Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm bệnh nhân gút điều trị nội trú tại khoa nội cơ xương khớp Bệnh viện Thống Nhất tp.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.75 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN GÚT ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ
TẠI KHOA NỘI CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT TP.HCM
Nguyễn Thị Huệ*, Nguyễn Thị Thu Thủy*, Huỳnh Thị Xuân Minh*

TÓM TẮT
Gút là một bệnh lý khớp viêm thường gặp, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân nhưng
chưa được quan tâm đúng mức.
Mục tiêu: đặc điểm bệnh nhân (BN) gút điều trị nội trú tại khoa Nội Cơ Xương Khớp (CXK), bệnh viện
Thống Nhất (BVTN)
Phương pháp: mô tả cắt ngang
Đối tượng: Bệnh nhân có chẩn đoán gút, điều trị nội trú tại khoa Nội CXK, BVTN từ 12/2015 đến 03/2016
Kết quả: 78,4% bệnh nhân (BN) có tuổi từ 60 trở lên, 97,3% là nam. 75,7% bn có học vấn từ cấp 3 trở lên,
97,3% BN có mức sống trung bình khá. 86,5% BN có bệnh lý rối loạn chuyển hóa, tim mạch, bệnh thận mạn đi
kèm. 86,5% BN có hiểu biết về bệnh gút nhưng chỉ 29,7% BN điều trị bệnh liên tục. Ăn nhiều đạm, uống nhiều
rượu bia là những yếu tố thúc đẩy được bn biết đến nhiều nhất (94,6% và 83,3%). 83,8% BN có nồng độ axit
uric máu trên 360µmol/L.
Kết luận: BN gút phần lớn là nam giới, có tuổi, có nhiều bệnh lý đi kèm. Mặc dù đa số BN có trình độ học
vấn khá, mức sống tốt và có hiểu biết về bệnh gút nhưng việc điều trị vẫn không đầy đủ, không đạt ngưỡng axit
uric máu mục tiêu.
Từ khóa: bệnh gút, axit uric

ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF GOUT IN-PATIENTS AT THE DEPARTMENT OF RHEUMATOLOGY,
THONG NHAT HOSPITAL
Nguyen Thi Hue, Nguyen Thi Thu Thuy, Huynh Thi Xuan Minh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 6 - 2016: 120 - 124
Objective: characteristics of gout in-patients at the Department of Rheumatology, Thong Nhat hospital.


Method: cross - sectional descriptive
Subjects: patients with gout diagnosis treated at the Department of Rheumatology, Thong Nhat hospital,
from Dec 2015 to Mar 2016.
Results: 78.4% of patients aged 60 or more, 93.7% were male. 75.7% had education from grade 3 or higher,
97.3% had average-or-more income. 86.5% had metabolic disorders, cardiovascular diseases, and/or chronic
kidney disease. 86.5% had knowledge of gout but only 29.7% got continuous treatment. Consuming too much
proteins and alcohol were the best known risk factors, 94.6% and 83.3%, respectively. 83.8% had serum uric acid
above 360µmol/L.
Conclusion: the majority of gout patients were old aged men having comorbidities. Most of the patients were
well educated, had good income and were knowledgeable about gout, but the treatment was ineffective and the
level of uric acid were above 360µmol/ L in the most cases.
Keywords: gout, uric acid
* Khoa Nội Cơ Xương Khớp, Bệnh viện Thống Nhất
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Huệ
ĐT: 38642142

120

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gút là bệnh khớp viêm thường gặp, liên
quan đến rối loạn chuyển hóa purine, làm tăng
axit uric máu và lắng đọng tinh thể urate ở các
mô cơ thể.
Bệnh làm tổn thương khớp, gây đau đớn,

làm giảm chất lượng sống của bệnh nhân. Bệnh
có thể chữa được, nhưng chưa được quan tâm
đúng mức và kết quả điều trị thường kém.
Cùng với sự phát triển của xã hội, tốc độ đô
thị hóa, tuổi thọ gia tăng, ti lệ tăng axit uric và tỉ
lệ mắc bệnh gút tăng trên toàn cầu. Tỉ lệ mắc
bệnh chung trên toàn thế giới là 1% - 10%. Việt
Nam chưa công bố tỉ lệ mắc bệnh, nhưng theo
một số nghiên cứu trong nước năm 2000, tỷ lệ
bệnh là 0,14%(9), năm 2011 là 0,16-1,36%(4).
Trong điều trị gút, ngoài cắt và ngừa cơn gút
cấp, cần ổn định axit uric máu ở ngưỡng mục
tiêu. Để đạt mục tiêu điều trị, các biện pháp
không dùng thuốc quan trọng không kém việc
dùng thuốc(5,8).
Mục tiêu nghiên cứu: đặc điểm về tuổi, giới,
học vấn, mức sống, bệnh đi kèm, kiến thức về
bệnh gút, axit uric máu của bệnh nhân gút điều
trị nội trú tại khoa Nội Cơ Xương Khớp, bệnh
viện Thống Nhất.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có chẩn đoán gút theo tiêu chuẩn
Bennett-Wood năm 1968 điều trị nội trú tại khoa
Nội Cơ Xương Khớp từ 12/2015 đến 03/2016

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không hợp tác, bệnh nặng


Phương pháp nghiên cứu
Mô tả, cắt ngang

Thu thập số liệu
Chọn bệnh, ghi nhận tuổi, giới, trình độ học
vấn, kinh tế gia đình
Khai thác bệnh sử, tiền sử
Ghi nhận các bệnh lý đi kèm: tăng huyết áp,

Nghiên cứu Y học

bệnh tim thiếu máu cục bộ, rối loạn lipid máu,
đái tháo đường, bệnh thận mạn
Sử dụng bảng câu hỏi, bệnh nhân tự trả lời
hoặc nhờ sự giúp đỡ của người thân, khai thác
sự hiểu biết của bệnh nhân về bệnh gút: chẩn
đoán, điều trị, yếu tố thúc đẩy bệnh
Xt nghiệm axit uric máu sáng sớm lúc đói.
Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm SPSS, phép
kiểm có ý nghĩa khi p < 0,05

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Có 37 bệnh nhân

Tuổi
Nhỏ nhất 38, lớn nhất 96, trung bình 70,8 ±
13,5. Nhóm tuổi: ≥ 60 có 29 bệnh nhân (78,4%), <
60 có 8 bệnh nhân (21,6%)
Giới

Nam có 36 bệnh nhân (97,3%), nữ có 1 bệnh
nhân (2,7%)
Học vấn
≥ cấp 3 có 28 bệnh nhân (75,7%), ≤ cấp 2 có 9
bệnh nhân ( 24,3%)
Mức sống
Trung bình, khá có 36 bệnh nhân (97,3%),
nghèo có 1 bệnh nhân (2,7%)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi
gặp nhiều nhất là trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ 78,4%,
nam giới chiếm đa số (97,3%). Tương tự với một
số nghiên cứu trong và ngoài nước(1,3), bệnh gút
thường xảy ra ở nam giới có tuổi.

Bệnh lý đi kèm
Có 5/37 (13,5%) bệnh nhân không có bệnh lý
đi kèm.
Có 32/37 (86,5%) bệnh nhân có ít nhất một
bệnh lý đi kèm.
Bệnh lý đi kèm thường gặp nhất là tăng
huyết áp chiếm tỷ lệ 64,9%, kế đến là bệnh
thận mạn, bệnh tim thiếu máu cục bộ, rối loạn
lipid máu và đái tháo đường (51,4% 45,9%
40,5% và 29,7%).

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016

121



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016

Nghiên cứu Y học
Bảng 1: Các bệnh lý đi kèm
Bệnh đi kèm

Tăng huyết áp

Đái tháo đường

Số bệnh nhân
Tỉ lệ trong cả mẫu

24
64,9%

11
29,7%

Bệnh tim thiếu máu
cục bộ
17
45,9%

Tăng axit uric và gút, cùng với béo phì, tăng
huyết áp, rối loạn lipid máu, đề kháng insulin, là
những thành phần của hội chứng chuyển hóa.
Một số nghiên cứu khác cho thấy các biến cố tim
mạch là nguyên nhân tử vong hàng đầu của
bệnh nhân gút (2,4,10) , và gút cũng là yếu tố

nguy cơ độc lập của bệnh lý tim mạch. Ngoài

Rối loạn lipid máu

Bệnh thận mạn

15
40,5%

19
51,4%

tăng huyết áp, tăng axit uric và gút còn liên quan
mạnh đến bệnh thận mạn(1,2,7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, một tỉ lệ
khá cao bệnh nhân gút có tăng huyết áp, bệnh
thận mạn, có thể do đối tượng bệnh nhân là
người có tuổi chiếm đa số.

Bảng 2: Các bệnh lý đi kèm phân bố theo nhóm tuổi
Bệnh đi kèm

Tăng huyết áp
Số bn
Tỉ lệ
Số bn
Tỉ lệ

≥ 60
Nhóm tuổi

< 60

22
59,5%
2
5,4%
0,008

p

Đái tháo
đường
10
27%
1
2,7%
0,228

Nhận xét: So với nhóm tuổi dưới 60, bệnh
nhân gút thuộc nhóm tuổi từ 60 trở lên thường
có tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ,
bệnh thận mạn đi kèm. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05)

Kiến thức về gút
86,5% bệnh nhân có hiểu biết về bệnh gút
nhưng chỉ có 29,7% điều trị bệnh liên tục.
Bảng 3: Kiến thức về bệnh gút
Số bệnh nhân
Tỉ lệ trong cả mẫu


Hiểu biết về gút
32
86,5%

Điều trị liên tục
11
29,7%

Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa phần
bệnh nhân có trình độ học vấn từ cấp ba trở
lên (75,7%), có sự hiểu biết về bệnh gút
(86,5%), tuy nhiên chỉ có 29,7% bệnh nhân là
điều trị bệnh liên tục. Theo một nghiên cứu
nước ngoài với hơn 1,3 triệu bệnh nhân tham
gia đã chứng minh tỉ lệ tuân thủ điều trị bệnh
gút đạt mức thấp nhất so với các bệnh lý mạn
tính khác như tăng huyết áp, đái tháo đường,

Bệnh tim thiếu máu
cục bộ
17
45,9%
0
0%
0,003

Rối loạn lipid
máu
12

32,4%
3
8,1%
0,843

Bệnh thận mạn
19
51,4%
0
0%
0,001

rối loạn lipid máu, loãng xương, và suy
giáp(10). Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra
rằng có tới hơn một nửa số bệnh nhân gút
không được tiếp cận thuốc hạ axit uric máu,
không nghĩ gút là bệnh mạn tính cần điều trị
lâu dài, thiếu hiểu biết về tình trạng bệnh.
Nhiều bệnh nhân không được tư vấn về thay
đổi lối sống trong điều trị gút(1,6). Không ít
bệnh nhân gặp bác sĩ chỉ để giải quyết cơn gút
cấp mà không quan tâm nhiều đến những tác
động lâu dài của nồng độ axit uric máu tăng
cao. Họ thường chú ý đến những bệnh lý khác
như đái tháo đường, tăng huyết áp,…Còn
bệnh gút thường ít được quan tâm tới. Nhiều
chuyên gia đã khuyến cáo giáo dục sớm là
chìa khóa trong quản lý gút. Các bác sĩ là
người mà sau khi đã xử lý cơn gút cấp cần
phải giáo dục cho bệnh nhân về tình trạng

bệnh và sự cần thiết phải điều trị liên tục để
đạt được nồng độ axit uric máu mục tiêu(3).

Bảng 4: Hiểu biết về các yếu tố thúc đẩy bệnh gút
Yếu tố thúc đẩy
Số bệnh nhân
Tỉ lệ trong mẫu

122

Ăn nhiều đạm Uống rượu bia Uống ít nước Ít vận động và béo phì Dùng một số thuốc
35
31
14
16
1
94,6%
83,3%
37,8%
43,2%
2,7%

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
Nhận xét: Trong những yếu tố thúc đẩy làm
tăng nặng bệnh gút, ăn nhiều đạm, uống nhiều
rượu bia là những yếu tố được bệnh nhân biết
đến nhiều nhất (94,6% và 83,3%). Uống ít nước,

dùng một số thuốc là những yếu tố ít được bệnh
nhân biết đến (37,8% và 2,7%)
Đã có nhiều nghiên cứu nói đến vai trò của
các yếu tố nguy cơ gây bệnh gút. Các lý do
làm gia tăng tỉ lệ mắc bệnh gút liên quan đến
sự phát triển của xã hội, thay đổi lối sống, chế
độ ăn quá nhiều đạm làm tăng nồng độ axit
uric máu. Tuổi thọ của con người gia tăng, tỉ lệ
mắc bệnh gút tăng theo. Có tới 75-84% bệnh
nhân gút uống rượu bia thường xuyên trung
bình từ 7-10 năm. Những người ít vận động,
béo phì, thừa cân làm tăng nguy cơ mắc bệnh
gút lên gấp 5 lần so với những người không
béo phì(8). Việc sử dụng một số thuốc, như
thuốc lợi tiểu, góp phần làm tăng axit uric
máu, thúc đẩy xuất hiện cơn gút cấp(5,8,3).

Nghiên cứu Y học

Axit uric máu
Nồng độ axit uric máu: thấp nhất 126µmol/L,
cao nhất 749µmol/L, trung bình 465,08 ± 130,17
µmol/L
Bảng 5: Nồng độ axit uric máu
Axit uric máu
Số bệnh nhân
Tỉ lệ trong cả mẫu

≤ 300 µmol/L
6

16,2%

≥ 360µmol/L
31
83,8%

Nhận xét: Có 83,8% bệnh nhân gút có nồng
độ axit uric máu ≥ 360µmol/L, chỉ có 16,2% bệnh
nhân đạt nồng độ axit uric máu ≤ 300 µmol/L
Đa số bệnh nhân có nồng độ axit uric máu ≥
360µmol/L, chứng tỏ việc điều trị gút không đạt
yêu cầu. Nhiều nghiên cứu khác cũng đi đến kết
luận hơn 50% bệnh nhân gút không đạt ngưỡng
axit uric máu mục tiêu với nhiều lý do khác
nhau, chủ yếu là do bệnh nhân không tuân thủ
điều trị, quên uống thuốc, bận công việc và do
bác sĩ không giải thích cho bệnh nhân rõ tầm
quan trọng của việc đạt và duy trì ngưỡng axit
uric máu mục tiêu(1,6,7).

Bảng 6: Nồng độ axit uric máu theo tuổi
≥ 60
Nhóm tuổi
< 60

Axit uric máu
Số bệnh nhân
Tỉ lệ trong cả mẫu
Số bệnh nhân
Tỉ lệ trong cả mẫu


Nhận xét: Số bệnh nhân ≥ 60 tuổi có nồng
độ axit uric máu ≥ 360µmol/L chiếm đa số, tuy
nhiên không có sự khác biệt giữa hai nhóm
tuổi (p > 0,05).
Điều này cho thấy việc điều trị gút không đạt
yêu cầu xảy ra ở đối tượng bệnh nhân trẻ tuổi
cũng như bệnh nhân có tuổi.
Nhiều khuyến cáo (EULAR, ACR) đã được
đưa ra, đều thống nhất kiểm soát axit uric máu là
mục tiêu của điều trị gút. Đưa axit uric máu về
mức mục tiêu và duy trì kết quả lâu dài, đồng
nghĩa với việc sử dụng thuốc hạ axit uric máu
liên tục và đều đặn như viêc kiểm soát bệnh tăng
huyết áp và đái tháo đường.

≤ 300 µmol/L
4
10,8%
2
5,4%

≥ 360µmol/L
25
67,6%
6
16,2%

p


0,59

KẾT LUẬN
Bệnh nhân gút phần lớn là nam giới (97,3%),
tuổi từ 60 trở lên (78,4%), có nhiều bệnh lý đi
kèm, đặc biệt là tăng huyết áp (64,9%) và bệnh
thận mạn (51,4%). Mặc dù đa số bệnh nhân có
trình độ học vấn cấp 3 và cao hơn (75,7%), mức
sống từ trung bình khá trở lên (97,3%), có hiểu
biết về bệnh gút (86,5%) nhưng chỉ có một số ít
bệnh nhân điều trị bệnh liên tục (29,7%). Đa số
bệnh nhân không đạt được nồng độ axit uric
máu mục tiêu (83,8%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

Becker M A, Jolly M, (2006), “Hyperuricemia and associated
disease”, Rheum Dis Clin North Am, 32, p.275.
Joo K, Kwon SR, Lim MJ, Jung KH, Joo H, Park W, (2014),
“Prevention of comorbidity and acute attack of gout by uric
acid lowering therapy”, J Korean Med Sci, 29, p.657-661.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016

123


Nghiên cứu Y học

3.
4.
5.

6.
7.

8.

124

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016

Neogi T (2011), “Gout”, The New England Journal of Medicine,
3646, p.443-452.
Nguyễn Thị Ngọc Lan, (2011), “Bệnh gút”, Bệnh học Cơ Xương
Khớp nội khoa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, tr.189-212.
Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Vĩnh Ngọc, (2002), "Kiểm soát
các yếu tố nguy cơ gây rối loạn chuyển hoá axit uric trong
bệnh nhân gút", Tạp chí Y học nội tiết và các rối loạn chuyển hóa,
6, tr.11.
Pascual E, Sivera F, (2007), “Why is gout so poorly
managed?”, Ann Rheum Dis, 66, p.1269-1270.
Perez RF, Martinez-IL, Carmona L et al. (2014), “Tophaceous
gout and high level of uricaemia are both associated with
increased risk of mortality in patients with gout”, Ann Rheum
Dis, 73, p.177-182.
Trần Ngọc Ân, Tạ Diệu Yên, Trần Đức Thọ, (2001), "Bước đầu
tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ gây bệnh ở bệnh nhân gút tại
khoa Khớp bệnh viện Bạch Mai", Proceeding 6th RAA Congress

of Rheumatology, 7.

9.

10.

Trần Thị Minh Hoa, Darmawan, Cao Thị Nhi, Tạ Diệu Yên,
Nguyễn Văn Hùng, Vũ Đình Chính, Trần Ngọc Ân, (2002),
“Tình hình bệnh cơ xương khớp ở hai quần thể dân cư Trung
Liệt (Hà Nội) và Tân Trường (Hải Dương)”, Công trình nghiên
cứu khoa học 2001 – 2002, Nhà xuất bản Y học, tập 1, tr.361 –
367.
Wise E, Khanna PP, (2015), “The impact of gout guidelines”,
Curr Opin Rheumatol, 27(3), p. 225-230.

Ngày nhận bài báo:

08/09/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

18/09/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/11/2016

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016




×