Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết cục thai kỳ ối vỡ non ở thai đủ tháng tại bệnh viện quận 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.36 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

KẾT CỤC THAI KỲ ỐI VỠ NON Ở THAI ĐỦ THÁNG
TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2
Lê Thị Bích Hường‫٭‬, Lê Hồng Cẩm‫٭٭‬, Phạm Thanh Hoàng‫٭٭‬

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ối vỡ non ở thai đủ tháng được định nghĩa là vỡ màng ối trước khi vào chuyển dạ ở thai ≥ 37
tuần. Nhiều tài liệu hướng dẫn nên khởi phát chuyển dạ thay vì chờ đợi vào chuyển dạ tự nhiên, để giảm nguy cơ
nhiễm trùng cho thai phụ và trẻ sơ sinh mà không làm tăng nguy cơ mổ lấy thai.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định kết cục thai kỳ của thai phụ và trẻ sơ sinh ở những trường hợp ối vỡ non
trên thai đủ tháng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu báo cáo loạt ca tiến cứu được thu thập số liệu từ tháng 10/2016 đến
tháng 4/2017 với 91 ca ối vỡ non trên thai đủ tháng tại bệnh viện quận 2. Các thai phụ được điều trị theo phác đồ
xử trí của bệnh viện. Kết cục sau sinh của thai phụ và thai nhi được ghi nhận cho đến khi xuất viện.
Kết quả: Tỷ lệ sinh ngã âm đạo là 79,1% với tỷ lệ nhiễm trùng ối là 2,2% và tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh là
5,5%. Thời gian tiềm tàng trên 12 giờ và khoảng cách từ lúc ối vỡ đến lúc sinh dài làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai
Kết luận: Ối vỡ non trên thai đủ tháng có tỷ lệ sinh ngã âm đạo cao, tỷ lệ nhiễm trùng ối cũng như nhiễm
trùng sơ sinh thấp. Cần rút ngắn thời gian tiềm tàng và thời gian từ khi ối vỡ đến lúc sinh để làm tăng tỷ lệ sinh
ngã âm đạo
Từ khóa: ối vỡ non, khởi phát chuyển dạ, nhiễm trùng ối, nhiễm trùng sơ sinh.

ABSTRACT
MATERNAL AND PERINATAL OUTCOME IN PRELABOR RUPTURE OF MEMBRANES AT TERM
AT DISTRICT 2 HOSPITAL
Le Thi Bich Huong, Le Hong Cam, Pham Thanh Hoang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 80 - 85
Background: Prelabor rupture of membranes (PROM) at termis defined as rupture of the membranes prior
to the onset of labour at or beyond 37 weeks gestation. Many guidelines recommend prompt induction of labor


over expectant management to reduce maternal and possible neonatal infection, without increasing the risk of
cesarean delivery.
Objective: This study aims to assess fetal and maternal outcome in prelabor rupture of membranes at term.
Materials and Methods: A prospective study was conducted between October 2016 and April 2017 on 91
pregnant women after 37 completed weeks with pre labor rupture of membranes admitted at District 2
Hospital. They were managed according to our hospital protocol. After delivery, the maternal and fetal outcome
was studied till discharge.
Results: In this study, the rate of vaginal delivery was 79.1%. Intra-amniotic infection occurred in 2.2%.
Neonatal infection occurred in 5.5%. The duration of latency was > 12 hours and the long duration between
PROM and delivery increased the rate of caesarean section.
Conclusions: We found that the rate of vaginal delivery was high with low rate of maternal and fetal
* Khoa sản, Bệnh viện Quận 2, TP. Hồ Chí Minh **Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc:.BS. Phạm Thanh Hoàng
ĐT: 0904578385
Email:

80

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

infection. We should decrease the latency and the duration between PROM and delivery to improve the vaginal
delivery rate.
Keywords: Prelabor Rupture of Membranes (PROM), labor induction, intra-amniotic infection, neonatal
infection


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ối vỡ non (OVN) trong thai kỳ là tình trạng
tương đối phổ biến trong sản khoa, chiếm
khoảng 12% tổng số các thai kỳ, chủ yếu xảy ra
trong các thai kỳ đủ tháng (≥ 37 tuần của thai
kỳ).Trong phần lớn các trường hợp, sau khi ối vỡ
sẽ có chuyển dạ tự nhiên, từ 80 - 90% trường hợp
ối vỡ ở các thai kỳ đủ tháng chuyển dạ trước 24
giờ(1). Biến chứng chính của ối vỡ non là nhiễm
trùng tử cung và biến chứng khác là sa dây rốn
và nhau bong non(6).
Xử trí một trường hợp ối vỡ non ở thai
trưởng thành vẫn còn nhiều bàn cãi, xu hướng
sản khoa hiện nay ủng hộ việc khởi phát chuyển
dạ (KPCD) hơn là trì hoãn chờ chuyển dạ tự
nhiên(3,4,7). Khởi phát chuyển dạ có thể rút ngắn
thời gian chuyển dạ và có thể làm giảm nguy cơ
nhiễm trùng ối nhưng điều này có thể làm tăng
tỷ lệ mổ lấy thai, hoặc tai biến cho mẹ và trẻ sơ
sinh. Hiện nay, Oxytocin truyền tĩnh mạch là
phương thức can thiệp được lựa chọn để khởi
phát chuyển dạ ở các trường hợp thai trưởng
thành có ối vỡ non. Tuy nhiên, Oxytocin ít hiệu
quả khi khởi phát chuyển dạ cho những trường
hợp ối vỡ mà cổ tử cung không thuận lợi, tỷ lệ
mổ sinh do khởi phát chuyển dạ thất bại với
Oxytocin thay đổi từ 10 - 30%(4). Do đó, việc chọn
thời điểm và phương thức can thiệp để khởi
phát chuyển dạ phù hợp sẽ đảm bảo kết cục thai
kỳ tốt đẹp, cụ thể là giảm tỷ lệ mổ sinh, giảm tỷ

lệ nhiễm trùng ối và nhiễm trùng sơ sinh.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ một số kết cục thai kỳ ở những
thai phụ ối vỡ non có thai ≥ 37 tuần như: tỷ lệ
sinh ngả âm đạo, tỷ lệ nhiễm trùng ối, tỷ lệ
nhiễm trùng sơ sinh tại Bệnh viện quận 2.
Mô tả đặc tính chuyển dạ của thai kỳ ≥ 37
tuần ối vỡ non ở trường hợp theo dõi sinh ngả
âm đạo.

Khảo sát một số yếu tố liên quan đến kết
cục sinh ngả âm đạo ở thai ≥ 37 tuần có ối vỡ
non: thời gian ối vỡ đến lúc chuyển dạ, thời
gian ối vỡ đến lúc sinh, khởi phát chuyển dạ,
tăng co bằng oxytocin, nhiễm trùng ối.
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu báo cáo loạt ca tiến cứu tất cả các
trường hợp thai đủ tháng (≥ 37 tuần) có ối vỡ
non (ối vỡ trên 1 giờ chưa vào chuyển dạ) đến
sinh tại bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí
Minh, Việt Nam, từ tháng 10/2016 đến tháng
4/2017.
Chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên
cứu.
Tiêu chuẩn nhận vào
Tất cả những trường hợp ối vỡ non được gắn
monitoring chưa có cơn gò tử cung trong 30
phút.

Tuổi thai ≥ 37 tuần được xác định dựa vào
siêu âm ba tháng đầu thai kỳ.
Thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại
Chúng tôi không nhận vào nghiên cứu các
sản phụ có các dấu hiệu như: có tiền căn mổ trên
tử cung, khung chậu hẹp, ngôi bất thường, ước
lượng cân thai > 4000 gram, thai suy cấp và các
thai phụ có bệnh lý không cho phép khởi phát
chuyển dạ như: bệnh tim nặng, tiền sản giật
nặng, tăng áp động mạch phổi nặng.
Chẩn đoán ối vỡ dựa vào thai phụ khai ra
nước âm đạo, đặt mỏ vịt thấy nước ối chảy ra từ
lỗ cổ tử cung và xét nghiệm Nitrazine dương
tính. Nhiễm trùng ối được chẩn đoán khi có 2
trong các dấu hiệu: sốt > 38°C, mạch mẹ > 100
lần/phút, nhip tim thai > 160 lần/phút, nước ối có

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em

81


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

mùi hôi, tử cung nhạy cảm ấn đau, bạch cầu >
15.000/mm3 máu.
Chúng tối tiến hành KPCD khi ối đã vỡ ≥

12 giờ hay chỉ số Bishop ≥ 5 điểm hay khi có
dấu hiệu nhiễm trùng ối. Khởi phát chuyển dạ
bằng oxytocin với liều khởi đầu là 4mUI/mL,
tăng thêm 4mUI/mL mỗi 30 phút đến khi cơn
gò đủ, liều tối đa 40mUI/phút. Đối với các sản
phụ vào chuyển dạ tự nhiên, nếu diễn tiến
chuyển dạ chậm và cơn gò thưa sẽ được tăng
co bằng oxytocin với liều và khoảng cách tăng
liều như trên. Sản phụ có ối vỡ trên 12 giờ và
chưa có dấu nhiễm trùng sẽ được sử dụng
kháng sinh dự phòng bằng Cefotaxim 1g mỗi
8 giờ cho đến lúc sinh.
Phương pháp thống kê
Các biến số về cuộc sinh, biến chứng cho mẹ
và bé trong và sau sinh được thu thập và xử lý
bằng phần mềm SPSS 18.0 và phân tích đơn
biến, phân tích hồi quy đa biến nhằm kiểm soát
các yếu tố gây nhiễu. Các phép kiểm thực hiện ở
độ tin cậy 95%

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 10/2016 đến
tháng 4/2017 có 114 trường hợp thai đủ tháng
có ối vỡ non nhập bệnh viện Quận 2, trong đó
có 91 trường hợp phù hợp tiêu chuẩn nhận
vào nghiên cứu.
Độ tuổi trung bình của các thai phụ tham gia
nghiên cứu là 27,1 tuổi, lứa tuổi từ 25 đến 35 tuổi
chiếm đa số với 57,1% (Bảng 1). Thai phụ chủ
yếu sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh chiếm

58,2%, với trình độ học vấn chủ yếu học hết cấp
III chiếm 47,3%. Các thai phụ chủ yếu làm nội trợ
(40,7%) và công nhân (38,5%).
Tuổi thai trung bình là 39,1 tuần (Bảng 1). Số
thai phụ từng sinh con hơn 51%. Đa số thai phụ
lúc nhập viện có tình trạng thai bình thường với
chỉ số ối ≥ 8, chiếm 70,3%, Phần lớn thai phụ có
điểm Bishop lúc nhập viện < 5 điểm, chiếm 67%.
CTG nhóm I, chiếm 98,9%. Chỉ có 1 thai phụ có
tiền căn ối vỡ non, chiếm 1,1% và có 3 thai phụ
có viêm âm đạo trong thai kỳ, chiếm 3,3%.

82

Bảng 1. Đặc điểm về sản khoa của đối tượng tham gia
nghiên cứu (n=91)
Đặc điểm
Tuổi thai lúc nhập viện
37 - <40 tuần
40 - 41 tuần
Số lần sinh con
Con so
Con rạ
Tiền căn ối vỡ non

Không
Tiền căn sinh non

Không
Viêm âm đạo trong thai kỳ


Không
AFI
≤ 5 cm
6 - 7 cm
≥ 8 cm
Bishop lúc nhập viện
< 5 điểm
≥ 5 điểm
Tình trạng thai lúc nhập viện
CTG nhóm 1
CTG nhóm 2
CTG nhóm 3

Số trường hợp Tỷ lệ (%)
58
33

63,7
36,3

44
47

48,4
51,6

1
90


1,1
98,9

3
88

3,3
96,7

3
88

3,3
96,7

5
22
64

5,5
24,2
70,3

61
30

67,0
33,0

90

1
0

98,9
1,1
0

Đặc điểm về chuyển dạ
Có 83 thai phụ (91,2%) có chuyển dạ tự
nhiên, trong đó có 22 trường hợp (24,2%) cần
tăng co bằng oxytocin (Bảng 2). Thời gian từ lúc
ối vỡ đến lúc sinh trung bình là 12,85 giờ với
phần lớn nằm ở 6 đến 24 giờ (88%). Có 2 trường
hợp nhiễm trùng ối.
Tỷ lệ thành công sinh ngã âm đạo là 79,1%.
Trong 19 ca mổ lấy thai (20,9%) nguyên nhân bất
xứng đầu chậu và thai trình ngưng tiến chiếm
nhiều nhất với tỉ lệ 36,8% và 31,6%. Không có
trường hợp nào băng huyết sau sinh hay nhiễm
trùng hậu sản ở nhóm sinh thường lẫn sinh mổ.
Hầu hết trẻ sinh ra có tổng trạng bình thường và
apgar ≥ 7 chiếm 98,9%. Có 5 trường hợp được
chẩn đoán nhiễm trùng sơ sinh chiếm 5,5%.

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Bảng 2. Đặc điểm về chuyển dạ của đối tượng tham
gia nghiên cứu

Đặc điểm (n=91)

Số trường
hợp

Thời gian tiềm tàng
< 6 giờ
6 - 12 giờ
> 12 giờ
Thời gian từ lúc ối vỡ đến lúc sinh
< 6 giờ
6 - 12 giờ
> 12 - 24 giờ
> 24 giờ
Chuyển dạ
Tự nhiên
Khởi phát chuyển dạ
Sử dụng Oxytocin tăng co

Không
Sử dụng kháng sinh

Không
Số lần khám âm đạo từ nhập viện đến
lúc sinh
<4 lần
4 - 8 lần
> 8 lần
Nhiễm trùng ối


Không

49,4
38,5
12,1

8
37
43
3

8,8
40,7
47,3
3,3

83
8

91,2
8,8

22
69

24,2
75,8

46
45


50,5
49,5

7
78
6

7,7
85,7
6,6

2
89

2,2
97,8

Các yếu tố nguy cơ liên quan sinh mổ
Khi phân tích hồi quy logistic đơn biến,
chúng tôi nhận thấy các yếu tố làm tăng tỷ lệ mổ
lấy thai như: thời gian tiềm tàng (thời gian từ lúc
ối vỡ đến khi có chuyển dạ) > 12 giờ, thời gian
chuyển dạ > 12 giờ, có KPCD, có sử dụng kháng
sinh, nước ối lẫn phân su. Khi đưa các yếu tố này
và các yếu tố có p < 0,25 khi phân tích đơn biến
vào phân tích đa biến, chỉ còn lại 2 yếu tố có ý
nghĩa làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai (Bảng 3). Nhóm
thai phụ có thời gian tiềm tàng > 12 giờ có nguy
cơ mổ lấy thai gấp 56,03 lần so với nhóm < 6 giờ.

Nhóm thai phụ có thời gian từ chuyển dạ đến
lúc sinh từ 6 đến 12 giờ có nguy cơ mổ lấy thai
gấp 9,56 lần và trên 12 giờ có nguy cơ mổ lấy thai
gấp 145,9 lần so với nhóm < 6 giờ.

Bảng 3. Phân tích đa biến các yếu tố nguy cơ
Đặc điểm

Tỷ lệ
(%)

45
35
11

Nghiên cứu Y học

Số lần sinh
Con so

Sinh ngã âm đạo

Không
(n=72) (n=19)
31 (70,5)

13
1
(29,5)
41 (87,2) 6 (12,8) 0,35


Con rạ
Viêm âm đạo trong
thai kỳ
Không
71 (80,7)

Thời gian tiềm tàng
< 6 giờ
6 - 12 giờ
> 12 giờ
Thời gian từ
chuyển dạ đến lúc
sinh
< 6 giờ
6 - 12 giờ

OR

1 (33,3)

17
1
(19,3)
2 (66,7) 0,12

OR*

p


1
0,29 0,098

1
0,27 0,683

38 (84,4) 7 (15,6) 1
1
29 (82,9) 6 (17,1) 1,12 4,55 0,278
5 (45,5) 6 (54,5) 6,51 56,03 0,023

40 (87,0) 6 (13,0) 1
1
31 (73,8)
11
2,37 9,56 0,035
(26,2)
1 (33,3) 2 (66,7) 13,33 145,9 0,024

> 12 giờ
Thời gian từ lúc ối
vỡ đến lúc sinh
< 6 giờ
6 (75,0) 2 (25,0) 1
1
6 - 12 giờ
32 (86,5) 5 (13,5) 0,17 0,19 0,276
> 12 - 24 giờ
33 (76,7)
10

0,08 0,02 0,087
(23,3)
> 24 giờ
1 (33,3) 2 (66,7) 0,15 0,03 0,182
Sử dụng kháng
sinh
Không
40 (88,9) 5 (11,1) 1
1

32 (69,6)
14
3,50 1,18 0,855
(30,4)
Nhiễm trùng ối
Không
70 (80,5)
17
1
1
(19,5)

0 (0,0)
2
4,12 0,0 0,999
(100,0)
Khởi phát chuyển
dạ
Không
69 (83,1)

14
1
1
(16,9)

3 (37,5) 5 (62,5) 8,21 13,92 0,069
Nước ối lẫn phân
su
Không
72 (81,8)
16
1
(18,2)

0
3 (100) 5,50
0,999

BÀNLUẬN
Viêm âm đạo trong khi mang thai là nguyên
nhân thường gặp của ối vỡ non. Tuy nhiên, ở

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em

83


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018


nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ viêm âm đạo phát
hiện được khi mang thai chỉ chiếm 3,3%. Điều
này có thể do cỡ mẫu nhỏ và do thai phụ không
được tầm soát khi mang thai. Đây là điểm đáng
chú ý và cần quan tâm khi khám thai.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ thai
phụ khi nhập viện có cổ tử cung không thuận
lợi, Bishop < 5 điểm, chiếm 67% nhưng có tới
92,1% số thai phụ tự vào chuyển dạ tự nhiên,
hơn nữa trong nghiên cứu này tỉ lệ thai phụ đã
sanh được ngã âm đạo ít nhất 1 lần chiếm tới
51,2%. Do vậy, dù chỉ số Bishop khi nhập viện
thấp nhưng tỉ lệ sanh ngã âm đạo trong nghiên
cứu của chúng tối vẫn cao và không có sự ảnh
hưởng của tình trạng cổ tử cung khi nhập viện
lên tỉ lệ mổ lấy thai.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sinh
ngã âm đạo là 79,1% (72/91) trong đó sinh
thường là 76,9% và sinh giúp 2,2%.Theo nghiên
cứu của Nguyễn Phi Hùng năm 2007 đánh giá
hiệu quả của giục sinh bằng oxytocin trên ối vỡ
non ở thai trưởng thành cho thấy tỷ lệ sinh ngã
âm đạo chiếm 75,7% và sinh mổ là 24,3%(8).
Nghiên cứu của Vlora Ademi Ibishi năm 2015 về
cách sinh và kết cục thai kỳ ối vỡ non, kết quả là
tỷ lệ sinh ngã âm đạo là 72% cho cả 2 nhóm đủ
tháng và non tháng, nếu chỉ tính thai đủ tháng
thì tỷ lệ sinh ngã âm đạo là 76,8%(5). Theo tác giả
Tigist Endale năm 2016, đánh giá kết cục 185

trường hợp thai đủ tháng có ối vỡ non, tỷ lệ sinh
ngã âm đạo trong nghiên cứu của tác giả là
86,5%(2).Tỷ lệ sinh ngã âm đạo trong nghiên cứu
của chúng tôi cao hơn các tác giả có thể do đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi phần lớn là thai
phụ đã từng sinh con và tỷ lệ vào chuyển dạ tự
nhiên cao chiếm 91,2%.
Khi phân tích đơn biến, chúng tôi nhận thấy
có mối liên quan giữa sinh ngã âm đạo và thời
gian tiềm tàng, thời gian tiềm tàng càng dài thì
nguy cơ mổ lấy thai càng cao. Thời gian tiềm
tàng dưới 6 giờ có tỷ lệ sinh ngã âm đạo là 49,4%,
kế tiếp là từ 6 đến 12 giờ 38,5%, thấp nhất là trên
12 giờ chiếm 12,1%. Khi phân tích hồi quy đa
biến chúng tôi thu được kết quả: nhóm thời gian

84

tiềm tàng trên 12 giờ có nguy cơ mổ lấy thai tăng
gấp 56,03 lần so với nhóm thời gian tiềm thời
dưới 6 giờ (OR* = 56,03; P = 0,023). Theo nghiên
cứu của tác giả Tigist Endale năm 2015 ở 185
trường hợp ối vỡ non đủ tháng cho thấy nguy cơ
bất lợi cho mẹ tăng 5,6 lần khi ối vỡ hơn 12 giờ
chưa chuyển dạ. Thời gian tiềm tàng trên 24 giờ
liên quan tăng gấp 2,8 lần kết cục bất lợi cho mẹ
(OR = 2,8; 95%CI; 1,7 - 11,8) so với ít hơn 24 giờ(2).
Thời gian từ lúc bắt đầu chuyển dạ đến lúc
sinh rất quan trọng, liên quan đến kết cục sinh
được ngã âm đạo hay không, có thể phải mổ

lấy thai vì thời gian chuyển dạ kéo dài hay thai
trình ngưng tiến triển. Nhiều nghiên cứu để
đánh giá một cuộc chuyển dạ, theo dõi đến khi
nào thì chấm dứt thai kỳ và cần phải can thiệp;
nhất là đối với những thai kỳ có ối vỡ non nguy
cơ nhiễm trùng cho mẹ và thai. Thời gian từ
chuyển dạ đến lúc sinh kéo dài trong thai kỳ ối
vỡ non đồng nghĩa là thời gian từ ối vỡ đến lúc
sinh kéo dài, dựa trên những chứng cứ y văn
chúng tôi lấy các điểm cắt là 6 giờ, 12 giờ và 24
giờ là những mốc để có thể can thiệp vào
chuyển dạ. Qua nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận nhóm có thời gian từ lúc chuyển dạ đến
lúc sinh dưới 6 giờ chiếm tỷ lệ 55,6%; nhóm từ 6
giờ đến 12 giờ là 43% và nhóm trên 12 giờ là
1,4%.Sau khi khử yếu tố gây nhiễu chúng tôi
nhận thấy nhóm có thời gian từ lúc chuyển dạ
đến lúc sinh từ 6 đến 12 giờ có nguy cơ mổ lấy
thai gấp 9,56 lần so với nhóm có thời gian từ
chuyển dạ đến lúc sinh dưới 6 giờ (OR* = 9,56; P
= 0,035), và nhóm có thời gian từ lúc chuyển dạ
đến lúc sinh trên 12 giờ có nguy cơ mổ lấy thai
gấp 145,9 lần so với nhóm có thời gian từ
chuyển dạ dưới 6 giờ (OR* = 145,9; P = 0,024).
Theo nghiên cứu của tác giả Tigist Endale(2)
phân tích hồi quy đa biến về kết cục của mẹ và
thai cho thấy nguy cơ bất lợi cho mẹ tăng 5,6
lần khi ối vỡ trên 12 giờ (OR= 5,6; 95% CI 1,3 24,1); những thai phụ có khoảng thời gian ối vỡ
đến lúc sinh trên 24 giờ tăng nguy cơ bất lợi cho
mẹ 2,8 lần so với khoảng thời gian ối vỡ đến lúc

sinh dưới 24 giờ (OR=2,8, 95%CI 1,7 - 11,8). Như

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù
hợp với nghiên cứu của tác giả Tigist Endale.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5 trường
hợp có nhiễm trùng sơ sinh, chiếm 5,5%, có 2 ca
nhiễm trùng ối, chiếm 2,2%. Vì tỉ lệ nhiễm trùng
sơ sinh và nhiễm trùng ối quá ít nên chúng tôi
không thể phân tích các tỉ lệ này với những mối
liên quan khác như: thời gian ối vỡ đến lúc sinh,
thời gian tiềm tàng, phương thức sanh. Tỉ lệ
nhiễm trùng ối và nhiễm trùng sơ sinh thấp có
thể do trong dân số nghiên cứu có hơn 50% thai
phụ được sử dụng kháng sinh dự phòng, đa số
thai phụ có thời gian từ khi ối vỡ đến lúc sinh
<24 giờ (96,7%). Và không có trường hợp nào có
nhiễm trùng sau sanh.
Mặc dù có 8 trường hợp được KPCD và 22
trường hợp tăng co nhưng chúng tôi không có
trường hợp nào có băng huyết sau sanh (BHSS),
cả sanh mổ lẫn sanh thường. Điều này một phần
do cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ nên chưa bộc lộ
được sự khác biệt của tỉ lệ BHSS ở các nhóm.

Nghiên cứu này cùng với các nghiên cứu
trong y văn cho thấytỷ lệ sinh ngã âm đạo cao, tỷ

lệ nhiễm trùng ối và nhiễm trùng sơ sinh thấp.
Điều này giúp các bác sỹ lâm sàng vững tâm hơn
khi đối diện với thai phụ ối vỡ non đủ tháng.
Cần thiết tránh thời gian tiềm tàng kéo dài cũng
như hạn chế thời gian chuyển dạ để làm tăng tỷ
lệ thành công của sinh ngã âm đạo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

KẾT LUẬN
Tỷ lệ sinh ngã âm đạo với thai kỳ đủ tháng
có ối vỡ non là 79,1%, với tỷ lệ nhiễm trùng ối là
2,2% và tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh là 5,5%. Có 2
yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh ngã âm đạo
là thời gian tiềm tàng và thời gian từ chuyển dạ
đến lúc sinh. Cụ thể, thời gian tiềm tàng trên12
giờ làm tăng nguy cơ mổ lấy thai lên 56 lần so
với nhóm có thời gian tiềm tàng dưới 6 giờ. Thời
gian từ lúc chuyển dạ đến lúc sinh nằm trong
khoảng 6 đến 12 giờ và trên 12 giờ lần lượt làm
tăng tỷ lệ mổ lấy thai lên 9,56 lần và 145,9 lần khi

so với nhóm dưới 6 giờ.

Nghiên cứu Y học

6.
7.

8.

Charles, B (2014). “Premature rupture of membranes”. In:
Beckmann CRB (eds), Obstetrics and Gynecology. 7th ed,
pp.363-380. Lippincott Williams & Wilkins, Philadelphia, PA.
Endale T, et al (2016). “Maternal and fetal outcomes in term
premature rupture of membrane”. World J Emerg Med.
7(2):pp.147-52.
Gafni A, Goeree R, Myhr TL, et al, (1997). “Induction of labour
versus expectant management for prelabour rupture of the
membranes at term: an economic evaluation. TERMPROM
Study Group. Term Prelabour Rupture of the Membranes”.
Cmaj. 157(11):pp.1519-25.
Hannah M.E, Ohlsson A, Farine D, et al (1996). “Induction of
labor compared with expected management for prelabor
rupture of the membranes at term”. N Engl J Med.
334(16):pp.1005-1010.
Ibishi, VA, Isjanovska RD (2015). “Prelabour Rupture of
Membranes: Mode of Delivery and Outcome”. Open Access
Maced J Med Sci. 3(2):pp.237-40.
Lê Hồng Cẩm (2014). ‘Ối vỡ non”. In: Nguyễn Duy Tài (ed),
Sản khoa, pp.148-154. Nhà xuất bản Y Học, TPHCM.
Mozurkewich EL, Wolf FM (1997). “Premature rupture of

membranes at term: a meta-analysis of three management
schemes”. Obstet Gynecol. 89(6):pp.1035-43.
Nguyễn Phi Hùng (2007). “So sánh hiệu quả của giục sinh sớm
trong vòng 6 giờ với 12 giờ sau khi ối vỡ bằng Oxytocin ở thai
đủ tháng tại BVĐK tỉnh Bình Dương”. Luận văn chuyên khoa II,
chuyên ngành Sản Phụ khoa, pp48. Đại học Y Dược TP. HCM.

Ngày nhận bài báo:
Ngày nhận phản biện:

17/11/2017
25/12/2017

Ngày bài báo được đăng:

30/03/201

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em

85



×