Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Bài tiểu luận: Thất bại thị trường trong cung cấp hàng hóa và dịch vụ y tế công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.09 KB, 22 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

KHOA: KINH TẾ

MÔN: KINH TẾ CÔNG CỘNG

ĐỀ TÀI: THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG TRONG CUNG CẤP 
HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ Y TẾ CÔNG
 

                           

        Giảng viên hướng dẫn :  Th.S TRẦN THU VÂN                  
      Sinh viên thực hiện (nhóm 10)     : NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN­DT03
                                                               : PHAN THỊ PHƯƠNG UYÊN­DT03
                                                               : PHAN MINH NGHỊ­DT01
                                                               : DƯƠNG THỊ QUYÊN –DT01
                                                               : TRẪN THỊ MỸ UYÊN­DT02
                                                               : H JI BUÔN KRÔNG­DT03
                                                               : LÊ HOÀNG HẢO­DT03


2

                                                                    
I.                                                   :  



3


4

Đặt vấn đề
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “ Con người là nhân tố hàng 
đầu, là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết định sự phát triển của đất nước”. Vì thế 
từ xưa đến nay, dịch vụ chăm sóc sức khỏe luôn là vấn đề được xã hội quan tâm. Tuy 
nhiên hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam hiện nay còn 
rất nhiều vấn đề bất cập, nguồn lực đầu tư lớn nhưng hiệu quả sử dụng nguồn lực 
này để cung ứng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, tạo ra sự 
bất bình đẳng trong cung ứng dịch vụ, hàng hóa y tế công. Mà nguyên nhân chủ yếu tạo 
ra sự bất bình đẳng đó là do thông tin bất cân xứng và ngoại tác. Chính vì thế nhóm 
chúng tôi chọn đề tài “ thất bại thị trường trong cung ứng dịch vụ, hàng hóa y tế công” 
nhằm đưa ra chi tiết những thất bại thị trường trong y tế công: thông tin bất cân xứng 
và ngoại tác. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên, tạo ra tính công 
bằng xã hội. 
I. Lý thuyết về cung cấp dịch vụ hàng hóa y tế công
1.Hàng 
 
 hóa
    công
 
 
1.a. Khái niệm
Hàng hóa công là loại hàng hóa mà tất cả các thành viên trong xã hội có thể dùng 
chung với nhau. Việc sử dụng của người này không ảnh hưởng tới người khác. Hàng 
hóa công thỏa mãn một hoặc hai điều kiện:
Không dành riêng cho một ai

Người này sử dụng không ảnh hưởng tới người khác.
1.b. Tính chất
Không có tính cạnh tranh: khi có thêm một người tiêu dùng hàng hóa này không làm 
lợi ích tiêu dùng của người đang tiêu dùng hàng hóa đó. Chi phí tối đa cho việc công cấp 
hàng hóa này là bằng không.
Không có tính loại trừ: người tiêu dùng không loại trừ nhau trong việc sử dụng 
cùng một loại hàng hóa.
1.c. Phân loại
Hàng hóa công được chia làm 2 loại chính
1.c.i)Hàng hoá công thuần túy
Là những hàng hoá công không thể hoặc rất khó định suất được. Hàng hoá công thuần 
túy chia làm 2 loại:
+ Không bị ảnh hưởng khi sử dụng: nghĩa là khi người này sử dụng không gây ảnh 
hưởng  hoặc gây ảnh hưởng không đáng kể đến người khác.


5

Ví dụ: ngọn hải đăng, việc con tàu của bạn có sử dụng hay không sử dụng sự chiếu 
sáng ngọn hải đăng thì cũng không ảnh hưởng tới những con tàu khác.
+ Bị ảnh hưởng khi sử dụng: nghĩa là lượng sử dụng của người này sẽ gây ảnh hưởng 
đến người sử dụng khác.
 Ví dụ: không khí trong căn phòng, giao thông trên đường vào giờ cao điểm…
1.c.ii) Hàng hoá công không thuần túy: 
Là hàng hoá công có thể định suất được nhưng phải tốn chi phí. 
Ví dụ: chi phí khám bệnh, giáo dục vẫn có thể tính được, ai sử dụng thì người nấy trả 
tiền nhưng giá cả có sự quản lý của nhà nước để không dẫn đến quá cao.
2.Hàng hóa 
 
 d

  ịch  v
  ụ y tế 
2.a. Khái niệm:
Hàng hóa dịch vụ y tế là “hàng hóa công cộng” vì nó mang tính không cạnh tranh, 
mọi người ai cũng có thể đến các cơ sở y tế để khám chữa bệnh không phân biệt bất kì 
ai Nó cũng mang tính không loại trừ vì mọi người đều được hưởng dịch vụ mà không 
phải tiền (việc tiêm phòng) nhưng đối với dịch vu y tế điều này chỉ mang tính tương 
đối. Mang tính chất “ngoại lai”. Khái niệm “ngoại lai” ở đây là lợi ích không chỉ giới 
hạn ở những người trả tiền để hưởng dich vụ mà kể cả những người không trả tiền 
cũng được hưởng những lợi ích này. 
Ví dụ : Các dịch vu y tế dự phòng , giáo dục sức khỏe có lợi cho mọi người dân 
trong khi họ không phải trả tiền để mua các loại dich vụ này. Chính điều này không tạo 
ra được động cơ lợi nhuận cho nhà sản xuất.không khuyến khích được việc cung ứng 
các dịch vụ này. Do vậy, để đảm bảo đủ cung đáp ứng đủ cho cầu cần có sự can thiệp 
của nhà nước trong cung ứng các dịch vu y tế mang tính công cộng.
2.b. Tầm quan trọng của việc cung cấp hàng hóa dịch vụ y tế :
Ta thường hay nghe câu nói “sức khỏe là vàng”, sức khỏe là một trạng thái về cơ 
thể của một con người khoẻ mạnh, không bị đau yếu. Nếu người dân khỏe mạnh thì có 
thể tạo ra của cải vật chất cao hơn cho họ và gia đình, mà “dân giàu thì nước mới 
mạnh”, vậy sức khỏe là một trong các vấn đề quan trọng không chỉ của riêng ai, mà còn 
là của đất nước.
Vì vậy chúng ta luôn luôn phải chú ý quan tâm đến việc cung cấp hàng hóa dịch vụ 
y tế để đảm báo sức khỏe cho người dân.


6

II. Sự thất bại của thị trường trong việc cung cấp hàng hóa y tế công
1.Thông tin b
 

ất cân xứng trong y tế công 
1.a. Khái niệm
 
Thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) là trường hợp trong giao dịch 
một bên cố tình che đậy thông tin. Khiến cho một phía cung hoặc cầu có nhiều thông 
tin hơn phía còn lại. Khi đó khách hàng có ít thông tin nên có thể mua hàng với giá quá 
cao hay quá thấp làm thất bại thị trường.
1.b. Thông tin bất cân xứng trong cung cấp hàng hóa y tế công.
1.b.i) Thông tin bất cân xứng giữa bệnh nhân và bác sỹ
Hàng hóa y tế là loại hàng hóa mà mọi người dân đều cần dùng đến. một người cho 
dù khỏe mạnh đến đâu cũng có lúc bệnh và cần đến các dịch vụ y tế chăm sóc sức 
khỏe cho bản thân. Khi cần đến các dịch vụ y tế thì bệnh nhân không biết được giá cả 
chính xác của các dịch vụ y tế đó mà là do người bác sĩ sẽ định giá nó. Bên cạnh đó 
người bệnh cũng không biết chắc chắn là mình cần dịch vụ gì. Do đó dịch vụ y tế là 
cung quyết định cầu.
Người bệnh có nhu cầu quyết định khám bệnh nhưng bác sĩ là người chọn phương 
pháp để chữa cho bệnh nhân. Bệnh nhân thì biết ít về bệnh tật và cách điều trị. Do vậy 
hầu như người bệnh phải dựa vào bác sĩ để chọn phương pháp và kê toa thuốc. Do đó 
người bệnh có thể bị bốc lột trong các khâu này. Nếu người bệnh biết được thông tin 
chính xác về các dịch vụ y tế cũng như cách chữa bệnh thì bác sĩ không có nhiều cơ hội 
để bóc lột bệnh nhân. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng giống nhau. Như khi 
bệnh thì bệnh nhân giao toàn tính mạng cho bác sĩ nên bệnh nhân cũng không mấy quan 
tâm đến các dịch vụ mà bác sĩ cung cấp có giá cả bao nhiêu. Dẫn đến tình trạng chữa 
bệnh bị bốc lột và mua thuốc cũng bị nâng giá. Đó là tình trạng bất cập trong cơ chế 
quản lý dược phẩm. và do bênh nhân thiếu thông tin thị trường. ngoài ra là do sự yếu 
kém của công nghệ sản xuất thuốc trong nước làm người dân thích dùng thuốc tây hơn 
là dùng thuốc nam để chửa bệnh.
Thị trường y tế công không phải là thị trường tự do. Trong thị trường tự do, giá của 
một mặt hàng dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa người mua và người bán. Trong 
thị trường dịch vụ y tế công không có sự thỏa thuận này, giá dịch vụ do người bán 

quyết định
Dịch vụ y tế công là một ngành “dịch vụ có điều kiện”, tức là có sự hạn chế đối với 
sự gia nhập thị trường của nhà cung ứng dịch vụ y tế. Muốn cung ứng dịch vụ y tế cần 


7

được cấp phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật 
chất. Nói một cách khác trong thị trường y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo.


8

So sánh giữa thị trường cạnh tranh và thị trường y tế công
Thị trường cạnh tranh

Thị trường y tế công

Có nhiều người bán

Chỉ có một số ít bệnh viện (trừ các 
thành phố lớn)

Các hãng tăng tối đa hoa lợi nhuận

Các bệnh viện công hầu như không 
vì lợi luận

Hàng hóa đồng nhất


Hàng hóa không đồng nhất

Người tiêu dùng thanh toán trực 
tiếp

Bệnh nhân chỉ trang trải một phần 
chi phí

Người ta cho rằng khi một người đi mua máy tính, điện thoại người đó được thông 
tin khá đầy đủ (từ nhiều nguồn khác nhau), còn khi họ đến gặp bác sĩ thì trong nhiều 
trường hợp, cái họ mua là kiến thức và thông tin của bác sĩ. Bệnh nhân phải dựa vào 
quyết định của bác sĩ về loại thuốc nào cần, có nên phẫu thuật không…. Việc đánh giá 
các bác sĩ khó hơn nhiều so với đánh giá máy tính, điện thoại. Đó là một lý do tại sao 
chính phủ lại có vai trò lâu nay trong việc cấp giấy phép và quản lý thuốc men mà các 
bác sĩ có thể cấp cho bệnh nhân. Đầu năm 1985, chính phủ đã thành lập những tổ chức 
để đánh giá hoạt động của các bác sĩ và tước giấy phép hành nghề của những người 
không đủ điều kiện.
Trên thị trường cạnh tranh khi lựa chọn sản phẩm giữa các hãng thì khách hàng 
dựa vào phần lớn là giá, giá của hãng nào thấp hơn sẽ được chọn. nhưng ở thi trường y 
tế công thì chưa chắc lại như vậy. Giả sử hàng xóm của bạn được bác sỹ A chữa 
bệnh, và cảm thỏa mãn với cách chữa bệnh mà ông đã chữa ở bác sĩ của mình. Nhưng 
nếu bệnh của hàng xóm bạn khác với bệnh của bạn thì không chắc là bạn hài lòng. Và 
nếu bạn biết một bác sĩ này đặt giá cao hơn một bác sĩ khác, thì để đánh giá xem nên 
chữa ở bác sĩ nào, bạn phải biết chính xác xem sự phục vụ của mỗi bác sĩ ra sao. Giả 
sử rằng bạn bị bệnh về gan, được người khác giới thiệu rằng được bác sỹ X ở bệnh 
viện Y  chữa bệnh gan rất hiệu quả và đã lành bệnh nhưng với chi phí cao. Lại có một 
thông tin khác rằng có bác sỹ A ở bệnh viện B chữa bệnh tốt nhưng chi phí rẻ hơn. 
Vậy trong trường hợp đó bạn sẽ chọn chữa bệnh từ bác sĩ nào, bệnh viện nào?. Và 
phần lớn trong trường hợp này, phương pháp thử và sai có lẽ một một giải pháp tốt cho 
bạn nếu phân vân không biết chọn bệnh viện nào. 



9

Trong những trường hợp cấp cứu, mọi người ít khi lựa chọn được đến bệnh viện 
nào. Và ngay cả khi có thời gian để lựa chọn thì sự lựa chọn đó không phải do họ, mà là 
do bác sĩ. 
1.b.ii)thông tin bất cân xứng đối với người mua bảo hiểm y tế
Trong đầu năm 2015 có khoảng 61 triệu người đang tham gia bảo hiểm y tế , đạt 
khoảng 69% dân số. Trong số đó có khoảng 14,3 triệu người nghèo và dân tộc thiểu số, 
gần 2 triệu người cận nghèo có thẻ bảo hiểm y tế. 
Người mua bảo hiểm phần lớn là những người có khả năng mắc bệnh cao, như vậy 
công ty bảo hiểm phải chi trả một số tiền lớn cho những người này để bù đắp chi phí 
họ sẽ tăng mức phí bảo hiểm cao hơn. Chính vì điều này dẫn đến những người khỏe 
mạnh sẽ không tham gia bảo hiểm vì họ cho rằng lúc này, nếu tham gia thì độ hữu 
dụng của họ rất thấp mà chi phí lại cao. Cuối cùng chỉ còn lại những người có khả 
năng mắc bệnh cao mới đóng bảo hiểm và công ty bảo hiểm sẽ thua lỗ
Tâm lý hành xử tắc trách xuất hiện đối với những người mua bảo hiểm y tế. chẳng 
hạn như bạn có bảo hiểm y tế ,bạn sẽ đến bệnh viện khám bệnh thường xuyên hơn so 
với lúc bạn chưa mua bảo hiểm
2.Ngo
  ại tác  
2.a. Khái niệm 
Ngoại tác được hiểu như là những hoạt động của một chủ thể nhất định nào đó 
gây tác động đến các đối tượng này không được đền bù hoặc không phải bị đền bù.
Các chủ thể và đối tượng tác động ở đây có thể là cá nhân hoặc đơn vị hoạt động 
sản xuất kinh doanh. Sự tác động của các chủ thể này là sự tác độn tốt hoặc xấu. Các 
chủ thể này không chịu bất cứ một trách nhiệm kinh tế nào về sự tắc động của họ, 
cũng như họ không đòi hỏi một sự đền bù nào.
Ngoại tác thể hiện mối quan hệ sản xuất ­ sản xuất, sản xuất ­ tiêu dùng, tiêu 

dùng ­tiêu dùng. Kết quả hoạt động của người này chịu ảnh hưởng bởi kết quả của 
người khác.
2.b. Phân loại:
Trên giác độ hiệu qủa kinh tế ­ xã hội của các yếu tố ngoại vi đến các đối tượng 
tác động tác động, ngoại tác được chia làm 2 loại:
Ngoại tác tích cực: có tác động tốt đến đối tượng chịu tác động.


10

Ví dụ: Tiêm phòng bệnh cho trẻ em miễn phí sẽ có tác đến cộng đồng.
Ngoại tác tiêu cực: có tác động xấu đến đối tượng chịu tác động.
Ví dụ: Nhà máy thải chất thải ra song sẽ gây ô nhiểm sông, ảnh hưởng đến đòi sống 
của người dân khu vực sông.
2.c. Ngoại tác tích cực và tiêu cực trong hàng hóa y tế công 
2.c.i) Ngoại tác tích cực: 
 Đưa y tế đến gần hơn với cộng đồng, mọi người dân được  tiếp cận, sử dụng 
hàng hóa dịch vụ y tế, và được đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe một cách hiệu quả. 
Đảm bảo được tính công bằng trong xã hội.
 
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, hoạt động chuyên môn đẩy mạnh công tác khám 
chữa bệnh.
Nâng cao ý thức chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
Phúc lợi, an sinh xã hội  ổn định thúc đẩy xã hội phát triển.
Tạo dựng được lòng tin trong cộng đồng.


11

Ví dụ: Đường cầu của thị trường về hàng hóa y tế công, cũng chính là lợi ích biên MB

Hàng hóa y tế công đã mang lại một lợi ích biên MEB, khi đó lợi ích biên của xã hội  
MSB = MEB + MB
Chi phí biên thị trường là MC, cũng là chi phí biên của xã hội: MSC = MC
Hiệu quả của thị trường đạt được khi: MB = MC, ta có điểm cân bằng tại E với QE 
(sản lượng thị trường) và PE (giá cả thị trường).
Hiệu quả của xã hội đạt được khi: MSB = MSC, ta có điểm cân bằng mới tại E’ với 
QE’ (sản lượng xã hội) và PE’ (giá cả xã hội).
Tổn thất xã hội là diện tích tam giác BEE’


12

2.c.ii)Ngoại tác tiêu cực:
 
Tính công bằng chưa phát huy hết công dụng, một số hàng hóa công chưa tay 
người nghèo, vùng sâu vùng xa.
Còn tồn tại tình trạng trục lợi, tham nhũng trong đội ngũ y tế.
Đối xử phân biệt giữa những người được hưởng chế độ ưu đãi của nhà nước và 
những người trả tiền trực tiếp.
Cơ sở dịch vụ y tế vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân.


13

Ví dụ: Đường cầu của thị trường về hàng hóa y tế công, cũng chính là lợi ích biên MB, 
cũng là lợi ích biên của xã hội, MSB = MB.
Hàng hóa y tế công đã mang lại một thiệt hại biên MEC.
Hàng hóa y tế công đã gây ra một chi phí biên MEC, khi đó chi phí biên của xã hôi: MSC 
= MC + MEC.
Hiệu quả của thị trường đạt được khi: MB = MC, ta có điểm cân bằng tại E với QE 

(sản lượng thị trường) và PE (giá cả thị trường).
Hiệu quả của xã hội đạt được khi: MSB = MSC, ta có điểm cân bằng mới tại E’ với 
QE’ (sản lượng xã hộ) và PE’ (giá cả xã hội).
Khi đó, tổn thất xã hội là diện tích tam giác AEE’

III.  Thực trạng cung cấp hàng hóa y tế công ở VN
1.H
  ệ thống y tế, bệnh  vi
  ện , c
    ơ sở vật chất, trang thiết bị, kỹ thuật: 
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt trong giai đoạn 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, nhu cầu chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân 
ngày càng tăng đi đôi với chất lượng của hệ thống y tế, bệnh viện, cơ sở vật chất, 
trang thiết bị kĩ thuật. Hiện nay mạng lưới y tế đã trải rộng khắp nơi từ Trung ương 
tới các tỉnh, quận huyện, xã phường, hải đảo các xí nghiệp, trường học để đảm bảo 
phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân kịp thời, hiệu quả và công bằng.
Số lượng các cơ sở bao gồm
2013
 NĂM
TỔNG SỐ
Bệnh viện
Phòng khám đa khoa khu vực
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi 
chức năng
Trạm y tế xã, phường

13.562
1.069
636
60

11.055


14

Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp
Cơ sở khác

710
32

Số liệu theo cục thống kê năm 2013
Hệ thống cung ứng dược gồm có: 1 tổng công ty, 150 doanh nghiệp nhà nước, 24 
doanh nghiệp liên doanh, 220 doanh nghiệp tư nhân, 5100 nhà thuốc tư nhân, 8800 đại lý 
thuốc xuyên cả nước.Tuy nhiên cơ sở khám chữa bệnh trên cả nước phân bổ chưa hợp 
lý khi những tình trạng quá tải ở nhiều bệnh viện tuyến trên như các bệnh viện tỉnh, 
một số bệnh viện lớn ở thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội… vẫn xảy ra thường 
xuyên và còn khá nặng nề. Nhiều tỉnh, huyện chỉ có duy nhất một bệnh viện đa khoa 
mà còn trong tình trạng thiếu thốn về cơ sở vật chất thiết bị y tế . Nhân dân ở một số 
tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa thậm chí không thể đến được các cơ sở khám chữa 
bệnh vì khoảng cách quá xa. Nhiều cơ sở y tế khám chữa bệnh tại nhiều địa phương đã 
được xây dựng và sữa chữa nâng cấp để đảm bảo chất lượng . 
2.Công tác khám 
 
 ch
  ữa  b
  ệnh: 
Chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh ở các tuyến đặc biệt là các tuyến trung 
ương và thành phố đã cơ bản đáp ứng tốt nhất nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. 
Nhiều bệnh viện hiện nay đã  sắp xếp, cải tiến quy trình khám bệnh hợp lý, tổ chức 

tiếp đón, nhanh chóng sàng lọc người bệnh cấp cứu để giảm tối đa thời gian chờ đợi 
của người bệnh, sửa sang các phòng bệnh để người bệnh được nằm điều trị trong điều 
kiện tốt. Hạn chế thấp nhất nằm ghép, tăng cường công tác phân luồng, cách ly, kiểm 
soát nhiễm khuẩn phòng lây nhiễm chéo các bệnh. Bố trí đầy đủ số thuốc cấp cứu, 
giường bệnh, phương tiện cấp cứu…Ngành y tế cũng đã đẩy mạnh phong trào nâng 
cao y đức trong các bệnh viện nhằm cải thiện tốt thái độ ứng xử của cán bộ, nhân viên 
y tế với bệnh nhân. Công bằng thường đi đôi với đạo đức, y đức đòi hỏi trách nhiệm 
cao của người thầy thuốc đối với bệnh nhân, không có sự phân biệt đối xử đối với 
người giàu và người nghèo. Xét về tổng thể người giàu vẫn được hưởng lợi nhiều hơn 
từ nguồn hỗ trợ của Nhà nước cho các dịch vụ thăm khám chữ bệnh so với người 
nghèo mặc dù chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã hướng vào người nghèo nhiều hơn 
trong những năm gần đây. Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện nhiều hình thức khám chữa 
bệnh miễn phí cho người nghèo, trong đó việc cấp Bảo hiểm y tế cho người nghèo là 
hình thức phổ biến nhất. Với hình thức này, cơ quan bảo hiểm y tế cấp thẻ Bảo hiểm 
y tế cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi… miễn phí thông qua 
ngân sách của Nhà nước. Khi có bảo hiểm y tế người dân sẽ được khám chữa bệnh, 
phát thuốc miễn phí. Tuy nhiên số lần đến khám bằng bảo hiểm y tế và số lượng thuốc 


15

được cấp bị hạn chế. Ngoài ra còn có các hình thức cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí, 
giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, cấp sổ hộ nghèo cũng được áp dụng rộng 
rãi ở một số địa phương. Do ngân sách Nhà nước hạn hẹp nên thực tế số lượng người 
dân được cấp thẻ khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế vẫn còn ít và khác nhau giữa các 
tỉnh, huyện. Đối với các cơ sở khám chữa bệnh tuyến trên như các bệnh viện tỉnh hay 
ở bệnh viện chuyên môn ở các thành phố lớn, mặc dù được miễn giảm viện phí hay 
phí khám chữa bệnh tuy nhiên người dân đặc biệt là người nghèo vẫn gặp nhiều khó 
khăn do các chi phí phát sinh như chi phí đi lại, ăn ở…Do tình trạng quá tải xảy ra 
thường xuyên ở các bệnh viện tuyến trên nên công tác chăm khám chữa bệnh chưa 

được đảm bảo. Nhiều bệnh nhân lên các bệnh viện chuyên môn lớn ở các thành phố bị 
rất nhiều khó khăn trong các thủ tục giấy tờ, mất thời gian chờ đợi, tỷ lệ được bảo 
hiểm y tế thanh toán còn thấp, bệnh nhân đi khám chữa bệnh nội trú hay ngoại trú được 
hỗ trợ thông qua hình thức miễn giảm là chính. Hiện nay các bệnh viện lớn đã xuất 
hiện hình thức khám chữa bệnh theo dịch vụ tức là bỏ tiền thêm để không phải mất 
thời gian, thủ tục sẽ làm nhanh hơn. Cho nên tuyến y tế cơ sở là nơi  đem lại lợi ích 
nhiều hơn cho người nghèo. Một hiện trạng còn xảy ra ở hầu hết các bệnh viện trên 
cả nước là chất lượng chăm sóc y tế cho người dân được miễn phí kém hơn so với các 
bệnh nhân trả tiền. Chi phí khám chữa bệnh cho những bệnh nhân này thấp nhất ở các 
địa phương, trong đó có các chi phí thuốc men. Do đó, những bệnh nhân này có thể đã 
được chữa bệnh với số lượng thuốc ít hơn và rẻ hơn so với các bệnh nhân trả tiền, 
điều này không thể đảm bảo chất lượng chữa bệnh cho người dân. Một loại phí rất 
phổ biến hiện nay khi đến các cơ sở khám chữa bệnh hiện nay là viện phí. Viện phí 
được xem như món tiền của người bệnh tự chi trả trực tiếp cho các cơ sở y tế sau khi 
“mua” các dịch vụ y tế. Một hiện trạng đang xảy ra là đại bộ phận các bệnh viện đang 
có xu thế coi trọng nguồn thu là viện phí. Theo một thống kê của Bộ Y tế, khoảng 73% 
tổng số tiền chi trả cho y tế Việt Nam ở giai đoạn hiện nay có được do người bệnh chi 
trả trực tiếp khi điều trị và dự kiến sẽ còn tăng vào những năm sau. Nhà nước luôn đề 
cao tính công bằng trong các công tác y tế, tuy nhiên thực tế thì công bằng và hiệu quả 
vốn mâu thuẫn nhau, hiện nay chính sách thu viện phí và cơ chế thị trường đã đặt đồng 
tiền giữa người phục vụ là nhân viên y tế và người được phục vụ là người bệnh. Ở 
nhiều cơ sở y tế hiện đang xảy ra tình trạng thu phí ngầm trong khi Nhà nước vẫn chưa 
có biện pháp khắc phục nay vẫn giám sát hiệu quả cũng như có những quy chế chặt 
chẽ để đảm bảo lợi ích của người bệnh và hạn chế tình trạng thoái hóa về y đức của 
đội ngũ cán bộ y tế. Những hạn chế này nếu không được khắc phục nhanh chóng thì sẽ 
gây mất lòng tin của người dân, gây thiệt hại đến quyền lợi của người bệnh đặc biệt 
là người nghèo, làm giảm chất lượng khám chữa bệnh.


16


3.Ngu
 
ồn y, bác sĩ: 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “ Con người là nhân tố hàng đầu, 
là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết định sự phát triển của đất nước”. Trong đó, sức 
khỏe là tài sản quý báu của mỗi người, mỗi gia đình và mỗi quốc gia. Theo Chủ tịch Hồ 
Chí Minh, để chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và chữa bệnh tật cho nhân dân, phải xây dựng 
và phát triển nền y học nước nhà “dân tộc, khoa học và đại chúng”, xây dựng đội ngũ 
cán bộ y tế của nhân dân, vì nhân dân.
Tính đến tháng 6 năm 2014, cả nước đã có 173 cơ sở đào tạo nhân lực y tế ở tất cả 
các trình độ với 68 cơ sở đào tạo ngoài công lập. Theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi năm 
nước ta đào tạo 6.500 bác sĩ, 2.800 dược sĩ, 5.000 cử nhân điều dưỡng, kỹ thuật y học, 
y tế công cộng và 5.100 cán bộ y tế có trình độ sau đại học (ĐH). Tuy nhiên con số đó 
vẫn chưa  là cao so với nước ngoài và trình độ, năng lực quản lý của cán bộ chưa tương 
xứng với nhu cầu, nhiệm vụ quản lý được giao. Tình trạng đào tạo đội ngũ y bác sĩ 
ngày càng giảm sút, nếu không khắc phục hoặc chấm dứt tình hình nhân lực ngành y tế 
được đào tạo quá dễ dãi sẽ dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng, năng suất phục vụ 
thấp, y đức sa sút…Bên cạnh đó, vẫn tồn tại sự mất cân đối trong phân bổ cán bộ y tế 
giữa các tuyến. Việc đưa bác sĩ về xã để người nghèo, vùng nông thôn tăng khả năng 
tiếp cận với kỹ thuật cao hơn vẫn đang trong quá trình giải quyết. Tình trạng nhiều 
bệnh viện thiếu cán bộ, thậm chí ở một số nơi số lượng bệnh nhân rất nhiều nhưng 
chỉ có một vài bác sĩ làm việc. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng khám 
chữa bệnh cho người dân, dễ xảy ra tình trạng khám qua loa, đội ngũ y bác sĩ nếu 
không có đủ y đức sẽ nhanh nản lòng và làm việc không hết sức mình, phục vụ bệnh 
nhân không tận tình.
Một hiện trạng cũng hết sức cấp bách hiện nay đó là về ngành dược và các thiết 
bị y tế. Hiện nay trên thị trường nổi cộm lên vấn đề cho thuê bằng dược sĩ để mở tiệm 
thuốc tây. Theo quy định của Pháp lệnh về hành nghề y dược tư nhân, thì những dược 
sĩ đứng tên xin giấy phép phải có mặt nơi kinh doanh. Người đang làm việc trong các 

cơ sở y, dược Nhà nước chỉ được hành nghề ngoài giờ khi có sự đồng ý bằng văn bản 
của thủ trưởng cơ quan. Thế nhưng Nhà nước đưa ra pháp lệnh nhưng không có người 
giám sát chặt chẽ, thường xuyên kiểm tra nên hiện nay hàng loạt các nhà thuốc tư nhân 
mà người bán thuốc không phải là người có tên trong giấy phép đang kí kinh doanh. 
Việc cho thuê bằng trái phép và để người không có trình độ bán thuốc có thể dẫn tới 
những hệ lụy tiêu cực đối với người tiêu dùng. Đó là bán thuốc không theo toa chỉ định, 
bán không đúng giá thị trường theo quy định của Bộ y tế, thậm chí nguy hiểm hơn là 
bán nhầm thuốc. Người dân luôn tin tưởng vào đội ngũ y bác sĩ dược sĩ thế nên những 
tình trạng trên cần được chấm dứt và có biện pháp khắc phục sớm.


17

4.Qu
  ản lý, sản xuất và cung   ứng  thu
  ốc: 
Thuốc đóng  một vai trò rất quan trọng trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe 
người dân, là một trong những yếu tố chủ yếu nhằm đảm bảo mục tiêu sức khỏe cho 
mọi người. 
Theo Bộ Y tế, tính đến tháng 11­2014, có 133 dây chuyền sản xuất thuốc đạt tiêu 
chuẩn thực hiện tốt sản xuất thuốc (GMP) tại Việt Nam được đầu tư; 177 doanh 
nghiệp đạt thực hành tốt phân phối thuốc. Việt Nam là một trong số ít các nước sản 
xuất được vắc xin với 12 loại vắc xin sử dụng phòng 10/12 bệnh, đáp ứng cơ bản nhu 
cầu cho chương trình tiêm chủng mở rộng.Tuy nhiên hiện nay, theo  Cục quản lý dược 
cho biết: Khó khăn lớn nhất của ngành dược Việt Nam hiện nay là thuốc sản xuất 
trong nước mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu sử dụng với nguyên liệu sản xuất chủ 
yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Thuốc sản xuất trong nước chủ yếu là thuốc bào chế 
đơn giản, trong khi phần lớn các loại thuốc mới, thuốc đặc trị ở dạng bào chế phức tạp 
chưa được đầu tư sản xuất. Khó khăn về ngân sách y tế và cơ sở hạ tầng yếu kém phát 
triển, người dân khó có điều kiện để có thuốc khi cần. Điều này đã ảnh hưởng đến 

mục tiêu cốt yếu của kinh tế công là đảm bảo cho những tầng lớp dân cư thu nhập 
thấp và khó khăn nhất vẫn có thuốc và dịch vụ y tế khi cần với giá có thể chấp nhận 
được. Do tình trạng độc quyền về giá thuốc người dân đã phải chịu mua thuốc với giá 
cao. Mặc dù trong nhiều năm Bộ y tế cũng công bố niên yết giá thuốc của doanh 
nghiệp sản xuất, kinh doanh nhưng cũng chỉ là mang tính chất hình thức vì không có sự 
quản lý chặt chẽ. Sự quản lý các loại thuốc ở một số cơ sở y tế thuộc các địa phương 
còn rất yếu kém. Người dân thường xuyên bị phát thiếu thuốc hoặc thuốc có chất 
lượng kém. Việc quản lý kém hiệu quả đã dẫn đên những hậu quả nghiêm trọng  như 
vụ việc 3 trẻ sơ sinh tử vong sau khi tiêm vắc xin viêm gan B, xảy ra tại Bệnh viện Đa 
khoa huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị vào ngày 20/7/2013 do y tá tiêm nhầm thuốc vì 
loại thuốc này được bảo quản chung trong ngăn bảo quản vắc­xin viêm gan B. Tình 
trạng sử dụng thuốc không an toàn­ hợp lý, thuốc giả, kém hiệu quả cũng là một hiện 
tượng phổ biến để lại những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều mặt : sức khỏe nhân 
dân, bệnh tật và lãng phí ngân sách Nhà nước
5.Các chính 
 
 sách
   : 
Bộ y tế tiếp tục thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em 
dưới 6 tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng hưởng chính sách xã hội.  
Tuy nhiên đang có một nghịch lý đáng báo động, khi mà tỷ lệ chi từ ngân sách nhà 
nước cho y tế tăng nhanh trong những năm gần đây, nhưng mức chi từ tiền túi của các 


18

hộ gia đình vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi khiến cho nhiều hộ gia đình rơi vào 
nghèo đói ngay khi có người đau ốm. Trong những năm gần đây, mức chi từ ngân sách 
nhà nước cho y tế đang tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cách đây sáu năm, 
vào năm 2008 ngân sách nhà nước chi cho y tế chỉ chiếm 4,92% tổng chi thì đến những 

năm gần đây, tỷ lệ này là 8,28%.Theo Báo cáo về thực trạng hệ thống y tế Việt Nam, 
mức tăng chi của ngân sách nhà nước chủ yếu để dành cho y tế dự phòng, hiện đại hóa 
cơ sở hạ tầng y tế bằng các dự án như: nâng cấp hệ thống y tế cấp huyện, tỉnh và 
trung ương. Ngoài ra, mức tăng chi này còn do tăng chi bảo hiểm y tế (BHYT). Cùng 
với việc tăng chi từ ngân sách nhà nước, tỷ lệ chi trả từ tiền túi của người dân cho các 
dịch vụ y tế vẫn đang "cao ngất ngưởng" so với nhiều nước trong khu vực. Cụ thể, 
theo số liệu từ Tài khoản y tế quốc gia, nếu năm 2004, tính trung bình mỗi hộ gia đình 
phải chi 126,4 nghìn đồng mỗi tháng cho y tế thì đến năm 2010 số tiền này đã tăng lên 
gần gấp đôi là 243 nghìn đồng và theo xu hướng tiếp tục tăng trong những năm gần 
đây. So với nhiều nước có cùng điều kiện kinh tế trong khu vực thì hệ thống y tế nước 
ta đang kém ưu thế hơn. Thí dụ như tỷ lệ chi từ tiền túi các hộ gia đình ở Thái Lan chi 
phí cho y tế khoảng 13,1%, In­đô­nê­xi­a khoảng 45%, Ma­lai­xi­a khoảng 35% và trung 
bình chung của toàn thế giới khoảng xấp xỉ 20%. WHO đã từng khuyến cáo, để bảo 
đảm cho sự an toàn đối với chi tiêu gia đình thì tỷ lệ chi cho các dịch vụ y tế chỉ nên 
chiếm khoảng 20% đến 30% tổng chi. Trong cơ cấu ngân sách cho khu vực chữa bệnh 
có sự mất cân đối khá rõ ràng. Cho dù Nhà nước ưu tiên đầu tư theo đầu người cao hơn 
cho vùng núi, vùng nghèo, song khả năng đóng góp của cộng đồng  qua viện phí và bảo 
hiểm y tế lại rất hạn chế dẫn tới mức chi y tế bình quân đầu người chênh lệch giữa 
các vùng khá lớn. Vùng càng nghèo mức chi y tế bình quân càng thấp. Điều này làm tính 
công bằng của hệ thống y tế càng thấp, người dân tiếp cận được với các dịch vụ y tế 
xuất phát chủ yếu từ khả năng chi trả hơn là nhu cầu chăm sóc sức khỏe,  người nghèo 
càng khó tiếp cận với các dịch vụ y tế. Xu hướng người dân sử dụng trạm y tế xã và 
bệnh viện huyện đang tăng dần, tỷ lệ đến y tế tư nhân giảm đi cho thấy các dịch vụ y 
tế công hiện nay đang dần phục hồi và có sức hút nhiều hơn. Tuy nhiên sự thiếu công 
bằng vẫn xảy ra khá rõ giữa nhóm người trả tiền sử dụng hình thức khám dịch vụ và 
nhóm người sử dụng các loại thẻ miễn giảm y tế. Đối với các trạm y tế xã, hiện trạng 
sử dụng dưới công suất còn khá rõ cho dù Nhà nước và Bộ y tế đã có nhiều cố gắng 
tăng cường đầu tư các nguồn lực



19

IV. Đề xuất ý kiến nhằm nâng cao tính công bằng và hiệu quả trong hàng hóa 
công y tế 
1.Các gi
 
ải pháp  c  ơ bản cho tình trạng thông tin bất cân xứng 
1.a. Giải pháp cho thông tin bất cân xứng giữ bệnh nhân và y bác sĩ
Xây dựng và phát triển các tổ chức tư vấn sức khỏe trực tuyến giúp hạn chế 
chênh lệch thông tin đồng thời tiết kiệm thời gian, chi phí cho khách hàng .
Có những biện pháp kiểm tra, giám sát các của hàng y tế, buộc dược sĩ phải cam 
kết trách nhiệm với mọi hoạt động cửa hàng. Hạn chế sự mất cân xứng thông tin .
Cho bệnh nhân đánh giá chất lượng cũng như trình độ của bác sỹ trực tiếp chữa 
bệnh cho mình thông qua bảng đánh giá từ đó kiểm tra, đánh gia tay nghề cũng như tâm 
huyết nghề nghiệp của y bác sỹ từ đó giúp tìm ra các bác sỹ vừa có trình độ, vừa có 
tâm. Qua đó giúp bệnh nhân có thể có căn cứ chính xác hơn để lựa chon bác sỹ chữa 
bệnh phù hợp cho mình.
Chính phủ cần niêm yết giá thuốc, đồng nhất giá khám, chữa bệnh trong bệnh 
viện công
Thành lập các trang web, viết các bài báo chuyên về sức khỏe, y tế cho toàn dân, 
giúp họ tiếp xúc , hiểu biết thêm về y tế. Nhưng những bài báo, trang web này phải 
đáng tin cậy, được kiểm duyệt chặt chẽ, mang thông tin sức khỏe, y tế đến mọi người 
dân
1.b. Giải pháp cho thông tin bất cân xứng giữ người mua bảo hiểm y tế với nhà bảo  
hiểm
Để khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng giữa người mua bảo hiểm y tế với 
nhà bảo hiểm nhóm chúng tôi xin đưa ra giải pháp là: chính phủ cần đưa ra chính sách 
bắt buộc mọi người dân đều mua bảo hiểm y tế. Khi đó không còn tình trạng những 
người mua bảo hiểm phần lớn là những người có khả năng mắc bệnh cao. Đây cũng 
được coi là chính sách công bằng, đoàn kết xã hội, thể hiện tinh thần dân tộc một 

người vì mọi người, mọi người vì một người. Chính phủ cũng cần cấp Bảo hiểm y tế 
miễn phí cho người nghèo. Với hình thức này, cơ quan bảo hiểm y tế cấp thẻ Bảo 
hiểm y tế cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi… miễn phí 
thông qua ngân sách của Nhà nước. 
Đề hạn chế tâm lý hành xử tắc trách cuả người mua bảo hiểm thì có thể hạn chế 
số lần khám chữa bệnh đối với một thẻ y tế. ví dụ như một thẻ bảo hiểm y tế một 
năm có thể khám và chữa bệnh tối đa 10 lần (Nếu quá 10 lần thì sẽ có giải pháp khác 
như: phải đóng 70% tiền khám, chữa bệnh, hoặc đóng thêm tiền để gia hạn số lần 
chữa bệnh cho thẻ bảo hiểm….)


20

2.Đ
  ề xuất giải pháp về vấn đề ngoại tác trong y tế công 
2.a. Giải pháp cho ngoại tác tích cực trong y tế công
Chính phủ đã thực hiện hình thức trợ giá hoặc bù lỗ, sử dụng hình
thức trợ cấp bằng hiện vật : dược phẩm, dụng cụ y tế, cơ sở hạ tầng­ vật chất để 
tăng sản lượng hàng hóa cung ứng .
Để khuyến khích địa phương mở rộng cung cấp hàng hóa y tế, chính phủ cam kết 
là : “ Cứ mỗi đồng địa phương chi cho y tế, chính phủ sẽ trợ giá  theo tỷ lệ phần trăm 
nào đó”
2.b. Đề xuất ý kiến cho ngoại tác tiêu cực trong y tế công
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của cán bộ thanh tra trong việc quản lí nguồn chi 
ngân sách Nhà Nước về y tế .Phải đảm bảo nguồn trợ cấp của chính phủ đúng yêu cầu 
đặt ra , quyền lợi cuối cùng đến được tay người dân một cách hiệu quả nhất .
Nhà nước cũng cần đầu  tư phát triển mạng lưới y tế dự phòng đủ khả năng dự 
báo, giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh, giảm tỷ lệ mắc  và tử vong do dịch 
bệnh gây ra , đầu tư sắp xếp lại mạng lưới khám chữ bệnh và phục hồi chức ăng theo 
hướng phát triển cụm dân cư .

Củng cố và hoàn thiện mạng lưới cơ sở, nâng cao khả năng tiếp cận của người 
dân đến các dịch vụ y tế thiết yếu.
Củng cố nâng cao năng lực nhà  nước về dược phẩm, phát triển mạng lưới giao 
thông, phân phối và cung ứng thuốc để chủ động thường xuyên, đủ thuốc có chất 
lượng, giá cả hợp lí và ổn định thị trường 
Xây dựng những cơ sở y tế bình dân, cao cấp cho từng các đối tượng thu nhập xã hội. 
Cụ thể : 
Với những người dân có khả năng chi trả trung bình và thấp, sẽ khám và chữa 
bệnh ở các bệnh viện công ( bình dân ). Ở đó mọi người sẽ được đối xử bình 
đẳng, chi phí hợp lí và chất lượng đảm bảo 
Với những thành phần dân cư có thu nhập cao, sẽ đăng kí ở những cơ sở y tế cao 
cấp tương ứng. Tuy nhiên , giá cả sẽ cao hơn nhiều và nguồn thu ở những bệnh 
viện này sẽ trích ra một phần cho các bệnh viện bình dân.
Có những chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, khuyết tật, 
thương binh, liệt sỹ…. Đồng thời cũng trang bị trang thiết bị, bác sỹ có tay nghề cũng 
như các loại thuốc , vắc xin đến vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo
3.Chính sách c
 
ạnh tranh cung ứng dịch vụ kinh tế : 
Nhận thức được thực trạng cung cấp hàng hóa y tế công ở Việt Nam vẫn còn 
diễn ra một số vấn đề về ngân sách, nguồn lực, sự giám sát và minh bạch cũng như tính 
hiệu quả chưa  hẳn là cao của 5 đề xuất trên. Chính phủ luôn nghiên cứu,  tìm tòi , học 
tập những giải pháp thiết thực hơn cả về cung cấp dịch vụ kinh tế. Được nhắc đến 
trong những năm gần đây chính là đề xuất thực hiện cho các nhà đầu tư cạnh tranh về 
cung ứng dịch vụ kinh tế. 


21

Việt Nam đã rất nỗ lực để đảm bảo tạo ra một sân chơi công bằng, minh bạch 

nhằm thu hút các nhà thầu trong và ngoài nước có năng lực tham gia cung cấp hàng hóa 
y tế… Theo đó, thông qua đấu thầu, công tác quản lý trong lĩnh vực đầu tư y tế  của 
Nhà nước ngày càng được nâng cao, nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả, nhân dân 
được tiếp cận một cách dễ dàng với dịch vụ khám và chữa bệnh. 
Đó chính là chính sách cạnh tranh cung ứng dịch vụ y tế mà chính phủ Việt Nam 
đang từng bước chiển khai. Và chúng ta đi đến những cái nhìn cụ thể hơn về vấn đề 
này : 
3.a. Khái niệm 
Cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế phản ánh quan hệ giữa các chủ thể kinh 
tế trong việc tranh giành những lợi thế cho bản thân bằng nhiều phương pháp thích hợp 
để cung ứng dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe phục vụ mọi tầng lớp nhân dân một cách 
hiệu quả và công bằng theo đúng mục tiêu đã cam kết.
3.b. Tính chất 
Cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế do tính chất đặc thù của ngành liên quan 
đến sức khỏe con người và mạng sống con người do vậy cạnh tranh trong lĩnh vực này 
luôn bị giới hạn và ràng buộc hay nằm trong sự kiểm soát nhất định của các quy định 
hành chính nhà nước. Cạnh tranh có kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan chức năng của 
nhà nước.
3.c. Mục tiêu khi thực hiện chính sách 
Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mang lại nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh 
tế quốc dân. Đặc biệt, khi tham gia đấu thầu các nhà đầu tư  phải sử dụng mọi biện 
pháp cạnh tranh để thắng thầu, trong đó có biện pháp giảm giá. Vì vậy, Nhà nước chỉ 
phải bỏ ra một khoản tiền ít hơn dự toán về việc cung cấp dược phẩm, các thiết bị….
Tại Việt Nam thời gian qua, hoạt động cạnh tranh đã từng bước khẳng định vai 
trò quan trọng đối với nâng cao hiệu quả hoạt động chi tiêu công về y té . Báo cáo của 
các địa phương cho thấy, thông qua công tác cạnh tranh, đã góp phần tiết kiệm một 
phần ngân sách không nhỏ cho quốc gia, địa phương. 
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ y 
tế nhằm tạo lập và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng và công bằng trong tiếp cận các 
nguồn lực.

Xóa bỏ mọi rào cản gây cản trợ cho sự gia nhập thị trường dịch vụ y tế của các chủ 
thể tham gia cung ứng dịch vụ y tế.
Có các chính sách thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực cung 
ứng dịch vụ y tế chất lượng cao tại Việt Nam
Tăng cường giám sát cạnh tranh và kiểm soát chất lượng tại các đơn vị cung ứng dịch 
vụ y tế. Bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
Học tập kinh nghiệm từ các quốc gia đã và đang thực hiện hiệu quả chính sách 
này : Anh, Đức, Ấn Độ…..
Xây dựng và hoàn thiện chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế là chủ 
trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Đó là xu thế tất yếu, khách quan không 


22

thể đảo ngược trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì vậy, chính phủ cần đổi mới tư duy và cách tiếp cận trong cung ứng dịch vụ y 
tế ở Việt nam nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống y tế công bằng, hiệu quả 
và phát triển. Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và 
văn minh.



×