh từ.
- Về chức vụ ngữ pháp: Danh từ thường làm chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong
câu. Ngoài ra, danh từ cũng có thể làm vị ngữ trong câu, không cần phụ từ.
Khi làm vị ngữ thường cần có từ là đứng trước danh từ.
Ví dụ: Tôi là giáo viên.
b. Các tiểu loại danh từ
Danh từ là một lớp từ lớn và đa dạng về ý nghĩa, về khả năng kết hợp…
nên được phân thành nhiều lớp nhỏ theo những tiêu chuẩn khác nhau, cụ thể:

- Danh từ chung và danh từ riêng.
- Danh từ tổng hợp và danh từ không tổng hợp.
- Danh từ vật thể, danh từ chất thể, danh từ trừu tượng, danh từ tập thể,
danh từ chỉ hiện tương thời tiết.
- Danh từ đơn vị.
- Danh từ đếm được và danh từ không đếm được.
Chúng tôi chỉ đưa ra từng loại với các tiểu loại một cách ngắn gọn đủ
làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu của mình.
Danh từ tiếng Việt được chia thành các tiểu loại sau:
 Danh từ riêng
Danh từ riêng là những từ dùng làm tên gọi cho một người, một sự vật,
một hiện tượng tự nhiên (một vùng đất, dòng sông, ngọn núi…), riêng biệt để
phân biệt sự vật này với sự vật khác. Nó là tên gọi riêng cho từng người, từng
sự vật cụ thể, từng địa danh.
Danh từ chỉ tên người: Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi…

11


Danh từ chỉ sự vật: chó đốm, mèo mướp …
Danh từ chỉ địa danh: Tây Sơn, Trà Vinh …
Về nghĩa, danh từ riêng không mang nghĩa, chúng là tên gọi của từng
người, tên miền đất, tên sách báo… Về nguyên tắc, đây là mối quan hệ một –
một giữa tên gọi và vật được gọi tên do đó yêu cầu của việc đặt tên riêng là
phân biệt được từng vật cụ thể. Trong việc phân tích nghĩa của câu, danh từ
riêng thuộc về kiểu nghĩa kinh nghiệm.
Danh từ riêng có loại thuần Việt và Hán Việt, có loại phiên âm từ tiếng
nước ngoài.
Danh từ riêng kết hợp hạn chế với các từ chỉ số lượng và các từ chỉ
định. Khả năng kết hợp với các từ chỉ lượng nói chung chỉ xảy ra khi có một

số danh từ riêng trùng nhau, hoặc khi danh từ riêng được dùng theo phép
chuyển nghĩa để chỉ những cái tương tự, hoặc khi gặp nhiều danh từ riêng gộp
lại thành khối chung.
Danh từ riêng tên người thường đi sau danh từ chỉ chức vụ theo hệ
đồng vị tố hoặc đi sau loại từ, hoặc đi sau cả loại từ và danh từ chỉ chức vụ:
Ví dụ: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng…
 Danh từ chung
Danh từ chung là những danh từ gọi tên chung tất cả các cá thể trong
cùng một lớp sự vật. Danh từ chung chiếm số lượng lớn, có thể phân tách
thành các tiểu loại như sau:
o Danh từ tổng hợp
Danh từ tổng hợp là những danh từ chỉ gộp những sự vật cùng loại. Về
mặt cấu tạo, chúng là những từ ghép đẳng lập hoặc từ láy. Ví dụ: bàn ghế,
quần áo, giày dép, chăn màn, máy móc, cây cối, binh lính, bạn bè… Ở các
danh từ tổng hợp được cấu tạo theo kiểu đẳng lập, có tiếng, có thể gần nghĩa
hoặc cùng nghĩa nhưng đều tạo nên một nghĩa chung, chỉ gộp tất cả các sự

12


vật, không tách biệt các cá thể sự vật. Còn ở các từ cấu tạo theo kiểu từ láy thì
chỉ có một tiếng có nghĩa, một tiếng không có nghĩa. Chúng kết hợp với nhau
để tạo nên ý nghĩa tổng hợp.
Khả năng kết hợp của danh từ tổng hợp như sau:
- Không kết hợp trực tiếp với các số từ (chính xác) (không nói một bàn
ghế, hai máy móc, ba quần áo…)
- Không kết hợp với các từ chỉ đơn vị cá thể mà chỉ kết hợp với các từ
chỉ đơn vị tập thể ( bộ, đoàn, tốp, lũ, bọn…) và các phụ từ chỉ tổng thể (toàn
thể, tât cả, cả, hết thảy…): tất cả bàn ghế, đoàn binh lính…(không nói một
bàn ghế, một binh lính…).

o Danh từ không tổng hợp
Là các danh từ chỉ các vật thể rồi theo cá thể. Ví dụ: bàn, ghế, xe, đèn…
Danh từ không tổng hợp được chia thành các tiểu loại sau:
- Danh từ chỉ đơn vị: Là danh từ chỉ các đơn vị sự vật. Chúng kết hợp
với các số từ. Ví dụ: bốn quyển, hai chiếc … Có thể phân biệt các loại danh từ
chỉ đơn vị như sau:
+ Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên: Là các danh từ chỉ rõ loại sự vật nên còn
gọi là danh từ chỉ loại hay loại từ: con, cái, chiếc, quyển, tờ, tấm, bức, cục,
hòn, cơn, cây, ngôi, căn… Các danh từ chỉ đơn vị tự nhiên mang màu sắc hình
tượng và biểu cảm. Vì vậy, có nhiều danh từ chỉ đơn vị tự nhiên được dùng để
biểu hiện cùng sự vật, tùy thuộc vào cách nhìn nhận sự vật trong từng tình
huống.
Ví dụ: Căn nhà / ngôi nhà; cái bút / chiếc bút; cục đá / hòn đá; quả tim
/ trái tim…
+ Danh từ chỉ đơn vị đo lường: các danh từ này chỉ đơn vị quy ước để
đo đếm các loại vật liệu. Có những danh từ chỉ đơn vị quy ước chính xác

13


(mét, cân, thước, lít, mẫu, sào...) và có những danh từ chỉ đơn vị quy ước
không chính xác (nắm, vốc, gánh, mớ…).
+ Danh từ chỉ các đơn vị tập thể: dùng đếm tính đếm các sự vật tồn tại
dưới dạng tập thể; do đó chúng thường kết hợp với các danh từ tổng hợp. Đó
là các từ như: cặp, bộ, đôi…
+ Danh từ chỉ đơn vị thời gian: giây, giờ, tháng, năm, buổi, thế kỉ, thập

14



kỉ…
+ Danh từ chỉ đơn vị sự việc như: trận (đánh), hiệp (đấu), lượt (chơi)…
- Danh từ chỉ đơn vị hành chính nghề nghiệp như: thôn, xóm, xã,
phường, huyện, tỉnh, nước, tiểu đội, đại đội …
- Danh từ chỉ vật thể: các danh từ này chiếm một số lượng lớn. Về mặt ý
nghĩa, chúng có thể chỉ người, chỉ thực vật, chỉ động vật, chỉ đồ vật. Về khả
năng kết hợp, chúng thường kết hợp với số từ thông qua danh từ chỉ đơn vị
tự nhiên.
Ví dụ: ba chiếc bút, vài căn nhà, dăm cây chanh, những con đường…
- Danh từ chỉ chất liệu: Là danh từ chỉ các chất như sắt, thép, đồng, bạc,
vàng, dầu, mỡ… Chúng thường kết hợp với số từ thông qua danh từ chỉ đơn
vị đo lường. Đó là các từ như: ba tấn sắt, hai lít nước, một cân đường…
Trong thực tế sử dụng, cùng một danh từ có thể được dùng khi thì trong
tư cách danh từ chỉ vật thể (một giọt nước), khi thì được dùng trong tư cách
danh từ chỉ chất liệu (thêm một lít nước); ở mỗi trường hợp chúng lại được
dùng với một danh từ chỉ đơn vị thích hợp.
- Danh từ có ý nghĩa trừu tượng: các danh từ này không chỉ các vật thể,
các chất liệu hay các đơn vị sự vật cụ thể mà biểu hiện các khái niệm trừu
tượng như: đạo đức, tư tưởng, lí luận, trí tuệ, thái độ, quan hệ, hành chính, sự
nghiệp… hay các danh từ chỉ các vật thể tưởng tượng như: thần, thánh, ma,
quỷ, tiên, bụt…

15


Thông thường, chúng ít kết hợp trực tiếp với các số từ (những tính xấu,
ba khả năng, hai quan hệ) nhưng cũng có trường hợp dùng từ chỉ đơn vị (một
tư tưởng, năm mối quan hệ, một nền giáo dục…).
c. Danh từ trong chương trình tiểu học
Danh từ được chia làm hai nhóm: danh từ chung và danh từ riêng. Danh

từ chung được các nhà biên soạn sách chia làm 5 nhóm để phù hợp với tư duy
nhận thức của học sinh tiểu học bao gồm: danh từ chỉ người, danh từ chỉ vật,
danh từ chỉ hiện tượng, danh từ chỉ khái niệm, danh từ chỉ đơn vị.
1.1.3.2.

Động từ

a. Đặc điểm ngữ pháp
- Về ý nghĩa ngữ pháp: Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về
quá trình hoạt động hoặc trạng thái.
- Về khả năng kết hợp, động từ thường có các phụ từ đi kèm để biểu thị
các ý nghĩa quan hệ có tính tình thái giữa các quá trình với cách thức và với
các đặc trưng vận động của quá trình không gian, trong thời gian và trong
hiện thực. Động từ còn kết hợp với các thực từ (danh từ) nhằm phản ánh các
quan hệ trong nội dung vận động trong quá trình. Các khả năng kết hợp trên
đây làm thành những tiêu chuẩn phân loại các lớp con trong nội bộ động từ.
Khả năng kết hợp với “hãy, chớ, đừng” có tác dụng quy loại động từ vì tính
từ và danh từ không có khả năng này.
- Về chức vụ ngữ pháp, cũng giống như danh từ động từ có khả năng
đảm nhiệm nhiều chứa vụ cú pháp khác nhau nhưng chức năng phổ biến quan
trọng nhất là làm vị ngữ. Trong cấu tạo câu, nó có vị trí trực tiếp đứng sau chủ
ngữ. Do đó chức năng vị ngữ của động từ làm thành một tiêu chuẩn đối lập
động từ và danh từ trong tiếng Việt. Khi làm chủ ngữ, động từ mất khả năng
kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang, hãy, đừng, chớ, cũng, vẫn…
b. Các tiểu loại động từ


Động từ được phân chia thành hai lớp con: lớp động từ không độc lập
và lớp động từ độc lập.
 Động từ không độc lập

Động từ không độc lập là những động từ về ý nghĩa, biểu thị quá trình
chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn; chúng chỉ tình thái vận động ở lúc bắt đầu hay
kết thúc quá trình; hoặc ý nghĩa quá trình không trực tiếp gắn với hành động
hay trạng thái cụ thể (có thể nói là “trống” nghĩa).
Về khả năng kết hợp và đảm nhiệm chức năng cú pháp do đặc điểm ý
nghĩa, lớp động từ này khi làm thành phần câu, thường đòi hỏi kết hợp với
thực từ hay tổ hợp thực từ để khỏi “trống” nghĩa.
Lớp động từ không độc lập thường bao gồm một số nhóm sau đây:
o Nhóm động từ tnh thái
Động từ tình thái thường biểu thị các ý nghĩa tnh thái (có tính chất quá
trình) khác nhau:
- Động từ chỉ sự cần thiết: cần, nên, phải, cần phải…
- Chỉ ý nghĩa tình thái về khả năng: có thể, chưa thể, không thể…
- Chỉ ý nghĩa tình thái về ý chí: toan, nỡ, dám, định…
- Chỉ ý nghĩa tình thái mong muốn: mong, muốn, ước, mong muốn, ước
mong, ước muốn…
- Chỉ ý nghĩa tình thái tiếp thụ, chịu đựng: bị, mắc, phải, được…
- Chỉ ý nghĩa tình thái đánh giá, nhận định: cho, xem, thấy…
o Nhóm động từ quan hệ
Động từ trong nhóm này biểu thị các ý nghĩa quan hệ (có tính chất quá
trình) giữa các thực thể, quá trình hay đặc trưng, bao gồm:
- Quan hệ tồn tại: còn, có, biến, mất, sinh (ra)…
- Quan hệ diễn biến theo thời gian: bắt đầu, kết thúc, tiếp tục, thôi…
- Quan hệ so sánh, đối chiếu: giống, khác, như, tựa, in, hệt…


- Quan hệ diễn biến trong không gian: gần, xa, ở…
- Quan hệ biến hóa: thành, hóa, hóa thành, trở thành…
- Quan hệ đồng nhất hiểu rộng: là, làm, có, gồm, thuộc, thuộc về…
 Động từ độc lập

Động từ độc lập là những động từ biểu thị ý nghĩa quá trình (hành
động hoặc trạng thái). Ý nghĩa quá trình có thể nhận thức được tương đối
rõ, ngay cả trong tường hợp động từ không có các từ khác đi kèm để bổ
nghĩa. Động từ độc lập có đầy đủ khả năng kết hợp và chức năng cú pháp của
động từ. Tuy vậy, động từ độc lập cũng có thể phân chia thành một số nhóm
nhỏ theo hai têu chí sau:
o Các nhóm động từ độc lập phân loại có thực từ đi kèm:
- Nhóm động từ không đời hỏi thực từ đi kèm (động từ nội động): nói,
cười, khóc, ngồi, đứng, bò, ngủ, càu nhàu, hậm hục… thường chỉ các hành
động cơ thể (vận động sinh lí) hoặc trạng thái tâm lý.
- Nhóm động từ có thực từ đi kèm biểu thị đối tượng tác động như:
đánh (giặc), trồng (cây), xây (nhà), đá (bóng)… những động từ này được
gọi là động từ ngoại động.
- Nhóm động từ có hai thực từ đi kèm biểu thị đối tượng phát – nhận và
đối tượng được lợi hay bị hại do tác động của hành động nêu ở động từ
(động từ ngoại động).Ví dụ: cho (em) (một quyển vở), gửi (bạn) (một bức
thư)…
- Nhóm động từ có hai thực từ đi kèm biểu thị đối tượng sai khiến và nội
dung sai khiến (động từ khiên động, thuộc lớp động từ ngoại động): nhờ
(bạn) (mua bút), cử (người) (đi học), bảo (con) (học)…
- Nhóm động từ có thực từ đi kèm chỉ hướng dời chuyển hoặc hướng nối
kết của hành động nêu ở động từ hoặc chỉ đích dời chuyển của hành


động hoặc nêu đối tượng bị tác động dời chuyển: lăn vào, chạy ra, đi
xuống; trói


×