Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu điều trị phẫu thuật bướu sau phúc mạc tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.59 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT BƯỚU SAU PHÚC MẠC
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Ngô Xuân Thái*, Trần Anh Vũ*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Điều trị phẫu thuật bướu sau phúc mạc rất khó khăn do bướu nằm sâu bên trong ổ bụng, bản
chất mô bệnh học đa dạng và triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu. Hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu hệ
thống có số lượng lớn về bướu sau phúc mạc được báo cáo.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị phẫu thuật bướu sau phúc mạc tại bệnh viện Chợ Rẫy,
thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: đây là nghiên cứu hồi cứu, với 77 TH (TH) có kết quả giải phẫu
bệnh là bướu sau phúc mạc được chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ 1/2013 đến
12/2014.
Kết quả: 39 bệnh nhân nam (50,6%) và 38 bệnh nhân nữ (49,4%). Tuổi trung bình 47,8 ± 17,3. Đau hông
lưng (31,2%) và đau bụng (28,6%) là hai triệu chứng thường gặp nhất. Chẩn đoán sau mổ có 38TH bướu có
nguồn gốc trung mô, 22 TH bướu có nguồn gốc thần kinh, 7 TH có nguồn gốc tế bào mầm và 10 TH nang sau
phúc mạc. Thời gian mổ 136,4 ± 85,5 phút. Có 55 TH (71,4%) cắt trọn bướu, trong đó 3 TH (4,5%) được phẫu
thuật nội soi. Trong quá trình phẫu thuật, có 7 TH (9%) phải cắt các tạng khác do bướu xâm lấn.
Kết luận: Phần lớn các TH bướu sau phúc mạc được phát hiện khi bướu đã có kích thước to, bệnh nhân có
triệu chứng do bướu chèn ép hoặc xâm lấn vào các cơ quan lân cận. Thời gian phẫu thuật thường kéo dài và phẫu
thuật viên phải có nhiều kinh nghiệm để xử trí các tạng liên quan.
Từ khóa: Bướu sau phúc mạc.

ABSTRACT
DIAGNOSIS AND MANAGEMENT OF RETROPERITONEAL TUMORS
IN CHO RAY HOSPITAL 2013-2014
Ngo Xuan Thai, Tran Anh Vu* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 23 - 27


Background: Surgical treatment of retroperitoneal tumor is difficult because the tumor is located deep
within the abdomen, histopathological diversity and nonspecific clinical symptoms. In our country, no systematic
study of retroperitoneal tumors have been conducted.
Objective: we investigate the diagnosis and surgical management of retroperitoneal tumors.
Material and methods: this is a retrospective study, 66 patients with pathological resulted retroperitoneal
tumors were presented at Cho Ray Hospital from 1/2013 to 12/2014.
Results: 32 male (48.4%) and 34 female (51.6%). The median age is 48.5 ± 16.9. Flank pain (33.3%) and
abdominal pain (27.3%) are the two most common symptoms. Post operative diagnostic included 34
mesenchymal tumors, 17 neural tumors, 17 germ cell tumors and 7 retroperitoneal cysts. The mean operation
duration time is 132.9 ± 32.9 minutes. Complete resection was done in 47 (71.2%) patients and 3 cases (4.5%)
* Đại học Y dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Ngô Xuân Thái

Chuyên Đề Thận – Niệu

ĐT: 0918017034

Email:

23


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

were performed by laparoscopy. 7 patients (10.6%) at least one organ was resected completely or partially en bloc
with tumor.
Conclusion: Mosts of cases present when the tumors have large size, symptoms cause by tumor compression
or invasion into adjacent organs. The operation takes a lot of time and it requires the surgeron have to be skillfull

and experience to manage the associated organs.
Keywords: Retroperitoneal tumors.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Bướu sau phúc mạc gồm tất cả các loại bướu
xuất phát từ khoang sau phúc mạc và không có
nguồn gốc thực sự từ các tạng sau phúc mạc
(thận, tuyến thượng thận, niệu quản...)(Error! Reference
source not found.). Chẩn đoán bướu sau phúc mạc luôn
đặt ra nhiều vấn đề khó khăn do bệnh nhân
không có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu, thường
chỉ thể hiện rõ khi bướu đã đủ lớn(5,11). Điều trị
bướu sau phúc mạc chủ yếu là phẫu thuật, tuy
nhiên do bướu thường liên quan đến nhiều cơ
quan, đặc biệt là các mạch máu lớn nên việc cắt
hết bướu mà không gây tổn thương các cơ quan
khác là điều không dễ dàng. Bên cạnh đó, do
bướu có bản chất mô bệnh học đa dạng nên tiên
lượng sau mổ của mỗi bệnh nhân lại thay đổi tùy
theo từng thể lâm sàng.

Tất cả những bệnh nhân được phẫu thuật và
có giải phẫu bệnh sau mổ là bướu sau phúc mạc,
bao gồm cả những TH chỉ sinh thiết bướu.
Chúng tôi không đưa vào nghiên cứu những TH
bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh khác nhau
giữa hai lần mổ.


Trong 5 năm gần đây do sự phát triển của
các phương tiện chẩn đoán hình ảnh và hóa mô
miễn dịch, chẩn đoán và điều trị bướu sau phúc
mạc đã có nhiều thay đổi. Tại Việt Nam, hiện chỉ
có một số ít công trình nghiên cứu về bướu sau
phúc mạc được thực hiện và báo cáo với số liệu
còn hạn chế. Vì vậy việc cần có một nghiên cứu
để tổng kết, đánh giá hiệu quả điều trị là vô cùng
cần thiết. Đó cũng là lý do chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này với mục tiêu: Đánh giá kết quả
sớm điều trị phẫu thuật bướu sau phúc mạc tại
bệnh viện Chợ Rẫy trong 2 năm 2013-2014.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành hồi cứu 77TH được chẩn
đoán là bướu sau phúc mạc và được phẫu thuật
tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian 2 năm
2013-2014.

24

Quy trình nghiên cứu

Hình 1. Phân vùng khoang sau phúc mạc
Chúng tôi hồi cứu hồi cứu hồ sơ những bệnh
nhân nhập viện từ ngày 1/1/2013 đến ngày
30/12/2014 có đủ tiêu chuẩn chọn bệnh, ghi nhận
những đặc tính sau: Tuổi, giới, số lần phẫu thuật,

lý do nhập viện, vị trí bướu: chúng tôi dựa vào
hình ảnh trên phim CT scan và ghi nhận của
phẫu thuật viên, phân chia bướu vào các vùng
theo hình 1. Kích thước bướu: dựa vào kích
thước bướu được đo trên phim CT scan, được
tính bằng kích thước trung bình (ngang + dọc +

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
cao)/3. Đường mổ: nội soi hay mổ mở. Thời gian
mổ (phút): tính từ lúc rạch da tới khi đóng mũi
chỉ cuối cùng. Cách thức mổ, các tạng cắt kèm
theo trong mổ do bướu xâm lấn, các tạng tổn
thương trong khi mổ. Các tai biến trong khi mổ
và biến chứng sau khi mổ, kết quả gần sau mổ.

KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Có 77TH BSPM được phẫu thuật trong đó có
32TH được phẫu thuật trong năm 2013, 45TH
trong năm 2014. Tuổi trung bình của bệnh nhân
là 47,8 ± 17,3 (19 – 85). Có 39 bệnh nhân nam
(50,6%) và 38 bệnh nhân nữ (49,4%). Về giải
phẫu bệnh lý: 44TH là bướu lành tính và 33TH là
ác tính.

Nghiên cứu Y học
Lâm sàng và cận lâm sàng

Số lần mổ do bướu sau phúc mạc là 1,2 ± 0,7,
có 1 TH phải mổ 5 lần do bướu tái phát.
Bảng 1. Lý do vào viện của bệnh nhân
Lý do
Đau hông lưng
Đau bụng
Tự sờ thấy bướu
Tình cờ
Rối loạn tiết niệu
Yếu chân
Phù chân
Khác
Tổng

Số BN (n)
24
22
8
7
5
5
3
3
77

Tỷ lệ (%)
31,2
28,6
10,4
9,1

6,5
6,5
3,9
3,9
100

Đau bụng và đau hông lưng là 2 triệu chứng
thường gặp nhất khiến bệnh nhân nhập viện.

Bảng 2. Liên quan giữa tính chất ác tính và các đặc điểm của bướu
Đặc tính
Bắt thuốc cản quang
Bờ không đều
Cạnh cột sống
Thắt lưng 2 bên
Khung chậu
Kích thước bướu
Số lần mổ

Lành N= 44
6 (13,6)
12 (27,3)
6 (13,6)
33 (75)
5 (11,4)
11 (5,7)
1,2 (0,5)

Bắt thuốc cản quang và bờ không đều là 2
đặc điểm có giá trị giúp tiên đoán tính lành ác

của u, đặc biệt là bắt thuốc cản quang với
OR=23,5.

Kết quả phẫu thuật

N (%) hoặc trung bình (độ lệch chuẩn)
Ác N= 33
95% OR
26 (78,6)
23,5 ( 7-78)
22 (66,7)
5.3 (1,9 -14,2)
6 (18,2)
1,9 (0,5-6,7)
20 (60,6)
0,5 (0,1-1,3)
7 (21,2)
1,9 (0,5-6,7)
11,3 (5,4)
1,3 (0,9)

trong quá trình phẫu thuật hoặc chảy máu nhiều
phải truyền máu. Có 9TH phẫu thuật viên chủ
động cắt một phần hoặc toàn bộ các tạng khác do
bướu xâm lấn, trong đó ruột là cơ quan dễ bị tổn
thương nhất (4/9TH).
Bảng 3. Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật

Biểu đồ 1. Phân loại nguồn gốc bướu sau phúc mạc

Bướu có nguồn gốc trung mô chiếm tỷ lệ cao
nhất 49,4%.
Thời gian mổ trung bình của loạt nghiên cứu
này là 136,4 ± 85,5 (15 – 570). Không có TH nào tử
vong sau mổ. Có 12TH tổn thương các tạng khác

Chuyên Đề Thận – Niệu

P
0,001*
0,002*
0,28
0,17
0,58
0,8
0,6

Mổ mở cắt toàn bộ bướu
Nội soi cắt bướu
Cắt bướu bán phần
Mổ mở sinh thiết bướu
Nội soi sinh thiết bướu
Khác
Tổng

Số bệnh
nhân (N)
52
3
1

13
5
3
77

Tỷ lệ (%)
67,5
3,9
1,3
16,9
6,5
3,9
100

Chúng tôi ghi nhận 3 TH bệnh nhân vào
viện với các triệu chứng do bướu xâm lấn nhiều
cơ quan, phẫu thuật viên không thể tiếp cận
được bướu nên 1 TH được nối vị tràng, 2 TH làm
hậu môn nhân tạo.

25


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học

Bảng 4. Liên quan giữa kết quả phẫu thuật và đặc tính của bướu
Đặc tính
Vị trí


Nguồn gốc
bướu

Cạnh cột sống
Thắt lưng hai bên
Chậu
Trung mô
Thần kinh
Tế bào mầm
Liên quan cơ quan
Ác tính
Kích thước

Cắt bướu ( N=56)
3 (5,4)
45 (80,4)
8 (14,3)
27 (48,2)
16 (28,6)
3 (5,4)
25 (44,6)
20 (35,7)
11,7 (5,4)

Vị trí và tính chất lành, ác của bướu có liên
quan đến kết quả phẫu thuật.

BÀN LUẬN
Bướu sau phúc mạc là một bệnh cảnh gây

nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị.
Bệnh nhân thường vào viện với các triệu chứng
đa dạng, xuất hiện khi bướu đã đủ lớn và chèn
ép các cơ quan khác. Theo Hoàng Dương
Vương(2) triệu chứng đau bụng chiếm 89.7%, Lê
Ngọc Thành(3) là 85%, theo Dirk C Strauss(9) 85 %
sờ thấy u bụng. Trong nghiên cứu của chúng tôi
đau hông lưng (31,2%), đau bụng (28,6%) là các
triệu chứng thường gặp nhất khiến bệnh nhân
nhập viện. Sở dĩ tỉ lệ của chúng tôi thấp hơn có
thể do ý thức người dân cao dần, có khám sức
khỏe định kỳ hoặc khám ngay khi có các biểu
hiện bất thường trong cơ thể, mặt khác trình độ
khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y tế phát triển
nhanh chóng cũng làm cho tỉ lệ phát hiện bệnh
sớm hơn và cao hơn.
Dễ tái phát là một trong những đặc tính
của BSPM(5,11). Số lần mổ trung bình trong
nghiên cứu của chúng tôi là 1,2 ± 0,7, thấp hơn
so với nghiên cứu của tác giả Trịnh Hồng
Sơn(10) là 1,9 ± 0,4. Tuy nhiên điều này có thể
giải thích được là do trong mẫu nghiên cứu
chúng tôi, bướu lành tính chiếm tỷ lệ khá cao
(57,1%).
Sự ra đời của cắt lớp vi tính mở ra một bước
ngoặt mới trong thăm dò bệnh lý sau phúc mạc.
Các bướu ác tính hầu hết đều ngấm thuốc(1)
(78,6%), trong khi bướu lành tính chỉ có 13,6 %.

26


Không cắt được ( N= 21)
P
N (%) hoặc trung bình (độ lệch chuẩn)
9 (42,9)
< 0,001*
8 (38,1)
< 0,001*
4 (19)
0,72
11 (52,4)
0,75
6 (28,6)
0,99
4 (19)
0,063
14 (66,7)
0,085
13 (61,9)
0,039*
9,7 (1,2)
0,165

95% OR
0,07 (0,01 -0,075)
6,6 (2,2-19,9)
0,7 (0,18-2,6)
0,84 (0,3-2,3)
0,3 (0,3-3)
0,2(0,49-1,1)

0,4 (0,14-1,1)
0,34 (0,12 -0,96)

Kết quả của chúng tôi tương tự với các nghiên
cứu khác của Phạm Quang Hà: bướu ác có 63,4%
bắt thuốc. Ngấm cảng quang mạnh có 9 TH, tất
cả đều là các bướu giàu mạch máu, trong đó có 2
TH bướu quanh mao mạch đều ngấm mạnh.
Do đặc điểm của BSPM mà nhiều chuyên
khoa phẫu thuật: mạch máu, tiêu hóa… đều có
liên quan. Chúng tôi có 9 TH gặp tai biến trong
mổ, đặc biệt có 2 TH tổn thương mạch máu lớn:
tĩnh mạch chủ dưới, động mạch thận gây mất
nhiều máu phải truyền máu. Hai TH sau đó đều
ổn. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ cắt được bướu là
72,7%, tỷ lệ này thay đổi từ 55-80% tùy nghiên
cứu. Tìm hiểu mối liên hệ giữa bản chất bướu và
khả năng căt bướu, chúng tôi thấy bản chất lành
ác của bướu có liên quan trực tiếp đến kết quả.
Ngoài ra vị trí của bướu cũng là một yếu tố tiên
lượng khả năng phẫu thuật. Những bướu nằm
quanh cột sống, liên quan với các mạch máu lớn
thì khả năng cắt trọn bướu là rất khó khăn.
Trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi
nhận được lượng máu mất trong quá trình phẫu
thuật, một yếu tố trong đánh giá kết quả phẫu
thuật. Tuy nhiên, do chỉ có 4/71TH (5%) phải
truyền máu nên cũng không ảnh hưởng quá
nhiều đến kết quả nghiên cứu.


KẾT LUẬN
Kêt quả từ nghiên cứu này cho thấy BSPM
thể hiện bằng nhiều triệu chứng đa dạng, đau
bụng và đau hông lưng vẫn là hai triệu chứng
thường gặp nhất. CT scan có vai trò quan trọng
cả trong chẩn đoán và điều trị, giúp dự đoán bản
chất và tiên lượng phẫu thuật dựa trên một số

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
đặc điểm như bờ của bướu, bắt cản quang, vị trí
bướu… Từ kết quả này đặt ra yêu cầu cần có
những ngiên cứu khác để đánh giá mối liên
quan giữa các đặc điểm của bướu với thời gian
sống sau mổ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Xuân Tuấn (2001), Nghiên cứu hình ảnh chụp cắt lớp vi tính
các u sau phúc mạc nguyên phát thường gặp ở bệnh viện Việt
Đức, Luận văn thạc sỹ Y học - Đại học Y khoa Hà Nội.
2. Hoàng Dương Vương (1998), Nghiên cứu chẩn đoán lâm sàng
và cận lâm sàng của các u sau phúc mạc thường gặp tại bệnh
viện Việt Đức,Luận văn thạc sỹ y học - Đại học Y khoa Hà
Nội.
3. Lê Ngọc Thành (1987), Góp phần chẩn đoán các khối u sau phúc
mạc, Luận án tốt nghiệp Bác sỹ nội trú - Đại học Y khoa Hà
Nội.
4. Margaret Von Mehren et al (2014), Soft tissue sarcomas, NCCN

clinical practice guidelines in oncology.
5. Oland A.Y.G (1984), Primary retroperitoneal soft tissue sarcoma,
Journal of surgical oncology, 25: 8 – 11.

Chuyên Đề Thận – Niệu

Nghiên cứu Y học
6. Sheldon C. Binder, Bertram Katz (1998), Retroperitoneal
Liposarcoma, Annals of surgery, 187: 257-261.
7. Skandalakis J.E. et al (2010), Chapter11: Retroperitoneum,
Skandalakis’ Surgical anatomy. Mc Graw Hill.
8. Stanley Bruce Malkowicz (2012), Retroperitoneal tumors,
Campbell - walsh urology, W.B. Saunders company,
USA,1507.
9. Strauss D.C (2011), Retroperitoneal tumours: review of
management, Ann R Coll Surg Engl 2011; 93: 275–280.
10. Trịnh Hồng Sơn , Hoàng Dương Vương, Đỗ Đức Vân, Nguyễn
Phúc Cương (1999), Nghiên cứu chẩn đoán và kết quả điều trị
các khối u sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn
1991-1999, Tạp chí Y học thực hành tháng 10 năm 1999.
11. Venter A. et al (2013), Difficulties of diagnosis in retroperitoneal
tumors, Romanian Journal of Morphology & Embryology,
2013, 54(2): 451 - 456.

Ngày nhận bài báo:

10/05/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:


01/06/2015

Ngày bài báo được đăng:

05/08/2015

27



×