Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá hiệu quả của việc chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống tại Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.03 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI KHÁNG SINH
TỪ ĐƯỜNG TIÊM SANG ĐƯỜNG UỐNG
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hà Nguyễn Y Khuê*, Huỳnh Thị Hoài Thu*, Trần Hoàng Tiên*, Đặng Nguyễn Đoan Trang*,**

TÓMTẮT
Mở đầu: Chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm (IV) sang đường uống (PO) là hoạt động trong
chương trình giám sát sử dụng kháng sinh và đã được chứng minh là hiệu quả, an toàn và tiết kiệm
chi phí. Do đó chúng tôi xây dựng hướng dẫn chuyển đổi đường dùng kháng sinh và tiến hành nghiên
cứu đánh giá hiệu quả của việc chuyển đổi này.
Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của việc chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh với các
mục tiêu: so sánh tỷ lệ chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh từ IV sang PO; thời gian điều trị
kháng sinh IV và PO; thời gian nằm viện; chi phí kháng sinh trước và sau can thiệp.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả, so sánh 2 giai đoạn trước can thiệp (01/06 15/07/2017) và sau can thiệp (01/01 – 30/06/2018) tại Khoa Hô hấp, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh. Hình thức can thiệp: ban hành và hướng dẫn áp dụng chuyển đổi kháng sinh từ đường
tiêm sang đường uống; can thiệp trực tiếp của dược sĩ trên hồ sơ bệnh án điện tử ở những trường hợp
đủ tiêu chuẩn chuyển đổi. Tiêu chuẩn chọn mẫu là những trường hợp viêm phổi cộng đồng hoặc viêm
phế quản cấp có nhiễm khuẩn, có sử dụng kháng sinh trong danh mục được phép chuyển đổi. Bệnh
nhân bị loại ra khỏi nghiên cứu nếu không đủ các tiêu chuẩn chuyển đổi từ IV sang PO. Tiêu chuẩn
chuyển đổi đường dùng kháng sinh dựa theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Số liệu được thống kê mô tả bằng
phần mềm SPSS 22.0.
Kết quả: Số lượng bệnh nhân thoả tiêu chuẩn chọn và loại mẫu ở hai giai đoạn lần lượt là 20 và
67. Tỷ lệ chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh từ IV sang PO trước và sau can thiệp lần lượt là
5% và 40,3%, p < 0,001. Tỷ lệ về thời gian điều trị kháng sinh (IV:PO) trước can thiệp là (63,1% :
36,9%) so với sau can thiệp (52,1% : 47,9%), p = 0,002. Thời gian nằm viện (ngày) trước và sau can
thiệp lần lượt là 9,3 ± 2,7 và 7,5 ± 2,8, p = 0,014. Chi phí kháng sinh IV (1.000 VNĐ) trước can thiệp
là 2,508 ± 1,597 so với sau can thiệp là 2,781 ± 1,537, p = 0,492.


Kết luận: Áp dụng hướng dẫn chuyển đổi đường dùng kháng sinh từ IV sang PO giúp tăng tỷ lệ
chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh, giảm tỷ lệ về thời gian điều trị kháng sinh (IV : PO) và thời
gian nằm viện.
Từ khóa: chuyển đổi kháng sinh, đường tiêm, đường uống, thời gian điều trị, chi phí điều trị,
thời gian nằm viện

*

Khoa Dược, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS TS. Đặng Nguyễn Đoan Trang
ĐT: 0909907976
**

170

Email:

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

ABSTRACT
OUTCOMES OF EARLY SWITCHING FROM INTRAVENOUS TO ORAL ANTIBIOTICS
AT UNIVERSITY MEDICAL CENTER HOCHIMINH CITY
Ha Nguyen Y Khue, Huynh Thi Hoai Thu, Tran Hoang Tien, Dang Nguyen Doan Trang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 170 – 177

Introduction: Switching from intravenous (IV) to oral (PO) antibiotics is one of the activities in the
antimicrobial stewardship programs and is proven as an effective, safe and cost-saving solution. Hence, we
developed the protocol of early switching from IV to PO and then studied the effectiveness of applying the protocol.
Objectives: To access the effectiveness of early switching antibiotics from IV to PO with these specific
objectives: comparing the ratio of switching, duration of IV and PO antibiotics use, length of hospital stay
and antibiotics cost before and after intervention.
Methods: We conducted a cross-sectional study at Respiratory Department, University Medical
Center Ho Chi Minh city comparing outcomes before (01/06 - 15/07/2017) and after intervention (01/01 –
30/06/2018). Types of intervention included establishing and applying switching antibiotics guideline,
clinical pharmacists’ direct intervention on eligible cases. Inclusion criteria included patients with
community-acquired pneumonia or acute bacterial bronchitis using antibiotics accepted for IV to PO
conversion. Patients were excluded from the study if they did not meet the criteria for conversion from IV to
PO based on the guidance of the Ministry of Health. Data was analyzed using SPSS 22.0.
Results: Twenty and sixty seven patients meeting inclusion criteria before and after intervention
respectively were included into the study. The ratio of early switching antibiotics from IV to PO before
and after intervention was 5% vs 40.3%, respectively (p < 0.001). The ratio of IV:PO duration was
63.1% : 36.9% (before intervention) vs 52.1% : 47.9% (after intervention), p = 0.002. Length of
hospital stay (days) was 9.3 ± 2.7 vs 7.5 ± 2.8, respectively (p = 0.014). Cost of antibiotics (1000 VND) is
2.508 ± 1.597 vs 2.781 ± 1.537, p = 0.492.
Conclusions: Applying early switching from intravenous to oral antibiotics guideline helped to
increase the ratio of switching, to reduce the ratio of IV:PO duration and length of hospital stay.
Key words: Switching antibiotics, IV, PO, duration of treatment, cost of antibiotics, length of hospital stay
lệ tử vong tại bệnh viện trước và sau khi áp
ĐẶTVẤNĐỀ
dụng chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh
Sử dụng kháng sinh hợp lý là một yếu tố
không khác biệt. Hơn nữa, việc chuyển đổi
then chốt nhằm mang lại hiệu quả điều trị và
sớm đường dùng kháng sinh giúp mang lại
an toàn cho bệnh nhân và cộng đồng, đặc biệt

nhiều lợi ích như giảm các tác dụng phụ liên
trong thời đại đề kháng kháng sinh ngày càng
quan đến đường tiêm như nhiễm khuẩn liên
gia tăng. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi cơ sở y
quan catheter, viêm tĩnh mạch, các phản ứng
tế phải xây dựng chương trình giám sát sử
liên quan đến tiêm truyền, giảm các sai sót
dụng kháng sinh. Một trong những hoạt động
liên quan đến việc sử dụng thuốc tiêm
của chương trình này là hướng dẫn chuyển
truyền(3). Ngoài ra, chi phí điều trị kháng sinh,
đổi đường dùng kháng sinh từ đường tiêm
chi phí chăm sóc y tế và chi phí giường bệnh
sang đường uống. Chương trình này trên thế
giảm do người bệnh được chuyển sang kháng
giới đã được chứng minh là hiệu quả, an toàn
sinh đường uống và được xuất viện sớm hơn.
và tiết kiệm chi phí(4,6,7-10). Tỷ lệ tái sử dụng
Hiện tại, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ
kháng sinh đường tiêm, tỷ lệ tái nhập viện, tỷ
Chí Minh chưa có hướng dẫn chuyển đổi sớm

Chuyên Đề Dược

171


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019


đường dùng kháng sinh. Do đó, chúng tôi xây
dựng hướng dẫn chuyển đổi, sau đó tiến hành
nghiên cứu đánh giá hiệu quả của việc áp
dụng hướng dẫn này.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Hồ sơ bệnh án bệnh nhân viêm phổi cộng
đồng, viêm phế quản cấp có nhiễm khuẩn tại
Khoa Hô hấp.

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân viêm phổi cộng đồng hoặc
viêm phế quản cấp có nhiễm khuẩn, có sử
dụng kháng sinh đường tiêm thuộc một trong
các loại sau: ampicillin, amoxicillin, ceftriaxon,
cefotaxim,
ceftazidim,
ciprofloxacin,
levofloxacin, clarithromycin, moxifloxacin,
clindamycin, metronidazol, linezolid.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không thỏa tiêu chuẩn chuyển
đổi đường dùng kháng sinh từ đường tiêm
sang đường uống.
Phương pháp nghiên cứu:
Cắt ngang mô tả, so sánh 2 giai đoạn trước
và sau can thiệp.
Giai đoạn 1: trước can thiệp, từ 01/06/2017

đến 15/07/2017.
Giai đoạn 2: sau can thiệp, từ 01/01/2018
đến 30/06/2018.

Hình thức can thiệp:
- Xây dựng hướng dẫn chuyển đổi đường
dùng kháng sinh từ đường tiêm sang đường
uống dựa theo hướng dẫn chuyển đổi đường
dùng kháng sinh từ đường tiêm sang đường

- In hướng dẫn chuyển đổi và đặt tại
phòng khám của bác sĩ.
- Can thiệp trực tiếp của dược sĩ bằng cách
ghi chú yêu cầu chuyển đổi trên hồ sơ bệnh án
điện tử tại thời điểm mà bệnh nhân đủ tiêu
chuẩn chuyển đổi, và yêu cầu bác sĩ phản hồi
có/không đồng ý chuyển đổi. Nếu không đồng
ý chuyển đổi, bác sĩ cần ghi rõ lý do.

Tiêu chuẩn chuyển đổi đường dùng kháng sinh
Bệnh nhân được chuyển đổi kháng sinh
đường tiêm sang đường uống nếu không có
tiêu chí nào trong 5 tiêu chí dưới đây:
Bảng 1: Tiêu chí chuyển đổi kháng sinh từ đường
tiêm sang đường uống(1)
TT
Tiêu chí
1
Đường uống bị hạn chế.
2 Còn ít nhất 2 triệu chứng:  38oC hoặc < 36oC, nhịp

tim > 90 nhịp/phút, nhịp thở > 20 lần/phút, bạch cầu >
^9
^9
12.10 /L hoặc < 4.10 /L.
3
Triệu chứng lâm sàng xấu đi.
4 Một số loại nhiễm khuẩn: viêm màng trong tim, nhiễm
khuẩn thần kinh trung ương (viêm màng não, áp xe
não), viêm mô tế bào mắt, áp xe sâu.
5
Thuốc đường uống phù hợp không có sẵn.

Chuyển đổi đường dùng kháng sinh từ
đường tiêm sang đường uống được đánh giá
là hợp lý khi kháng sinh được chuyển sang
đường uống ngay tại thời điểm thỏa tất cả các
tiêu chí chuyển đổi.

Phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 22.0. Dùng
thống kê mô tả để trình bày các dữ liệu. Dùng
phép kiểm t-test để so sánh hai trung bình nếu
phân phối chuẩn, Wilcoxon Rank Sum test nếu
phân phối không chuẩn. Dùng phép kiểm Chi
bình phương để so sánh hai tỷ lệ. Phép kiểm
được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

uống của Bộ Y tế, Quyết định 772/QĐ-BYT

KẾTQUẢNGHIÊNCỨU


năm 2016 về việc ban hành tài liệu “Hướng

Đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu

dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh

Các đặc điểm về tuổi, giới, loại nhiễm

trong bệnh viện” .

khuẩn giữa hai giai đoạn tương tự nhau, được

- Báo cáo trong sinh hoạt chuyên môn của
Khoa Hô hấp.

trình bày trong bảng 2.

(1)

172

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

Bảng 2: Đặc điểm của bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu

Tiêu chí
a

Tuổi, mean ± SD

+ Nữ
Giới, n (%)
+ Nam
+ Viêm phổi cộng đồng
Loại nhiễm khuẩn, n (%)
+ Viêm phế quản có nhiễm khuẩn

Giai đoạn 1
(n = 20)
65,5 ± 21,7
11 (55%)
9 (45%)
19 (95%)
1 (5%)

Giai đoạn 2
(n = 67)
69,6 ± 16,2
29 (43,3%)
38 (56,7%)
54 (80,6%)
13 (19,4%)

p
0,36

0,34
0,13

a

Mean: trung bình, SD: độ lệch chuẩn

Đặc điểm sử dụng kháng sinh trong nghiên cứu

Trên nhóm bệnh nhân chuyển đổi phù hợp

Bảng 3: Đặc điểm sử dụng kháng sinh đường tiêm

- Ở giai đoạn 1, chỉ có 1 bệnh nhân được

Kháng sinh IV
Giai đoạn 1
Moxifloxacin
4 (14,8%)
Levofloxacin
8 (29,6%)
Ciprofloxacin
0
Ceftriaxon
0
Ceftazidim
15 (55,6%)
Amoxicillin/acid clavulanic
0
b

Tổng
27

Giai đoạn 2
26 (32,9%)
6 (7,6%)
1 (1,3%)
34 (43,0%)
11 (13,9%)
1 (1,3%)
b
79

b

Số lượt kháng sinh sử dụng

Kháng sinh đường tiêm sử dụng với tỷ lệ
cao nhất là ceftazidim (55,6%) ở giai đoạn 1 và
ceftriaxon (43,0%) ở giai đoạn 2.

đánh giá là chuyển đổi phù hợp. Kháng sinh
đường tiêm sử dụng là ceftazidim, sau đó
được chuyển sang kháng sinh levofloxacin
đường uống. Chuyển đổi này được đánh giá
là hợp lý.
- Ở giai đoạn 2, có 27 bệnh nhân được
đánh giá là chuyển đổi phù hợp. Loại kháng
sinh chuyển đổi được trình bày trong bảng 4.


Bảng 4: Chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống ở nhóm chuyển đổi phù hợp
KS đường tiêm
Loại IV

Số lượng

Moxifloxacin

13 (48,2%)

Levofloxacin

3 (11,1%)

Ceftriaxone

9 (33,3%)

Ceftazidime
Amoxicillin/acid clavulanic

1 (3,7%)
1 (3,7%)

Kháng sinh PO
Loại PO
Số lượng
Moxifloxacin
12
Levofloxacin

1
Levofloxacin
3
Amoxicillin/
5
acid clavulanic
Moxifloxacin
1
Ceforipin
1
Cefdinir
1
Cefuroxim
1
Moxifloxacin
1
Azithromycin
1

Chuyển đúng kháng
sinh theo hướng dẫn

Tỷ lệ hợp lý

c

Y
d
N
Y


12 (92,3%)
3 (100%)

N
N
N
N
Y
N
N

1 (11,1%)

0 (0%)
0 (0%)

c

Y: phù hợp, dN: không phù hợp

Kháng sinh đường tiêm sử dụng với tỷ lệ
cao nhất là moxifloxacin (48,2%), thấp nhất là
ceftazidime và amoxicillin-acid clavulanic
(3,7%). Nếu xét đến tính hợp lý của loại kháng
sinh chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi phù hợp
theo khuyến cáo cao nhất ở nhóm sử dụng
kháng sinh levofloxacin (100% phù hợp,
chuyển đổi sang levofloxacin đường uống),
tiếp đó là moxifloxacin (92,3% phù hợp,


Chuyên Đề Dược

chuyển sang moxifloxacin đường uống), thấp
nhất là ceftazidim và amoxicillin-acid
clavulanic (0%).
Hiệu quả của can thiệp
Tỷ lệ chuyển đổi sớm kháng sinh IV sang
PO ở giai đoạn 2 cao hơn giai đoạn 1, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê, 5% so với
40,3%, p < 0,001.

173


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời
gian điều trị kháng sinh IV và tỷ lệ thời gian IV:
PO ở giai đoạn 2 so với giai đoạn 1, trong đó
thời gian điều trị kháng sinh IV ở giai đoạn 2 là
7 ngày và ở giai đoạn 1 là 8 ngày, p = 0,049, tỷ lệ
thời gian IV:PO ở giai đoạn 1 và 2 lần lượt là
63,1%: 36,9% và 52,1%: 47,9%, p = 0,002.

Thời gian nằm viện ở giai đoạn 2 thấp
hơn giai đoạn 1, cụ thể là 9,3 ± 2,7 (ngày) so
với 7,5 ± 2,8 (ngày), sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê, p = 0,014.
Chi phí kháng sinh IV ở giai đoạn 1 và 2
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p = 0,492.

Bảng 3: So sánh các tiêu chí về hiệu quả trước và sau can thiệp
Tiêu chí
Giai đoạn 1 (n=20)
Tỷ lệ chuyển đổi, n (%)
1 (5%)
Thời gian điều trị kháng sinh (ngày)
e
Thời gian IV, median (IQR)
8 (7 - 9)
Thời gian PO, median (IQR)
6,5 (1,5 - 7)
Tỷ lệ thời gian IV: PO, %: %
63,1%: 36,9%
Thời gian nằm viện (ngày), mean ± SD
9,3 ± 2,7
f
Chí phí kháng sinh IV , mean ± SD
2.508 ± 1.597

Giai đoạn 2 (n=67)
27 (40,3%)

p
< 0,001

7 (5 - 9)

7 (6 - 7)
52,1%: 47,9%
7,5 ± 2,8
2.781 ± 1.537

0,049
0,021
0,002
0,014
0,492

e

median: trung vị, IQR: khoảng tứ phân vị, fTính theo 1000 VNĐ

BÀNLUẬN
Đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu
Trong nghiên cứu, tổng số hồ sơ bệnh án
được thu thập ở giai đoạn 1 là 20 và ở giai
đoạn 2 là 67. Tuổi trung bình của bệnh nhân ở
hai giai đoạn trước và sau can thiệp tương tự
nhau, lần lượt là 65,5 ± 21,7 và 69,6 ± 16,2, p =
0,36. Đặc điểm này phù hợp với kết quả được
ghi nhận trong nghiên cứu của tác giả Trần
Văn Ngọc(11) (tuổi trung bình là 65,24) thực
hiện trên bệnh nhân viêm phổi cộng đồng
nhập Khoa Hô hấp Bệnh viện Chợ Rẫy. Viêm
phổi cộng đồng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số
bệnh nhân trong nghiên cứu, từ 80,6% - 95%.
Đặc điểm sử dụng kháng sinh trong nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu cho thấy ở cả hai
giai đoạn, kháng sinh đường tĩnh mạch
được sử dụng nhiều nhất là quinolon hô hấp
và cephalosporin thế hệ 3. Theo nghiên cứu
của tác giả Lê Tiến Dũng thực hiện tại Bệnh
viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh năm
2015(5) nghiên cứu đặc điểm vi khuẩn và đề
kháng kháng sinh in vitro trên bệnh nhân
viêm phổi cộng đồng, tác nhân được phân
lập chiếm tỷ lệ cao nhất là Streptococcus

174

pneumoniae (50,6%). Thêm vào đó, tình hình
đề kháng kháng sinh các chủng Streptococcus
pneumoniae được phân lập tại Việt Nam
trong nghiên cứu ANSORP 2012(2) như sau:
kháng
erythromycin
80,7%,
kháng
levofloxacin 0%, kháng moxifloxacin 0%,
kháng ceftriaxon 1,8%. Do vậy, kháng sinh
kinh nghiệm được lựa chọn là kháng sinh
nhóm quinolon hô hấp hoặc cephalosporin
thế hệ 3 chiếm tỷ lệ cao.
Xét trên tính hợp lý của loại kháng sinh
được chuyển đổi, nhóm quinolon hô hấp
(moxifloxacin và levofloxacin) có tỷ lệ chuyển
đổi phù hợp chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều này có

thể được giải thích là do đây là hình thức
chuyển đổi nối tiếp, moxifloxacin và
levofloxacin đều có sẵn dạng bào chế đường
uống, có sinh khả dụng cao tương đương
đường tĩnh mạch. Nhóm cephalosporin thế hệ
3 có tỷ lệ chuyển đổi không phù hợp cao nhất,
có thể là do không có sẵn dạng bào chế đường
uống tương đương đường tĩnh mạch
(ceftriaxon và ceftazidim), trong cùng một
nhóm cephalosporin thế hệ 3 phổ kháng
khuẩn của từng kháng sinh cũng khác nhau và
có thể do tính sẵn có của các kháng sinh tại
thời điểm chuyển đổi.

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Nghiên cứu Y học

Hiệu quả của hướng dẫn chuyển đổi đường
dùng kháng sinh từ IV sang PO

uống tại nhà vì vậy rút ngắn thời gian nằm

Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng

do đánh giá tình trạng lâm sàng chưa cải thiện


hướng dẫn chuyển đổi sớm đường dùng

hoàn toàn nên bệnh nhân vẫn tiếp tục nằm

kháng sinh trên bệnh nhân viêm phổi cộng

viện sau khi chuyển đổi sang kháng sinh

đồng, viêm phế quản cấp có nhiễm khuẩn đủ

đường uống.

điều kiện chuyển đổi đường dùng kháng sinh.

Trong nghiên cứu, khi xét đến hiệu quả
kinh tế của chương trình, chúng tôi chỉ tính
đến chi phí kháng sinh sử dụng mà chưa xét
đến các chi phí y tế trực tiếp khác như chi phí
giường bệnh, chi phí chăm sóc y tế, chi phí vật
tư liên quan đến tiêm truyền, công của điều
dưỡng thực hiện thuốc tiêm truyền…. Kết quả
cho thấy chi phí kháng sinh trung bình trước
và sau can thiệp không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Để có kết quả thuyết phục hơn
về tính hiệu quả của chương trình, trong
những nghiên cứu tiếp theo, chúng tôi sẽ xem
xét tính đến các chi phí y tế trực tiếp trên.

Sau can thiệp, chúng tôi nhận thấy có sự cải
thiện đáng kể tỷ lệ chuyển đổi đường dùng

kháng sinh, thời gian điều trị kháng sinh
đường tiêm và thời gian nằm viện. Việc áp
dụng hướng dẫn chuyển đổi đường dùng
kháng sinh cùng với sự can thiệp tích cực của
dược sĩ giúp tăng tỷ lệ bệnh nhân được
chuyển đổi sớm đường dùng. Tuy nhiên, tỷ
lệ này còn thấp hơn so với kỳ vọng, điều
này có thể do hướng dẫn này mới được xây
dựng do đó việc thực hiện chuyển đổi chưa
được áp dụng đồng bộ, có những trường
hợp chuyển đổi muộn hơn 1 - 2 ngày so với
khuyến cáo. Ngoài ra, khi xét đến tính hợp
lý, tiêu chuẩn đánh giá của chúng tôi có
phần nghiêm ngặt về mặt thời gian. Chẳng
hạn như những trường hợp phù hợp chuyển
đổi vào ngày thứ 7 hoặc chủ nhật nhưng được
chuyển đổi vào ngày thứ 2 tuần kế tiếp thì vẫn
được đánh giá là không hợp lý. Trong những
nghiên cứu tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét về
vấn đề này để đánh giá phản ánh đúng thực tế
hơn. Bên cạnh những lí do trên, tâm lý e ngại
của bác sĩ về tính an toàn của việc chuyển đổi
sớm cũng là một trong những lí do khiến tỷ lệ
chuyển đổi sớm chưa cao. Thời gian nằm viện
giảm một phần có thể là hệ quả của việc giảm
thời gian sử dụng kháng sinh đường tiêm(4).
Ngay tại thời điểm bệnh nhân có thể chuyển
đổi đường dùng kháng sinh từ tiêm sang
uống, bệnh nhân được cho xuất viện sớm do


viện. Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp

Theo nghiên cứu của Lee(6), thực hiện
chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh trên
bệnh nhân viêm phổi cộng đồng (VPCĐ), thời
gian sử dụng kháng sinh đường tiêm sau
can thiệp giảm so với trước khi áp dụng
hướng dẫn, 3,38  0,22 so với 3,99  0,28
(ngày), p = 0,03, tương tự như nghiên cứu
của chúng tôi. Trong nghiên cứu này người ta
chia mức độ nặng viêm phổi cộng đồng theo
PSI từ phân độ I đến V. Ở cả hai nhóm chứng
và can thiệp, thời gian sử dụng kháng sinh
đường tiêm giữa các mức độ nặng của VPCĐ
PSI phân độ I – IV tương tự nhau. Thời gian sử
dụng kháng sinh đường tiêm ở nhóm can
thiệp thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng ở tất cả các mức độ, ngoại trừ
nhóm PSI phân độ V có thời gian kháng sinh
đường tiêm tương tự giữa hai nhóm chứng và
can thiệp. Chúng tôi nhận thấy ở tất cả các
mức độ nặng của VPCĐ, thời gian kháng sinh
đường tiêm đều thấp hơn so với nghiên cứu
của chúng tôi, điều này có thể do tỷ lệ chuyển
đổi trong nghiên cứu của tác giả Lee là

có thể điều trị tiếp tục bằng kháng sinh đường

Chuyên Đề Dược


175


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

100% so với chỉ 40,3% trong nghiên cứu của
chúng tôi.
Theo nghiên cứu Laing(4), sau can thiệp
chuyển đổi đường dùng kháng sinh trên
nhiễm khuẩn da mô mềm, hô hấp, tiết niệu,
thời gian sử dụng kháng sinh và thời gian
nằm viện đều cải thiện có ý nghĩa thống kê,
cụ thể thời gian sử dụng kháng sinh IV giảm
từ 4,35 ngày xuống còn 3,7 ngày, p < 0,05,
thời gian nằm viện giảm từ 12,7 ngày còn 8,9
ngày, p = 0,01. Trong nghiên cứu này, ngoài
can thiệp bằng hướng dẫn chuyển đổi
đường dùng còn sử dụng hình thức can
thiệp bằng cách dán nhãn yêu cầu chuyển
đổi trên những hồ sơ bệnh án phù hợp, trên
đó ghi rõ ngày chuyển, nên chuyển qua sử
dụng thuốc đường uống nào. Đây là nét
tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi
nhưng thay vì dán nhãn cảnh báo thì chúng
tôi cảnh báo trên phần mềm bệnh án điện
tử. Nghiên cứu này cũng cho thấy 16% sự
khác biệt trong thời gian nằm viện là do thời
gian sử dụng kháng sinh đường tiêm được

rút ngắn sau can thiệp. Nghiên cứu của
Laing đã đánh giá được hiệu quả của
chương trình chuyển đổi qua các tiêu chí tỷ
lệ tái nhập viện trong vòng 28 ngày, tỷ lệ tử
vong. Kết quả cho thấy tỷ lệ tái nhập viện
hay tử vong không khác biệt giữa hai nhóm.
Theo nghiên cứu Sevinc(10), tỷ lệ chuyển
đổi sớm đường dùng kháng sinh tăng sau
can thiệp, từ 54% lên 83%, cao hơn nghiên
cứu của chúng tôi. Điều này có thể được giải
thích một phần là do tiêu chuẩn đánh giá
tính hợp lý khác nhau giữa nghiên cứu của
chúng tôi và nghiên cứu của Sevinc. Trong
nghiên cứu của Sevinc, đánh giá là hợp lý
khi bệnh nhân được chuyển đổi đường
dùng kháng sinh bất kể thời gian thực sự
chuyển đổi còn trong nghiên cứu của chúng
tôi, chuyển đổi được xem là phù hợp khi
bệnh nhân được chuyển kháng sinh từ tiêm
sang uống ngay tại thời điểm thoả đầy đủ
tất cả các tiêu chí chuyển đổi. Nghiên cứu

176

Sevinc(10) cho thấy thời gian điều trị kháng
sinh đường tiêm giảm từ 6 ngày còn 4 ngày,
giảm 43% tổng lượng kháng sinh sử dụng so
với trước can thiệp. Tính an toàn của chương
trình cũng đã được chứng minh trong nghiên
cứu này, sau khi kết thúc điều trị 6 tuần,

không ghi nhận trường hợp nào tái nhiễm
khuẩn hay tái nhập viện vì nhiễm khuẩn.
Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy
việc chuyển đổi sớm đường dùng kháng
sinh từ đường tiêm sang đường uống mang
lại nhiều lợi ích như giảm thời gian sử dụng
kháng sinh đường tiêm, giảm thời gian nằm
viện. Tuy nhiên, đây là chỉ là nghiên cứu hồi
cứu trên số lượng mẫu nhỏ, chưa tính toán
được các chi phí y tế trực tiếp khác và chưa
đánh giá được tính an toàn của chương trình
thông qua các chỉ số như tỷ lệ tái sử dụng
kháng sinh đường tiêm sau chuyển đổi, tỷ lệ
tái nhập viện trong vòng 30 ngày, tỷ lệ tử
vong. Chúng tôi sẽ đánh giá các chỉ số này
trong nghiên cứu tiếp theo.

KẾTLUẬN
Áp dụng hướng dẫn chuyển đổi đường
dùng kháng sinh từ IV sang PO giúp tăng tỷ lệ
chuyển đổi sớm đường dùng kháng sinh, giảm
thời gian điều trị kháng sinh IV:PO và thời
gian nằm viện.

TÀILIỆUTHAMKHẢO
1.

2.

3.


4.

Bộ Y tế (2016), Quyết định về việc ban hành tài liệu
“Hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh trong
bệnh viện”, quyết định số 772/QĐ-BYT ban hành ngày
04/03/2016.
Kim SH, Song JH, Chung DR, et al (2012), “Changing
trends in antimicrobial resistance and serotypes of
Streptococcus pneumoniae isolates in Asian countries: an
Asian Network for Surveillance of Resistant Pathogens
(ANSORP) study”, Antimicrobial Agents and Chemotherapy,
56(3): pp.1418-1426.
Kuti JL, Le TN, Nightingale CH, et al (2002),
“Pharmacoeconomics of a pharmacist-managed program for
automatically converting levofloxacin route from IV to oral”,
American Journal of Health System Pharmacy, 59(22): pp.2209-2215.
Laing RBS, Mackenzie AR, Shaw H, et al (1998), “The effect
of intravenous-to-oral switch guidelines on the use of
parenteral antimicrbials in medical wards”, Journal of
Antimicrobial Chemotherapy, 42: pp.107-111.

Chuyên Đề Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
5.

6.


7.

8.

Lê Tiến Dũng (2016), “Viêm phổi cộng đồng: Đặc điểm vi
khuẩn và đề kháng kháng sinh in vitro tại Bệnh viện Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh”, Chuyên đề: Hội nghị
KHKT Bệnh viện ĐHYD, Y học TP. Hồ Chí Minh, phụ bản
20(2): tr.40 – 45.
Lee RW, Lindstrom S.T (2007), “Early switch to oral
antibiotics and early discharge guidelines in the
management
of
community-acquired pneumonia”,
Respirology, 12: pp.111 - 116.
McLaughlin CM, Bodasing N, Boyter AC, et al (2005),
“Pharmacy-implemented guidelines on switching from
intravenous to oral antibiotics: an intervention study”, An
International Journal of Medicine, 98: pp.745-752.
Mertz D, Koller M, Haller P, et al (2009), “Outcomes of
early switching from intravenous to oral antibiotics on
medical wards”, Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 64:
pp.188-199.

Chuyên Đề Dược

Nghiên cứu Y học

9.


Ramirez JA, Vargas S, Ritter GW, et al (1999), “Early switch
from intravenous to oral antibiotics and early hospital
discharge”, Archives of Internal Medicine, 159: pp.2449-2454.
10. Sevinc F, Prins JM, Koopmans RP, et al (1999), “Early
switch from intravenous to oral antibiotics: guidelines and
implementation in a large teaching hospital”, Journal of
Antimicrobial Chemotherapy, 43: pp.601-606.
11. Trần Văn Ngọc (2004), “Đánh giá hiệu quả điều trị kháng
sinh viêm phổi mắc phải trong cộng đồng” Chuyên đề Nội
Khoa. Y học TP. Hồ Chí Minh, phụ bản 8(1): tr.22-27.

Ngày nhận bài báo:

18/10/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

01/11/2018

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2019

177



×