NỘI DUNG BÀI VIẾT
Trang
A- ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................
2
B- NỘI DUNG.....................................................................................................................
4
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................................
4
II- THỰC TRẠNG DẠY HỌC ..........................................................................................
4
III- BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH ...........................................................................................
6
1. Biện pháp 1: Trau dồi hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với thơ văn ......
7
2. Biện pháp 2: Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và trang bị những
kiến thức văn học cơ bản..............................................................................
8
3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng đọc hiểu .............................................................. 10
4. Biện pháp 4: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm ...................................................... 12
5. Biện pháp 5: Rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học ....................................... 13
6. Biện pháp 6: Kết hợp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học qua các phân
môn khác của môn Tiếng Việt ..................................................................... 14
IV- KẾT QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN ........................................................... 15
V- GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI ......................................................................... 16
C- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ............................................................................... 17
I. KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 17
II. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................. 17
III. KẾ HOẠCH VÀ THỜI GIAN VIẾT SÁNG KIẾN....................................................... 18
1
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước sang thế kỷ XXI, điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi
lớn. Đất nước bước vào thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Vấn đề hội nhập,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc, xu hướng tồn cầu hoá trong kinh
tế đang đặt ra ngày càng cấp bách. Trong xu hướng đó, ngành Giáo dục cũng
phải đổi mới để vươn lên.
Giáo dục tiểu học đặt nền móng cho sự phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ,
thẩm mỹ và thể chất của mỗi con người
Trong quá trình học tiểu học, nhân cách học sinh sẽ dần dần hình thành và
phát triển thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường. Một
trong những vấn đề quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách học
sinh đó là :" Dạy Tiếng Việt cho học sinh tiểu học".
Phân mơn tập đọc trong chương trình Tiếng Việt ngồi nhiệm vụ rèn đọc
đúng cịn có hai nhiệm vụ quan trọng là rèn đọc diễn cảm và rèn năng lực cảm
thụ văn học cho học sinh. Đây là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau: Cảm
thụ văn học tốt giúp cho việc đọc diễn cảm tốt và ngược lại đọc diễn cảm tốt
giúp cho việc cảm thụ nội dung, tư tưởng của những bài văn, bài thơ thêm sâu
sắc.
Đúng như giáo sư, tiến sĩ Z.IA.REZ ( người Nga) đã nhận định:
"... Chỉ có các tác phẩm nghệ thuật được người đọc thể nghiệm trên phương
diện thẩm mĩ mới có thể bộc lộ nội dung, tư tưởng, nghệ thuật khách quan của
nó, tác động đến tư duy và tình cảm, quan điểm và niềm tin của người đọc đó".
Đọc hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn học sẽ
giúp các em mở mang thêm tri thức, phong phú về tâm hồn. Có năng lực cảm
thụ văn học tốt các em sẽ càng hứng thú khi viết văn, càng thêm yêu quý Tiếng
Việt và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
2
Trên thực tế, năng lực cảm thụ văn học của học sinh còn yếu. Phần lớn các
em còn " cảm" với cách " cảm" của thầy cơ. Bên cạnh đó là việc các em chỉ
thích xem những truyện tranh " Má ngồi" mà bỏ qua những tác phẩm văn học
đích thực. Đó phải chăng là biểu hiện của sự tái diễn hình ảnh đơn điệu? Khởi
đầu của những tâm hồn đơn giản?
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn đưa ra "Một số biện pháp bồi
dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc"
với hy vọng được cùng đồng nghiệp tự nâng cao trình độ, bồi dưỡng kiến thức,
góp phần nhỏ của mình trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.
3
B- NỘI DUNG
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương trình tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng, q trình cảm thụ
văn học diễn ra nhiều nhất trong các giờ tập đọc. Cảm thụ văn học tốt là cơ sở
để hình thành năng lực đọc tốt.
Cảm thụ văn học là quá trình tiếp nhận, hiểu, cảm được tác phẩm văn
chương. Đây là một quá trình nhận thức tinh tế, phức tạp và mang tính chủ quan
cá nhân rõ nét. Cảm thụ văn học càng sâu thì sẽ càng rút ra được những nhận
xét, đánh giá tinh tế. Có thể nói, cơ sở của quá trình cảm thụ văn học là mối liên
hệ giữa tác giả, tác phẩm và người đọc. Chính vì vậy việc dạy Tiếng Việt ở lớp 4
khơng chỉ nhằm cung cấp những hiểu biết nhất định về xã hội và tự nhiên, về
văn hoá, văn học mà cịn phải bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng Tiếng Việt cho các em.
II- THỰC TRẠNG DẠY HỌC
Ở lứa tuổi học sinh lớp 4, óc phân tích, năng lực so sánh, tổng hợp, khái
qt chưa hồn thiện. Chính vì vậy, khi đọc tác phẩm văn học các em chỉ phân
tích được những biểu hiện bề ngoài của nhân vật, của hành động, của ngơn từ.
Cịn phần đặc điểm, tính cách nhân vật hay cao hơn nữa là ý nghĩa, cảm xúc
phần hàm ngôn trong tác phẩm văn học, các em thường cảm nhận một cách hời
hợt, chưa sâu sắc. Mặt khác do kiến thức thực tế cịn ít nên khi tiếp xúc với các
tác phẩm văn học, các em thường sa vào những chi tiết cụ thể, thiếu khả năng
khái quát, tổng hợp, so sánh...
Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 hiện nay là một
trong những vấn đề chưa được các nhà giáo quan tâm đúng. Qua thực tế giảng
dạy và trao đổi với đồng nghiệp, tơi nhận thấy: phần lớn các em có kỹ năng đọc
trơn là chủ yếu, khả năng đọc diễn cảm còn chưa cao. Các em học nội dung bài
song không biết phát hiện yếu tố nghệ thuật sử dụng trong bài; Có thể biết hình
ảnh này đẹp, câu thơ này hay nhưng khơng trả lời được nó hay đẹp ở điểm nào.
Trong các giờ tập đọc, giáo viên mới chỉ tập trung rèn đọc nhiều, còn việc khai
4
thác nội dung nghệ thuật chỉ dừng ở một vài nhóm học sinh có kỹ năng đọc tốt.
Bên cạnh đó, do tình hình xã hội, các em (kể cả gia đình các em) thường chú
trọng nhiều đến mơn Tốn, Tin mà khơng thích học Văn. Các em thường khơng
có thói quen suy nghĩ độc lập và sáng tạo, ít tiếp xúc với các tác phẩm văn học
hay.
Năm học 2006- 2007. tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4B.
Ngay từ đầu năm học tơi đã tìm hiểu, khảo sát thống kê một số vấn đề sau:
1- Tìm hiểu nội dung chương trình phân mơn tập đọc lớp 4:
Cả năm học có 35 tuần, mỗi tuần có 2 tiết tập đọc ( trừ tuần 10; 18; 28; 35ôn tập giữa kỳ và cuối kỳ). Tổng số có 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn
bản nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 45 bài văn xi, 1 vở kịch, 17 bài
thơ (2 bài thơ ngắn được dạy trong cùng một tiết) được sắp xếp theo 10 chủ
điểm sau:
- Thương người như thể thương thân.
- Măng mọc thẳng.
- Trên đơi cánh ước mơ.
- Có chí thì nên.
- Tiếng sáo diều.
- Người ta là hoa đất.
- Vẻ đẹp muôn màu.
- Những người quả cảm.
- Khám phá thế giởi.
- Tình yêu cuộc sống.
2- Tình hình lớp chủ nhiệm;
Lớp 4B do tơi chủ nhiệm có 37 học sinh. Trình độ văn hoá khá đồng đều.
Đa phần phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
* Tơi đã tiến hành khảo sát bằng 3 loại bài và thu được kết quả sau;
a- Đọc:
5
Tôi cho mỗi em đọc một đoạn văn ngắn để phân loại khả năng đọc của từng
em.
Kết quả :
- Đọc diễn cảm: 6 em.
- Đọc to, rõ ràng, phát âm chuẩn: 15 em
- Đọc đúng nhưng nhỏ: 7 em
- Đọc ngọng (l/n): 9 em .
b- Bài tập phát hiện ý và nghệ thuật của bài văn:
Tôi cho một bài tập đọc đã học, yêu cầu học sinh tìm ý nội dung và chỉ ra
những biện pháp nghệ thuật đã được sử dụng.
Kết quả :
- Nêu được nội dung và phát hiện được nghệ thuật sử dụng: 6 em
- Nêu được ý nội dung : 20 em
- Không nêu được nội dung và nghệ thuật: 11 em .
c- Bài tập cảm thụ một đoạn thơ đã học :
- Điểm 9, 10 : 3 em.
- Điểm 7, 8
: 10 em.
- Điểm 5, 6
: 14 em.
- Điểm 3, 4
: 10 em.
Qua việc khảo sát thực tế đầu năm cho thấy mức độ cảm thụ văn học của
các em chỉ dừng lại ở mức trung bình. Việc nắm các bài tập đọc chỉ dừng lại ở
nội dung đơn giản, chưa tiếp cận được với nghệ thuật. Vốn ngơn ngữ của các em
cịn nghèo nàn, khả năng cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài văn, thơ còn
yếu.
III- BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH:
Cảm thụ văn học là một q trình lâu dài có nhiều cấp độ, nhằm tái tạo và
sáng tạo mới hình tượng nghệ thuật dựa theo đặc điểm cá nhân và cảm xúc của
từng người. Để đạt được kết quả đó, q trình cảm thụ của học sinh phải đảm
6
bảo đi đúng hướng. Vì vậy quá trình cảm thụ vừa mang tính chủ quan, vừa phụ
thuộc vào nội dung, ý nghĩa khách quan của tác phẩm, vừa phụ thuộc vào vốn
sống, vốn hiểu biết văn học và đặc điểm nhân cách mỗi học sinh. Những tác
phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật phù hợp với đặc điểm lứa tuổi có tác
dụng giáo dục tích cực, các em sẽ được phát triển những hiểu biết văn học, xã
hội, con người và các kỹ năng nghe nói, đọc , viết, phát triển những phẩm chất
nhân cách, năng lực tư duy và nhận thức thẩm mỹ từ đó năng lực cảm thụ văn
học của các em sẽ phát triển một cách hoàn thiện đậm nét.
Đối với học sinh tiểu học, năng lực cảm thụ văn học mới chỉ ở mức độ ban
đầu, nghĩa là dần dần hình thành và phát triển . Để năng lực văn học của các em
có thể hình thành và phát triển tốt nhất thì ngay từ lớp 4 chúng ta cần có những
biện pháp phù hợp nhằm bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho các em.
Trên cơ sở khảo sát tìm hiểu ngun nhân, nghiên cứu nội dung chương
trình, mục đích u cầu và phương pháp dạy tập đọc lớp 4 tôi đã suy nghĩ, tìm
tịi và mạnh dạn áp dụng một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học
cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc như sau:
1- Trau dồi hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với thơ văn :
Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học học sinh sẽ là người chủ động,
sáng tạo nắm bắt kiến thức để cảm thụ văn học tốt và học giỏi môn Tiếng Việt.
Khi một học sinh chưa thích văn học, thiếu sự say mê cần thiết, nhất định
em đó chưa thể xúc động thực sự với những gì đẹp đẽ được tác giả diễn tả trong
bài văn, bài thơ ấy. Có hứng thú khi tiếp xúc với thơ, văn, các em sẽ vượt qua
được những khó khăn trở ngại, cố gắng luyện tập . Muốn đạt được điều đó người
thầy cần giúp học sinh thâm nhập vào tác phẩm bằng nhiều cách khác nhau.
a- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Để học sinh có hứng thú khi tiếp xúc với các bài thơ, văn tôi đã tìm đọc các
tác phẩm đó, tìm hiểu về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.... để giới thiệu
cho học sinh nhằm gây sự chú ý bước đầu cho các em.
7
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc "Mẹ ốm" (Tiếng Việt 4 tập 1), tôi đã kể cho các
em nghe đôi nét về tuổi thơ của Trần Đăng Khoa, về tập thơ "Góc sân và
khoảng trời" của anh. Từ đó các em rất háo hức khi đọc và tìm hiểu bài thơ này.
b- Hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà:
Để học sinh có ý thức chủ động và sáng tạo tìm hiểu nội dung nghệ thuật
của mỗi bài tập đọc, tôi yêu cầu các em cần phải soạn bài kĩ ở nhà trước giờ học.
Và để định hướng cho các em chuẩn bị bài đạt hiệu quả cao, tôi gợi ý những câu
hỏi trong phần hướng dẫn về nhà cho các em.
Ví dụ: Để giúp học sinh chuẩn bị bài "Tuổi Ngựa" (Tiếng Việt 4 tập 1) tôi
đã hướng dẫn học sinh bằng những câu hỏi cụ thể sau:
Đi chơi khắp nơi nhưng "Ngựa con" vẫn nhớ mẹ như thế nào? Từ ngữ nào
thể hiện điều đó?
- Trong khổ thơ cuối "Ngựa con" đã nhắn nhủ với mẹ điều gì?
Cần nhấn giọng ở những từ ngữ nào để diễn tả tình yêu của cậu bé "Tuổi
Ngựa" đối với mẹ?
Em hãy vẽ một bức tranh minh hoạ bài thơ.
c- Sử dụng đồ dùng trực quan:
Trong phân môn tập đọc, đồ dùng trực quan thường được dùng để giới
thiệu bài giảng nội dung bài nhằm lôi cuốn hấp dẫn học sinh vào bài giảng. Đồ
dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mơ hình, vật thật, băng hình ... và đặc biệt
chính giọng đọc của giáo viên cũng là một trực quan đặc biệt hữu hiệu. Như ở
bài "Đoàn thuyền đánh cá", sau khi quan sát tranh ảnh về cảnh tàu thuyền đánh
cá trên biển lại được nghe giọng đọc truyền cảm của tơi thì bất cứ học sinh nào
cũng háo hức muốn tiếp cận ngay bài đọc để xem vẻ đẹp của biển như thế nào?
Công việc lao động của người đánh cá ra sao?
Mặt khác, tơi cịn giao cho học sinh sưu tầm những tranh ảnh, đồ dùng trực
quan có liên quan đến nội dung bài tập đọc.
Ví dụ: Học bài "Vẽ về cuộc sống an tồn" tơi có u cầu các em sưu tầm
những bức tranh theo chủ điểm (đăng trên các báo, tạp chí). Học sinh đã rất
8
thích thú và sưu tầm được nhiều bức tranh đẹp theo yêu cầu. Từ đó các em có
niềm say mê, hứng thú rất lớn khi tiếp xúc với các bài thơ, văn.
2- Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và trang bị những kiến
thức văn học cơ bản.
a- Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống:
Cảm thụ văn học là q trình nhận thức có ảnh hưởng bởi "vốn sống" của
mỗi người. Cái "vốn sống" ấy trước hết được tích luỹ bằng những hiểu biết và
cảm xúc của bản thân qua sự hoạt động và quan sát hằng ngày trong cuộc sống.
Nó cịn được tích luỹ trong văn học thông qua việc đọc sách thường xun, Mỗi
cuốn sách có biết bao điều bổ ích và lý thú.
Để học sinh đọc sách có hiệu quả, đồng thời giúp học sinh học tốt các bài
tập đọc, tôi hướng dẫn cho các em chọn những quyển sách phù hợp với lứa tuổi,
có ích cho việc học tập và tu dưỡng.
Ví dụ: Để các em học tốt bài "Dế Mèn bênh vực kẻ yếu", tơi hướng dẫn các
em tìm đọc tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu kí" của Tơ Hồi; học bài "Tuổi Ngựa",
tơi cho học sinh tìm đọc tập thơ, truyện "Bầu trời trong quả trứng" của Xuân
Quỳnh.
Có sách tốt rồi, tôi thường hướng dẫn cho các em cần tập trung tư tưởng
cao khi đọc sách và luôn suy nghĩ về những điều đang đọc để thấy cái hay, cái
đẹp của tác phẩm (về cả nội dung và nghệ thuật). Các em cần đọc sách với thái
độ say mê - có nghĩa là sống cùng với nhân vật, biết vui, buồn, sướng khổ hay
yêu, ghét ...cùng nhân vật, đồng thời cảm nhận được những hình ảnh đẹp, những
câu văn hay, những chi tiết xúc động,...
Để tích luỹ vốn hiểu biết về cuộc sống và văn học, sau mỗi bài tập đọc, tôi
hướng dẫn các em cách chọn lọc, ghi chép để thu nhận, tích lũy những điều bổ
ích. Các em tập cho mình có thói quen ghi " Sổ tay Tiếng Việt và Văn học"
những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp, những điều cảm nhận được qua bài tập
đọc.
9
Hơn thế nữa, để củng cố, bổ sung "vốn sống" của học sinh, tôi thường
xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khoá văn học sau mỗi chủ điểm (tổ chức vào
tiết sinh hoạt cuối tuần). Để buổi sinh hoạt ngoại khố có hiệu quả, tơi đã thành
lập 4 nhóm: nhóm đọc diễn cảm, nhóm kịch, nhóm báo chí (sáng tác thơ, truyện
ngắn), nhóm hài (sáng tác và đóng tiểu phẩm gây cười). Các nhóm sẽ trình bày
tác phẩm của mình về chủ điểm vừa học xong. Để gây hứng thú cho học sinh,
tơi cịn tổ chức cho các nhóm giao lưu, chơi trị chơi và thi có thưởng.
b- Trang bị những kiến thức văn học cơ bản.
Nếu vốn sống là cơ sở của quá trình cảm thụ thì những kiến thức văn học
cơ bản cũng có tầm quan trọng khơng kém.
Những kiến thức văn học cơ bản là các khái niệm: Tác giả, tác phẩm, chi
tiết, hình ảnh, đoạn văn, câu thơ, khổ thơ ... là các biện pháp tu từ, so sánh, ẩn
dụ, nhân hoá ... là những kiến thức mà bất kỳ một người nào muốn cảm thụ tốt
tác phẩm văn học đều phải biết.
Ví dụ: Ở bài "Trăng ơi ... từ đâu đến?" (Tiếng việt 4 - tập 2) nhờ biện pháp
so sánh "Trăng hồng như quả chín" "Trăng trịn như mắt cá" các em thấy được
sự khám phá rất độc đáo của nhà thơ về trăng, thấy được sự gần gũi của trăng
với trẻ thơ.
Muốn năng lực cảm thụ của học sinh hình thành và phát triển tốt thì cơng
việc song song với bồi dưỡng vốn sống là trang bị cho học sinh những kiến thức
cơ bản. Việc trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh được tôi tiến hành thường
xuyên ở từng tiết học. Sau mỗi một khái niệm, một biện pháp nghệ thuật được
cung cấp, tôi thường xuyên sử dụng lại và kiểm tra mức độ tiếp thu và sử dụng
của học sinh. Nếu có những vấn đề khó hiểu cần nhiều thời gian, tôi sẽ cung cấp
cho các em vào tiết sinh hoạt thơ văn cuối tuần.
3- Rèn kĩ năng đọc hiểu:
10
Đọc hiểu có vai trị quyết định đến q trình cảm thụ của học sinh. Kĩ năng
đọc hiểu của học sinh được dần dần hình thành và rèn luyện, phát triển trong
suốt q trình ở tiểu học. Chính vì vậy mà việc đọc hiểu càng trở nên quan trọng
hơn. Có đọc hiểu tốt thì mới cảm thụ tốt bài học. Nếu kỹ năng đọc hiểu yếu, khi
đọc một bài văn, thơ các em sẽ chẳng biết nên bắt đầu như thế nào để tìm hiểu
bài, sẽ chẳng hiểu câu "Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng" ý nói gì. Tại
sao nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại viết "Lưng đưa nôi và tim hát thành lời"? ...
Những điều đó các em chưa hiểu thì chưa thể cảm thụ được tác phẩm mà chỉ có
thể gọi là đọc tác phẩm.
Để dạy đọc hiểu, tơi đã hướng dẫn các em tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của
từng đoạn văn, khổ thơ hay cả bài rồi từ những hiểu biết đó các em đưa ra cách
đọc phù hợp chứ không áp đặt các em phải có cách đọc ra sao.
Tơi đã áp dụng một vài biện pháp để rèn kĩ năng đọc hiểu trong giờ tập đọc
như sau:
a- Sử dụng hệ thống câu hỏi:
Đây là biện pháp trung tâm trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu. Biện pháp này
được sử dụng xuyên suốt từ đầu đến cuối tiết học và có vai trị chủ đạo trong
việc tìm hiểu bài và luyện đọc cho học sinh. Chính vì vậy mà u cầu đặt ra với
hệ thống câu hỏi là phải bám sát văn bản về nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa.
Tránh những câu hỏi rườm rà, thừa ý, hay những câu hỏi chỉ trả lời "có" hoặc
"khơng". Hệ thống câu hỏi cần được thiết kế sao cho có tính lơgic chặt chẽ. Ví
dụ: Khi hướng dẫn các em tìm hiểu đoạn 2 của bài "Đôi giày ba ta màu xanh"
(Tiếng Việt 4 - tập 1), tôi đưa ra câu hỏi "Chị phụ trách Đội đã làm gì để động
viên câu bé Lái trong ngày đầu tới lớp?", "Tại sao chị lại chọn cách làm đó?".
Việc dùng câu hỏi rèn kĩ năng đọc hiểu được tôi sử dụng theo các dạng sau:
- Câu hỏi tái hiện nội dung.
- Câu hỏi tìm từ, giải nghĩa từ.
- Câu hỏi nhằm phát hiện tín hiệu nghệ thuật.
- Câu hỏi tìm hiểu thái độ, tình cảm của tác giả.
11
- Câu hỏi về cách đọc.
Ví dụ: Để tái hiện được những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp Quốc
phòng của giáo sư Trần Đại Nghĩa (Bài "Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa"Tiếng Việt 4, tập 2) tôi đã sử dụng câu hỏi: "Giáo sư Trần Đại Nghĩa đã có đóng
góp gì lớn trong kháng chiến?".
Trong khi dạy bài "Bè xuôi sông La" (Tiếng Việt 4- tập 2), tôi đã dùng câu
hỏi: "Chiếc bè gỗ được ví với cái gì? Cách nói ấy có gì hay?". Với câu hỏi này,
học sinh dễ dàng phát hiện được nghệ thuật so sánh mà tác giả đã sử dụng trong
bài. (Chiếc bè gỗ được ví với đàn trâu đằm minh thong thả trơi theo dịng sơng:
Bè đi chiều thầm thì, Gỗ lượn đàn thong thả, Như bầy trâu lim dim, Đằm minh
trong êm ả. Cách so sánh như thế làm cho cảnh bè gỗ trôi trên sông hiện lên rất
cụ thể, sống động.)
Trong q trình dạy học, tơi thường rất quan tâm chú ý đến cách sử dụng hệ
thống câu hỏi nhằm giúp học sinh phát hiện được nội dung, nghệ thuật cũng như
ý nghĩa của tác phẩm văn học. Qua đó, các em sẽ cảm thụ tác phẩm tốt hơn và
các em sẽ tiếp cận được với mọi vấn đề xung quanh bài học.
b- Sử dụng đồ dùng trực quan.
Đồ dùng trực quan giúp học sinh say mê tiếp cận với văn thơ. Bên cạnh đó,
đồ dùng trực quan cịn có thể được dùng để giải nghĩa từ. Ví dụ trong bài
"Đường đi Sa Pa" (Tiếng Việt 4- tập 2) tôi đã dùng tranh để giải nghĩa từ
"chênh vênh", "dốc cao" để giúp học sinh hiểu rõ hơn các từ ngữ này.
Khi dạy bài "Sầu riêng", tôi đã sưu tầm và mang đến lớp một quả sầu riêng,
kết hợp với tranh minh hoạ trong sách giao khoa để giúp các em miêu tả những
nét đặc sắc của quả sầu riêng được cụ thể và sinh động hơn.
4- Rèn kĩ năng đọc diễn cảm.
Trong quá trình cảm thụ, việc đọc diễn cảm cũng là một khâu rất quan
trọng. Qua đọc diễn cảm, chúng ta sẽ biết được mức độ tiếp thu bài của học sinh.
Từ việc hiểu tác phẩm, đọc đúng và lưu lốt văn bản, các em sẽ có sáng tạo
hợp lý trong cách đọc sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Nếu một bài đọc học sinh
12
đọc rất lưu loát, đúng về ngắt nghỉ, nhấn giọng, lên giọng ... nhưng toàn bộ bài
em đọc với giọng khơ khan, thiếu tình cảm thì bài đọc đó coi như chưa đạt kết
quả. Chính vì thế mà ngữ điệu đóng vai trị rất quan trọng trong đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm là một kĩ năng phải rèn giũa công phu của giáo viên không chỉ
ngày một ngày hai mà có được. Tơi đã áp dụng rèn kĩ năng đọc diễn cảm thông
qua các biện pháp:
- Đàm thoại, thảo luận: Tơi tổ chức cho các em thảo luận nhóm để trao đổi,
tìm giọng đọc của đoạn, bài sao cho phù hợp với tình huống miêu tả trong văn
bản.
- Đọc mẫu: Giáo viên hoặc một em học sinh có chất giọng tốt đọc.
- Luyện đọc nhóm (học sinh đọc cho nhau nghe theo nhóm đơi, ba, bốn).
- Luyện đọc cá nhân: Đây là lúc tôi kiểm tra kết quả của việc thực hiện các
biện pháp nêu trên. Qua biện pháp này, tôi nắm được khả năng của từng học
sinh và thực hiện uốn nắn cho mỗi cá nhân học sinh.
Sau một quá trình thực hiện nâng cao dần việc đọc diễn cảm thì kĩ năng đọc
diễn cảm của các em đã được trau dồi và rèn luyện rất nhiều.
5- Rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học.
Để từng bước rèn luyện năng lực cảm thụ văn học cho các em, tôi đã xây
dựng một số dạng bài tập cho học sinh luyện tập. Cụ thể có các dạng bài tập sau:
a- Bài tập tìm hiểu tác dụng của cách dùng từ đặt câu sinh động.
Ví dụ: Cho đoạn văn sau:
"Mặt trời lên cao dần. Gió đã bắt đầu mạnh. Gió lên, nước biển càng dữ.
Khoảng mênh mông ầm ĩ càng lan rộng mãi vào. Biển cả muốn nuốt tươi con đê
mỏng manh như con mập đớp con cá chim nhỏ bé". (Thắng biển - Tiếng Việt 4 tập 2).
+ Ba câu ngắn ở đầu đoạn văn thể hiện điều gì?
(Ba câu ngắn ở đầu đoạn văn thể hiện cơn bão biển đến rất nhanh).
+ Tìm những từ ngữ nói lên sự đe doạ của cơn bão biển? (Gió bắt đầu
mạnh, nước biển càng dữ, nuốt tươi con đê mỏng manh).
13
b- Bài tập phát hiện những hình ảnh, những chi tiết có giá trị gợi tả.
Ví dụ: Tìm những hình ảnh nói lên vẻ đẹp huy hồng của biển trong khổ thơ sau:
"Câu hát căng buồm với gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời;
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi".
(Đồn thuyền đánh cá - Tiếng Việt 4, tập 2)
(Những hình ảnh nói lên vẻ đẹp huy hoàng của biển là: Mặt trời đội biển
nhơ màu mới - Mắt cá huy hồng mn dặm phơi ).
c- Bài tập tìm hiểu và vận dụng một số biện pháp tu từ gần gũi với học sinh.
Ví dụ: "Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh"
(Tre Việt Nam - Tiếng Việt 4- tập 1)
Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì trong đoạn thơ trên? Viết như vậy
nhằm khẳng định điều gì? (Tác giả đã sử dụng điệp từ "xanh" và điệp ngữ "Mai
sau" thể hiện rất đẹp sự kế tiếp liên tục của các thế hệ tre già, măng mọc và
khẳng định sự trường tồn của sức sống dân tộc Việt Nam).
d- Bài tập về bộc lộ cảm thụ văn học qua một đoạn viết ngắn.
Ví dụ: Trong bài "Bè xi sông La" (Tiếng Việt 4 - tập 2) nhà thơ Vũ Huy
Thơng có viết:
"Sơng La ơi sơng La
Trong veo như ánh mắt
Bờ tre xanh im mát
Mươn mướt đôi hàng mi"
Đoạn thơ trên giúp em cảm nhận được vẻ đẹp của dịng sơng La như thế nào?
(Tham khảo: Đoạn thơ giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp thật quýên rũ của
dòng sơng La. Nhà thơ đã "nhân hố" sơng La, gọi tên sơng trìu mến như gọi
14
một con người. Cách so sánh dịng sơng La "Trong veo như ánh mắt" làm cho ta
thấy sắc màu trong xanh của dịng sơng cũng đậm đà tình cảm. Những luỹ tre rủ
bóng xuống mặt sơng cũng được nhân hố thành "Bờ tre xanh im mát. Mươn
mướt đôi hàng mi". Vẻ đẹp của dịng sơng, của bờ tre chẳng khác nào vẻ đẹp của
một người con gái quê hương. Đó chính là vẻ đẹp đậm đà tình cảm u thương
gắn bó với con người).
* Việc rèn kĩ năng cảm thụ văn học thông qua các bài tập thực sự đã mang
lại những hiệu quả nhất định. Các em đã được rèn luyện từng bước (từ dễ đến
khó) để có được năng lực cảm thụ văn học tốt và viết được những đoạn văn hay.
6- Kết hợp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học qua các phân môn
khác của môn Tiếng Việt.
Nếu chỉ chú trọng áp dụng các biện pháp trên qua phân môn tập đọc để
nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh thì kết quả thu được sẽ
khơng như mong muốn. Chính vì vậy việc rèn năng lực cảm thụ văn học cho học
sinh cịn phụ thuộc rất lớn vào các phân mơn khác của mơn Tiếng Việt.
Ví dụ: Nắm vững kiến thức phân mơn Luyện từ và câu, các em khơng chỉ
nói mà cịn có thể cảm nhận được nét đẹp của nội dung qua những hình thức
diễn đạt sinh động và sáng tạo. Đọc đoạn văn tả cảnh Sa Pa (Đường đi Sa Pa Tiếng Việt 4- tập 2), nếu nắm chắc kiến thức luyện từ và câu các em sẽ chú ý
đến cách đặt câu rất hay của nhà văn Nguyễn Phan Hách: "Thoắt cái, lác đác lá
vàng rơi trong khoảng khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa
tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với
những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý".
Nếu thiếu đi cái trạng ngữ gây ấn tượng về thời gian "Thoắt cái" và đảo vị
ngữ "trắng long lanh", những câu văn trên sẽ không thể làm cho người đọc cảm
nhận được vẻ đẹp huyền ảo và nên thơ của thắng cảnh Sa Pa.
Ngoài việc chú trọng truyền đạt kiến thức cơ bản trong chương trình Tiếng
Việt cho học sinh, tơi cịn tổ chức các cuộc thi kể chuyện, thi đọc diễn cảm,
đóng tiểu phẩm hay tập viết văn thơ qua các buổi "Hội vui học tốt" của lớp.
15
Hình thức này cuốn hút hầu hết các em tham gia và đã đạt được kết quả nhất
định.
IV- KẾT QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Nhờ vận dụng những biện pháp thích hợp với nhiều hình thức phong phú,
nhờ vào sự cố gắng của cả thầy và trò, sau hơn một học kỳ năng lực cảm thụ văn
học của các em đã có tiến bộ rõ rệt. Giờ đây, với mỗi bài tập đọc, việc trả lời câu
hỏi, phát hiện những biện pháp nghệ thuật hay tìm nội dung, ý nghĩa khơng cịn
là vấn đề q khó với các em. Cái đẹp của văn thơ đã bắt đầu thâm nhập vào tâm
hồn và được bộc lộ qua lời nói, cử chỉ của các em. Các em đã biết xúc động khi
đọc một câu thơ hay, một đoạn văn có hình ảnh đẹp.
Đặc biệt, vốn văn học và vốn sống của các em được tích luỹ ngày một
nhiều. Giờ đây, mỗi em đều có một bộ sưu tầm về các tư liệu phục vụ học tập
nhất là môn Tiếng Việt. Hầu như khơng có em nào mang những cuốn truyện "rẻ
tiền" đến lớp đọc. Tủ sách của các em bây giờ là "Dế Mèn phiêu lưu kí", là "Góc
sân và khoảng trời", "Bầu trời trong quả trứng" hay "Đất rừng phương Nam".
Bên cạnh đề kiểm tra Tiếng Việt định kì (giữa học kì 2), tơi cho thêm để
kiểm tra cảm thụ văn học với từng học sinh. Kết quả cụ thể như sau:
- Điểm 9, 10: 8 học sinh.
- Điểm 7, 8: 23 học sinh.
- Điểm 5, 6: 6 học sinh.
Trên đây là một số kết quả mà học sinh lớp tôi đã đạt được về vấn đề cảm
thụ văn học trong hơn một học kỳ vừa qua. Kết quả đạt được tuy mới ở mức độ
khiêm tốn nhưng cũng đã động viên được cả thầy và trò cùng cố gắng nhiều hơn
nữa để đạt được kết quả cao hơn trong thời gian tới.
V- GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI:
Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục tiến hành áp dụng các biện pháp trên đây
để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp mình. Đặc biệt, tôi sẽ
cố gắng tổ chức nhiều hơn các hoạt động ngoại khoá, các buổi "Hội vui học tốt"
nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
16
Để kỉ niệm ngày chiến thắng 30/4 các em sẽ tìm hiểu về anh bộ đội cụ Hồ,
về cơng cuộc giải phóng, thống nhất đất nước qua các tác phẩm văn học. Hướng
tới kỉ niệm ngày sinh nhật Bác 19/5, tôi sẽ tổ chức cho các em sưu tầm và tìm
đọc những bài thơ, tập thơ của Bác và thi viết về Bác Hồ kính yêu...
17
C- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I- KẾT LUẬN
Sau hơn một học kì áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực cảm
thụ văn học cho học sinh qua phân môn Tập đọc đã đạt được kết quả khả quan,
tôi đã rút ra một số kết luận sau:
1. Muốn bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh đạt hiệu quả
cao, trước hết người giáo viên phải bồi dưỡng và rèn luyện cho mình năng lực
cảm thụ văn học, đồng thời phải biết dẫn dắt, hướng dẫn các em tự cảm thụ các
tác phẩm văn học.
2. Để học sinh có được nhận thức đúng, tình cảm đẹp đến với mỗi bài tập
đọc, mỗi tác phẩm một cách say mê, người giáo viên cần trau dồi hứng thú cho
học sinh khi tiếp xúc với thơ văn bằng nhiều biện pháp linh hoạt phù hợp.
3. Người giáo viên cần cho học sinh rèn luyện liên tục, có hệ thống các bài
tập cảm thụ văn học sau mỗi giờ tập đọc, mỗi chủ điểm.
4. Để hỗ trợ cho vấn đề cảm thụ văn học qua phân môn tập đọc đạt kết quả
cao, người giáo viên cần chú trọng truyền đạt đầy đủ các kiến thức cơ bản về
Tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn khác của môn Tiếng Việt.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã tiến hành áp dụng các biện pháp
nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4. Rất mong sự đóng
góp chân thành của các cấp lãnh đạo đối với bản thân tôi cũng như bản sáng
kiến kinh nghiệm này để giúp chúng tơi có kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực cảm
thụ văn học cho học sinh nói riêng và dạy tốt các mơn học khác nói chung trong
nhà trường tiểu học.
II- MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ:
1. Nhà trường cần mua thêm nhiều sách báo tham khảo liên quan đến dạy
tập đọc cho giáo viên hơn nữa.
2. Thư viện nhà trường cần có tủ sách thiếu nhi và phòng đọc riêng cho học
sinh trong giờ nghỉ giải lao.
18
3. Nhà trường và Đoàn, Đội cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi toạ đàm,
hội vui học tốt, những cuộc thi ... phù hợp với từng chủ đề hoạt động trong năm
học để học sinh có thêm điều kiện giao lưu và rèn năng lực cảm thụ văn học
đồng thời hỗ trợ tốt cho các giờ học trên lớp.
III- KẾ HOẠCH VÀ THỜI GIAN VIẾT SÁNG KIẾN
1. Thời gian xác định đề tài: Tháng 9/2006.
2. Thời gian tham khảo tài liệu, nghiên cứu, dự giờ: Tháng 10/2006.
3. Thời gian thực nghiệm: Từ tháng 11/2006 đến tháng 3/ 2007.
4. Thời gian viết đề tài: Tháng 4/2007 .
Nguyên Khê, ngày 10 tháng 4 năm 2007
Người viết
Trịnh Thị Mỹ
19
PHỊNG GIÁO DỤC HUYỆN ĐƠNG ANH
TRƯỜNG TIỂU HỌC LÊ HỮU TỰU
--------------------------
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC
CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH LỚP 4
QUA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC
Trịnh Thị Mỹ
Giáo viên
:
Chủ nhiệm lớp
: 4B
Danh hiệu đăng ký : GIÁO VIÊN DẠY GIỎI CẤP HUYỆN
Năm học 2006 - 2007
20