Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Che phủ khuyết hổng phần mềm ngón chân cái bằng vạt mạch xuyên cuống liền từ nhánh nông của động mạch gan chân trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.83 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

CHE PHỦ KHUYẾT HỔNG PHẦN MỀM NGÓN CHÂN CÁI
BẰNG VẠT MẠCH XUYÊN CUỐNG LIỀN TỪ NHÁNH NÔNG
CỦA ĐỘNG MẠCH GAN CHÂN TRONG
Võ Thái Trung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề- mục tiêu: Chấn thương ngón chân cái hay gặp nhất ở phần đầu xa của ngón. Điều trị khuyết
hổng phần mềm ở đầu ngón chân cái gặp nhiều khó khăn do thiếu các vật liệu che phủ tại chỗ đáng tin cậy. Chúng
tôi trình bày một kỹ thuật ban đầu để che phủ và bảo tồn ngón chân cái.
Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Báo cáo ca lâm sang.05 trường hợp được báo cáo có khuyết hổng
phần mềm đầu xa của ngón chân cái. Chúng tôi đã dùng vạt mạch xuyên cuống liền từ nhánh nông của động
mạch gan chân trong để che phủ.
Kết quả: Đánh giá kết quả ban đầu sau 6 tháng theo dõi. Tất cả các vạt đều sống, ngón chân cái lành tổn
thương và có chức năng tốt.
Kết luận: Kỹ thuật mà chúng tôi đề xuất là một phương pháp điều trị đơn giản và hiệu quả cho những bệnh
nhân có khuyết hổng phần mềm ngón chân cái.
Từ khóa: vạt cánh quạt, tái tạo
ABSTRACT
SOFT TISSUE RECONSTRUCTION OF BIG TOE DEFECT WITH PEDICLED PERFORATOR FLAPS
OF THE SUPERFICIAL BRANCHES OF MEDIAL PHANTAR ARTERY
Vo Thai Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 320 - 324
Background-Objective: The distal of great toe was the most affective in the injured great toe. Wound
management is so difficult in this area because local flaps were unreliable. We present an original technique for
coverage of the injured great toe.
Materials and Methods: Cases study. Five cases with soft tissue defect of great toe, coverage with
perforator flaps from direct cutaneous arteries of the superficial branches of medial phantar artery
Results: were assessed at 6 months. All five flaps survived 100% and provided good normal functional of the
great toe.


Conclustion: There was a simple technique, effective technique for the patients withsoft tissue defect of great
toe.
Keywords: Propeller flaps; Reconstruction

ĐẶT VẤN ĐỀ

được sửa chữa thỏa đáng.

Chấn thương ngón chân cái hay gặp nhất ở
phần đầu xa của ngón. Điều trị khuyết hổng
phần mềm ở đầu ngón chân cái gặp nhiều khó
khăn do thiếu các vật liệu che phủ tại chỗ
đáng tin cậy. Thậm chí một khuyết hổng nhỏ
cũng trở thành một vấn đề lớn nếu không

Thông thường với những trường hợp
khuyết da không lộ gân xương sẽ được ghép
da rời và chấp nhận hạn chế (sẹo co rút, viêm
loét sẹo sau ghép da rời, giảm chức năng ngón
chân cái do mất tì đè...). Những trường hợp
khuyết da lộ gân xương thì chủ yếu bệnh nhân
được giải thích và cắt bỏ phần ngón chân bị

* Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương.
Tác giả liên lạc: BS. Võ Thái Trung ĐT: 0983616949
Email:

320

Chuyên Đề Ngoại Khoa



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

khuyết da, làm mỏm cụt.

Mô tả kỹ thuật

Vạt tự do và vạt mu chân ngược dòng đã
được mô tả, sử dụng rất nhiều trong che phủ
khuyết hổng ngón chân cái. Quá nhiều yêu
cầu kỹ thuật của 2 phương pháp này đã làm
quá trình điều trị trở nên khó khăn, mất nhiều
công sức của bệnh nhân và phẫu thuật viên.

Bộc lộ cuống mạch
Rạch da 3 cm từ chỏm xương bàn I về phía
cổ chân dọc theo bờ trên trong xương bàn I, vén
bảo vệ tĩnh mạch mu chân lên trên và ra phía
ngoài. Cắt mạc gan chân trong vào xương bàn I,
bóc tách các lớp ôm sát theo xương bàn về phía
gan chân bộc lộ cuống mạch của vạt. Cuống
mạch của vạt nằm ngay sát dưới xương bàn I,
cách chỏm xương bàn I khoảng 1,5 cm và nằm
ngay sát trên bao cơ của đầu trong cơ gấp ngắn
ngón chân cái (hình 1B). Chọn vị trí ra da của
cuống mạch (gốc cuống) làm điểm xoay để thiết
kế vạt da phù hợp.


Theo hiểu biết của chúng tôi thì chưa có
bất kỳ báo cáo nào về việc sử dụng vạt mạch
xuyên tại chỗ có hiệu quả. Chúng tôi thực hiện
vạt mạch xuyên từ nhánh nông của động
mạch gan chân trong cho 05 trường hợp, nhận
thấy phương pháp này đơn giản hơn rất nhiều
và cho kết quả tốt, nên chúng tôi trình bày lại
kỹ thuật của mình đã làm và đề xuất áp dụng
rộng rãi.

A

B

Hình 1 (A). Nhánh xuyên nuôi da của ĐMGCT. (B) Bộc lộ cuống mạch máu của vạt.

Thiết kế vạt và lấy vạt
Bóc tách tiếp về phía cổ chân, lấy bờ dưới
xương bàn I làm trục đến đủ chiều dài vạt cần
lấy. Vạt có thể được lấy dưới dạng đảo da hay
bán đảo da. Vạt được lấy có hình dạng giống
như tổn thương cần che phủ và kích thước lớn
hơn kích thước tổn thương cần che phủ # 10%.
Chiều dày vạt lấy hết các lớp của da đến sát
xương bàn I. Bề rộng cuống dọc chiều dài từ vạt
đến điểm xoay vạt được lấy rộng 1,5 cm.
Rạch đường đi cho cuống vạt từ điểm xoay
vạt đến nơi tổn thương, có thể không rạch da mà
tách mô mềm dưới da tạo đường hầm để luồn

qua.

Chuyên Đề Ngoại Khoa

KẾTQUẢVÀTRÌNHBÀYCALÂMSÀNG
Một số đặc điểm
Có 4/5 bệnh nhân khuyết da ở phần xa
nhất của ngón chân cái được che phủ, chiều
dài cả vạt trung bình 8 cm, phần vạt được lấy
khá xa so với gốc của cuống mạch vạt, tất cả
các vạt đều được cấp máu đầy đủ và sống
hoàn toàn.
Ở những trường hợp vạt da được lấy có
kích thước chiều rộng < 2,5 cm thì chúng tôi
đóng da chỗ lấy vạt được nhưng vết khâu
căng. Chúng tôi nhận thấy những trường hợp
lấy chiều rộng > 2,5 cm sẽ cần ghép da mỏng
bổ sung chỗ lấy vạt.

321


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

Da của ngón chân cái tại vùng xoay của
cuống vạt không đủ co dãn và mềm mại cho
việc tạo đường hầm để luồn vạt. Tất cả các


trường hợp của chúng tôi đều phải tách da và
khâu trượt một ít 2 mép da để tránh căng ép
lên cuống vạt.

Bảng 1. Thông tin về bệnh nhân và vạt da
STT

Giới tính

1
2
3
4
5

Nam
Nam
Nam
Nữ
Nam

Tuổi Nguyên nhân Bên
21
44
36
21
14

TNGT
TNLĐ

TNGT
Bỏng
TNGT

P
P
T
P
T

Vị trí tổn thương trên Kích thước tổn Kích thước đảo Chiều dài
ngón chân cái
thương (cm x cm) da (cm x cm) cuống (cm)
Mặt lưng đầu xa
2x3
2x4
4
Mặt lòng đầu xa
2,5 x 3
2,5 x 4
4
Mặt bên đầu xa
2,5 x 3
2,5 x 4
4
Mặt lòng đốt 1
1,5 x 1,5
1,5 x 2
3,5
Mặt bên đầu xa

2x3
2x4
4

Bảng 2. Phần tiếp
STT

Đóng da nơi
lấy vạt

Biến chứng

1
2
3
4
5

Trực tiếp
Trực tiếp
Trực tiếp
Trực tiếp
Trực tiếp

Không
Không
Không
Không
Không


Thời gian phẫu thuật
(Phút)
43
66
71
55
68

Thời gian mổ bao gồm cả việc cắt lọc lại vết
thương, lấy vạt che phủ và đóng da. Chúng tôi
chỉ mất 71 phút cho trường hợp dài nhất (ca 3).
Hai trường hợp có tổn thương mặt lòng của
ngón chân cái (ca 2, 4) có thể đi lại chịu tì đè sau
4 tuần, các trường hợp khác trở lại sinh hoạt bình
thường sớm hơn.

Thời gian nằm viện
(Ngày)
5
5
7
5
6

Thời gian có thể đi lại
sau mổ (tuần)
2
4
3
3

4

Ca lâm sàng

Ca 3.
Bệnh nhân nam 36 tuổi có tổn thương mài
mòn ngón chân cái bên (T) do tai nạn giao thông.
Phần tổn thương bao gồm mất dọc nửa xương
đốt gần, khớp liên đốt và đốt xa.

Hình 2. Sử dụng vạt che phủ mặt bên của ngón chân cái.
cùng bên che phủ. Kích thước vạt được lấy 2,5
Chúng tôi sử dụng vạt mạch xuyên từ
x 4 cm, chiều dài cuống được thiết kế là 4 cm.
nhánh nông của động mạch gan chân trong

322

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Vạt được xoay theo chiều kim đồng hồ 180
độ. Chỗ lấy vạt được đóng da kỳ đầu. Vạt
sống hoàn toàn. Ngón chân cái lành vết
thương (hình 2), không đau và có đầy đủ chức
năng.

Ca 2.


Nghiên cứu Y học

Bệnh nhân nam 44 tuổi, bị khuyết da mặt
lòng đầu ngón chân cái bên (P) do tôn cắt. Phần
khuyết đến sát xương đốt xa. Bệnh nhân được
che phủ tổn thương bằng vạt mạch xuyên từ
nhánh nông của động mạch gan chân trong cùng
bên. Vừa điều trị lành vết thương vừa cung cấp
đầy đủ mô mềm đệm đỡ cho vùng tì đè của đầu
ngón chân cái (hình 3).

Hình 3. Sử dụng vạt che phủ mặt lòng đầu xa ngón chân cái.

BÀN LUẬN
Chưa có bất kỳ đề xuất nào về việc sử dụng
vạt mạch xuyên tại chỗ để che phủ ngón chân
cái, đặc biệt là che phủ phần xa của ngón. Chúng
tôi đã dùng vạt mạch xuyên từ nhánh nông của
động mạch gan chân trong cho 05 trường hợp.
Qua theo dõi, chúng tôi cảm thấy phương pháp
này thật sự hiệu quả. Phần vạt da được lấy rất
linh hoạt, có thể lấy về phía mặt lưng hay mặt
lòng ở vùng cổ chân sao cho có cấu trúc giải
phẫu gần giống nhất với phần da cần tái tạo của
ngón chân cái. Phương pháp của chúng tôi đơn
giản hơn rất nhiều so với vạt tự do, vì không cần
ghép nối mạch máu vi phẫu. Do đó nó giúp làm
giảm thời gian phẫu thuật và nguy cơ huyết
khối, giảm công sức chăm sóc sau mổ và chi phí
điều trị.


Chuyên Đề Ngoại Khoa

Vạt không gây tổn thương mạch máu, không
gây ảnh hưởng tuần hoàn hay thần kinh quan
trọng nào ở bàn chân (không phá vỡ các vòng
tuần hoàn trước, sau, trong, ngoài và hay các
vòng nối quai gan – mu chân, cung gan chân
nông và sâu, chày mác – trước và sau…). Sẹo vết
mổ không thuộc vùng cần sự co dãn da khi vận
động và nằm tiếp giáp với gan chân nên cho tính
thẩm mỹ cao. Chiều rộng vạt da lấy > 2,5 cm có
thể không đóng da được chỗ cho vạt trực tiếp thì
có thể ghép da mỏng dễ dàng.
Cơ sở cấp máu của vạt khi chiều dài cả vạt
khá xa so với gốc cuống vạt là nhờ sự thông nối
của các nhánh xuyên nuôi da dọc theo đường đi
của nhánh nông động mạch gan chân trong (có >
93% các trường hợp nhánh nông động mạch gan
chân trong cho ra từ 2 nhánh xuyên nuôi da mu
chân và 2 nhánh xuyên nuôi da gan chân trở

323


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

lên). Tuy nhiên phạm vi cấp máu cho da tối đa

của vạt (chiều rộng và chiều dài tối đa của vạt)
thì chúng tôi chưa xác định được.
Cuống vạt dài là điểm thuận lợi cho xoay vạt
và che phủ ở đầu xa của ngón chân cái. Vạt cũng
được dùng để che phủ phía gan chân hoặc
những vùng lân cận. Đối với bệnh nhân tiểu
đường, vạt này có thể rất hữu ích do bảo tồn
được các mạch máu lớn nuôi dưỡng bàn chân.

4.

5.

6.

7.

KẾT LUẬN
Kỹ thuật mà chúng tôi đề xuất là một
phương pháp điều trị đơn giản và hiệu quả cho
những bệnh nhân có khuyết hổng phần mềm
ngón chân cái.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.


324

Blondeel PN, Van Landuyt K, Hamdi M, Monstrey SJ.
(2003). Perforator flap terminology: update 2002. Clin Plast
Surg, 30:343-346.
Governa M, Barisoni D (1996). Distally based dorsalis pedis
island flap for a distal lateral electric burn of the big toe.
Burns. J Int Soc Burn Inj, 22(8): 641–3.
Hayashi A, Maruyama Y (1993). Reverse first dorsal
metatar-sal artery flap for reconstruction of the distal foot.
Ann Plast Surg, 31(2):117–22.

8.
9.

10.

Jakubietz RG, Jakubietz MG, Gruenert JG, Jakubietz MG
(2007). The 180-degree perforator-based propeller flap for
soft tissue coverage of the distal, lower extremity: a new
method to achieve reliable coverage of the distal lower
extremity with a local, fasciocutaneous perforator flap. Ann
Plast Surg, 59:667-671.
Katsaros J, Schusterman M, Beppu M, Banis Jr JC, Acland
RD. (1984). The lateral upper arm flap: anatomy and clinical
applications. Ann Plast Surg, 12(6):489–500.
Nguyễn Tiến Lý. (1996). Nghiên cứu giải phẫu vạt gan chân
trong và ứng dụng điều trị khuyết hỏng phần mềm vùng cổ
chân và gót chân. Luận án tiến sỹ: 5-7.
McCraw JB, Furlow Jr LT (1975). The dorsalis pedis

arterialized flap. A clinical study. Plast Reconstruct Surg,
55(2):177–85.
Rivet D, Buffet M, Martin D, et al. (1987). The lateral arm
flap: an anatomic study. J Reconstr Microsurg, 3(2):121–32.
Sakai S (1993). A distally based island first dorsal metatarsal
artery flap for the coverage of a distal planta defect. Br J Plast
Surg, 46(6):480–2.
Wei FC, Celik N (2003). Perforator flap entity. Clin Plastic
Surg, 30:325-329.

Ngày nhận bài báo:

15/11/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/11/2017

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2018

Chuyên Đề Ngoại Khoa



×