Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

23 Nc 914 khảo sát việc sử dụng các thuốc ức chế DPP-4 trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.99 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017

Nghiên cứu Y học

23 Nc 914 KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG CÁC THUỐC ỨC CHẾ DPP-4 TRÊN
BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TPHCM
Đặng Nguyễn Đoan Trang*, Trần Thị Anh Thư*

TÓM TẮT
Mở đầu: Thuốc ức chế dipeptidyl peptidase 4 (DPP-4) là 1 nhóm thuốc mới trong điều trị đái tháo đường
với chỉ định đơn trị hoặc phối hợp. Một số hoạt chất đã được sử dụng tại Việt Nam (sitagliptin, vildagliptin,
saxagliptin, linagliptin) và mở ra triển vọng mới trong điều trị đái tháo đường typ 2.
Mục tiêu: Khảo sát việc sử dụng các thuốc ức chế DPP-4 trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại
trú tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 385 bệnh nhân đái tháo đường
týp 2 chưa đạt mục tiêu HbA1c (HbA1c > 7%), được chỉ định thuốc ức chế DPP-4 lần đầu tiên và không thay đổi
phác đồ đái tháo đường trong 3 tháng khảo sát. Thông tin được ghi nhận bằng cách phỏng vấn và thu thập từ hồ
sơ điều trị ngoại trú. Cân nặng và chiều cao của bệnh nhân được đo vào thời điểm ban đầu và 3 tháng sau đó.
Kết quả: Thuốc ức chế DPP-4 được chỉ định phổ biến nhất là vildagliptin. Metformin là thuốc được chỉ định
phối hợp nhiều nhất với thuốc ức chế DPP-4. Sau 3 tháng khảo sát, glucose huyết giảm trung bình 1,72 ± 2,01
(mmol/L) và HbA1c giảm trung bình 1,08 ± 0,82%; 37,9% bệnh nhân đạt mục tiêu glucose huyết và 35,8% bệnh
nhân đạt mục tiêu HbA1c. Các yếu tố liên quan đến khả năng đạt mục tiêu HbA1c bao gồm mức glucose huyết,
mức HbA1c, mức triglycerid và BMI ban đầu. Thời gian mắc bệnh, mức HbA1c, mức triglycerid và mức BMI
ban đầu có liên quan đến mức giảm HbA1c. Phần lớn bệnh nhân không thay đổi cân nặng sau 3 tháng khảo sát
(54,8%). Không có biến cố bất lợi nghiêm trọng được ghi nhận trong quá trình nghiên cứu.
Kết luận: Hiệu quả của việc sử dụng thuốc ức chế DPP-4 trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chưa kiểm
soát tốt HbA1c đã được ghi nhận trong nghiên cứu. Mặc dù glucose huyết và HbA1c giảm sau 3 tháng điều trị
với thuốc ức chế DPP4 nhưng tỷ lệ đạt mục tiêu điều trị vẫn chưa cao. Ngoài việc kiểm soát đường huyết, cần
kiểm soát tốt triglycerid và cân nặng để tăng hiệu quả điều trị.
Từ khóa: Ức chế DPP4, đái tháo đường, đường huyết, HbA1c, cân nặng



ABSTRACT
INVESTIGATION ON DPP-4 INHIBITORS USE AMONG TYPE 2 DIABETIC OUTPATIENTS AT
UNIVERSITY MEDICAL CENTER HOCHIMINH CITY
Dang Nguyen Doan Trang, Tran Thi Anh Thu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 5 - 2017:
Introduction: Dipeptidyl peptidase-4 inhibitor is a new class of anti-diabetic drugs that was indicated as
monotherapy and add-on therapy. Some drugs in this class have been used in Vietnam (sitagliptin, vildagliptin,
saxagliptin, linagliptin), opening up new perspectives for the management of type 2 diabetes.
Objectives: To investigate the use of DPP-4 inhibitors among type 2 diabetic outpatients at University
Medical Center.
* Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS Đặng Nguyễn Đoan Trang
ĐT: 0909907976

Email:

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017

Materials and methods: A descriptive cross-sectional study was conducted in 385 patients with type 2
diabetes mellitus who had not reached the HbA1c target (HbA1c > 7%) and indicated DPP-4 inhibitors for the
first time without changing the regimen for 3 months. Data were collected by personal interview and from medical
records. Height and weight were measured at baseline and 3 months later
Results: The most popular DPP-4 inhibitor prescribed was vildagliptin. Metformin was the most common
oral hypoglycemic agents to be combined with DPP-4 inhibitors. After 3 months under treatment with DPP-4
inhibitors, blood glucose level reduced by 1.72 ± 2.01 mmol/L, HbA1c reduced by 1.08 ± 0.82% on average; 37.9%

and 35.8% of the study population achieved blood glucose goal and HbA1c goal, respectively. Factors
significantly associated with the ability to achieve HbA1c goal included blood glucose levels, HbA1c levels,
triglyceride levels at baseline and BMI. Duration of diabetes, HbA1c levels, triglyceride levels at baseline and BMI
were found to be significantly associated with the reduction in HbA1c. Weight change wasn’t observed in the
majority of patients (54.8%). No serious adverse event was found during the study period.
Conclusion: The use of DPP-4 inhibitors in patients with type 2 diabetes mellitus who had not reached the
HbA1c goal was found to be effective. Although the change in blood glucose and HbA1c was significant, the
proportion of patients reaching treatment goal were still below expectation. Triglycerides and weight should be
more tightly controlled to increase the efficacy of treatment.
Keywords: DPP4 inhibitors, diabetes mellitus, blood glucose, HbA1c, weight.
hành trên thị trường để đánh giá hiệu quả cũng
ĐẶT VẤN ĐỀ
như tính an toàn của thuốc khi sử dụng trên dân
Đái tháo đường là một trong những bệnh lý
số rộng, trên những đối tượng khác nhau. Tại
mạn tính chiếm tỷ lệ cao và có tốc độ phát triển
Việt Nam, các thuốc ức chế DPP-4 đã và đang
nhanh. Việc nghiên cứu phát triển các thuốc tác
được sử dụng ngày càng nhiều. Tuy nhiên, số
động lên các cơ chế bệnh sinh khác nhau của đái
lượng báo cáo và nghiên cứu về việc sử dụng các
tháo đường týp 2 ngày càng được quan tâm và
thuốc ức chế DPP-4 còn khá khiêm tốn. Đề tài
phát triển trên thế giới.
được tiến hành nhằm cung cấp thêm thông tin
GLP-1 (glucagon-like peptid 1) là một
cho các nhà điều trị và trên cơ sở đó, giúp xây
hormon incretin có tác dụng làm giảm glucose
dựng các phác đồ điều trị tại cơ sở.
huyết thông qua nhiều cơ chế như tăng tiết

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
insulin, giảm tiết glucagon ở tụy, kích thích tế
Đối tượng nghiên cứu
bào β tăng sản, ức chế tế bào β chết theo chương
trình, làm tăng cảm giác no và làm chậm quá
Các hồ sơ điều trị ngoại trú của bệnh nhân
trình làm rỗng dạ dày. Trên cơ sở đó, một số
đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại phòng
thuốc mới có liên quan đến GLP-1 đã được chấp
khám Nội Tiết, bệnh viện Đại học Y Dược
thuận và đưa vào sử dụng, như thuốc ức chế
TPHCM từ tháng 01/2015 đến 07/2016.
dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4) (enzym ức chế
GLP-1). Đây là những lựa chọn điều trị rất hứa
Tiêu chuẩn chọn mẫu
hẹn để khắc phục những hạn chế của các thuốc
Bệnh nhân đái tháo đường týp 2 (chẩn đoán
điều trị cổ điển.
theo hướng dẫn của ADA 2015) ≥18 tuổi mới
Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên
chẩn đoán hoặc chưa kiểm soát tốt với phác đồ
cứu về hiệu quả và tính an toàn của các thuốc ức
điều trị trước đó (HbA1c > 7%), lần đầu sử dụng
chế DPP-4 trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2.
thuốc ức chế DPP-4 và không thay đổi phác đồ
Tuy nhiên vẫn còn đòi hỏi nhiều hơn nữa các
điều trị đái tháo đường trong ít nhất 3 tháng
nghiên cứu hậu lâm sàng sau khi thuốc được lưu

202



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
Tiêu chuẩn loại trừ
Đái tháo đường týp 1 hoặc do các nguyên
nhân khác, có các bệnh lý của hệ tạo máu làm
ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm HbA1c như
bệnh lý hemoglobin (HbS, HbC), thiếu máu tán
huyết, đang sử dụng glucocorticoid, phụ nữ có
thai hoặc cho con bú.

Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Công thức ước lượng cỡ mẫu

Nghiên cứu Y học
Tất cả các phép kiểm thống kê được thực
hiện với phần mềm SPSS16, các giá trị được coi
là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (N =
385)
Số lượng Tỷ lệ (%)
Giới
Tuổi (năm)

Z : hệ số tin cậy; Z = 1,96 với độ tin cậy là 95%

Nam


143

37,1

Nữ

242

62,9

Trung bình: 56,6 ± 11,7 (26 – 84)
< 40

36

9,4

40 - 49

63

16,4

p: tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định thuốc ức chế DPP-4 chưa
đạt mục tiêu HbA1c.

50 - 59

130


33,7

60 - 69

105

27,3

Để cỡ mẫu thu được tối đa, chọn p = 0,5.

70 – 79

46

11,9

> 79

5

1,3

d:sai số chuẩn, chọn d = 5%.

Cỡ mẫu tối thiểu tính được là N=385.

2

BMI* (kg/m )


Trung bình: 5,26 ± 1,60 (1 – 10)

Số hồ sơ điều trị ngoại trú thu thập thực tế là
385.

- Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu ngẫu nhiên

Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.

Xử lý thống kê
Việc đánh giá các yếu tố liên quan đến khả
năng đạt mục tiêu điều trị HbA1c và mức giảm
HbA1c được phân tích bằng phương trình hồi
quy logistic và phương trình hồi quy đa biến.

Trung bình: 24,09 ± 2,49 (17,5 – 39,1)

Thời gian mắc
bệnh (năm)
Số lượng và loại
bệnh lý mắc
kèm
Rối loạn lipid
huyết
Tăng huyết áp

1–3


48

12,5

4–5

166

43,1

6–7

136

35,3

8 – 10
0–1

35

9,1

131

34,0

2–3


204

≥4

50

12,9

266
229

69,1
59,5

53,1

* Chỉ số khối cơ thể (Body mass index)

Huyết áp và các giá trị xét nghiệm cận lâm sàng
Bảng 2. Huyết áp và các giá trị xét nghiệm cận lâm sàng của mẫu nghiên cứu

ban đầu và sau 3 tháng điều trị
Huyết áp tâm thu trung bình (mmHg)
Huyết áp tâm trương trung bình (mmHg)
Đường huyết trung bình (mmmol/L)
HbA1c trung bình (%)
Cholesterol toàn phần trung bình (mmol/L)
HDL cholesterol trung bình (mmol/L)
LDL cholesterol trung bình (mmol/L)
Triglycerid trung bình (mmol/L)


Trước
134,6 ± 14,6
82,1 ± 11,3
9,7 ± 2,2
8,5 ± 1,1
5,63 ± 1,29
1,16 ± 0,24
3,72 ± 1,00
2,92 ± 2,38

Sau
132,0 ± 13,7
79,5 ± 9,7
8,0 ± 2,0
7,5 ± 1,0
4,98 ± 1,03
1,18 ± 0,23
3,05 ± 0,81
2,40 ± 1,60

P
> 0,05
> 0,05
< 0,05
< 0,05
> 0,05
> 0,05
< 0,001
< 0,001


203


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017

Nghiên cứu Y học
Sự thay đổi cân nặng của bệnh nhân trước
và sau 3 tháng khảo sát
Trong thời gian nghiên cứu, nhóm nghiên
cứu chỉ thu thập được cân nặng của 352 bệnh
nhân. Phần lớn bệnh nhân không thay đổi cân
nặng (54,8%). Cân nặng trung bình khi bắt đầu
khảo sát là 59,72 ± 8,21 (kg). Sau khảo sát, cân
nặng trung bình giảm 0,03 ± 0,83 (kg), không có ý
nghĩa thống kê (P > 0,05). Tỷ lệ thay đổi cân nặng
theo số lượng thuốc phối hợp cũng khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).

phối hợp 2 thuốc (chiếm 31,2%). Nhóm phối hợp
4 thuốc và nhóm đơn trị với thuốc ức chế DPP-4
chiếm tỷ lệ thấp (7,5% và 7,3%).
Bảng 3. Tỷ lệ các nhóm thuốc điều trị đái tháo đường
được phối hợp với các thuốc ức chế DPP4 trong mẫu
nghiên cứu
STT
1
2
3
4


Việc sử dụng các thuốc ức chế DPP4
Trong số các thuốc ức chế DPP-4 được chỉ
định, vildagliptin chiếm tỷ lệ nhiều nhất (n =
145; 38%), sau đó là sitagliptin (n = 107; 27%),
saxagliptin (n = 95; 25%) và linagliptin (n = 38;
11%).
Trong mẫu nghiên cứu, số lượng thuốc điều
trị đái tháo đường của mỗi bệnh nhân dao động
từ 1 đến 4 thuốc. Trong đó, nhóm phối hợp 3
thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất (54,0%), kế đến là

5
6
7

Thuốc sử dụng kèm theo
Tần số Tỷ lệ (%)
DPP4i
Nhóm biguanide (metformin)
299
77,7%
Nhóm sulfonylurea
223
57,9%
Insulin
80
20,8%
Nhóm ức chế α-glucosidase
10

2,6%
(acarbose)
Nhóm thiazolidin (pioglitazone)
7
1,8%
Nhóm glinid (repaglinid)
3
0,8%
Nhóm ức chế SGLT-2
1
0,3%
(dapaglifozin)

DPP4i: thuốc ức chế DPP4

Có 19 dạng phối hợp thuốc trong mẫu
nghiên cứu. Dạng phối hợp chiếm nhiều nhất là
phối hợp ức chế DPP-4 I + metformin +
sulfonylurea (41,3%); kế đến là phối hợp ức chế
DPP-4 + metformin (17,1%) và ức chế DPP-4 +
metformin + insulin (10,9%).

Bảng 4. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu điều trị của mẫu nghiên cứu
Xét nghiệm

Mục tiêu

Glucose huyết (đói)
HbA1c


4,4 – 7,2 mmol/L
< 7%

Trước khảo sát
Tần số
Tỷ lệ %
10/385
2,6%
0/385
0%

Hiệu quả kiểm soát glucose huyết và
HbA1c
Sau 3 tháng điều trị, glucose huyết giảm
trung bình 1,72 ± 2,01 (mmol/L) và HbA1c giảm

Sau khảo sát
Tần số
Tỷ lệ %
146/385
37,9%
138/385
35,8%

P
<0,001
-

trung bình 1,08 ± 0,82 (%). Mức giảm glucose
huyết và HbA1c trung bình khi xét theo phối

hợp thuốc đái tháo đường được chỉ định được
trình bày trong bảng 5.

Bảng 5. Mức giảm trung bình glucose huyết và HbA1c theo phối hợp thuốc
Giá trị

Số thuốc phối hợp Tần số
Đơn trị
28
2 thuốc
120
Glucose huyết
(mmol/L)
3 thuốc
208
4 thuốc
29
Đơn trị
28
2 thuốc
120
HbA1c (%)
3 thuốc
208
4 thuốc
29

Trước khảo sát
8,28 ± 0,53
9,27 ± 1,85

9,99 ± 2,38
10,79 ± 2,67
7,87 ± 0,37
8,33 ± 1,10
8,59 ± 1,04
9,25 ± 1,27

Khi so sánh mức glucose huyết và HbA1c
trước và sau khi phối hợp thuốc ức chế DPP-4
trên 9 phối hợp thuốc cụ thể, kết quả cho thấy

204

Sau khảo sát
7,06 ± 0,80
7,69 ± 1,61
8,22 ± 2,21
8,37 ± 2,08
6,96 ± 0,43
7,32 ± 0,96
7,47 ± 1,01
8,11 ± 1,07

Mức giảm trung bình
1,21 ± 0,87
1,58 ± 1,68
1,77 ± 2,13
2,42 ± 2,85
0,91 ± 0,49
1,01 ± 0,87

1,12 ± 0,78
1,14 ± 1,07

P

0,220

0,728

glucose huyết và HbA1c đều giảm có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05). Tuy nhiên, khi so sánh mức
giảm glucose huyết và HbA1c giữa các phối hợp


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
thuốc có ức chế DPP - 4, sự khác biệt chưa được
ghi nhận (p > 0,05).

Các yếu tố liên quan đến mức độ kiểm soát
HbA1c
Kết quả phân tích bằng phương trình hồi
quy logistic cho thấy mức glucose huyết ban
đầu, mức HbA1c ban đầu, mức triglycerid ban
đầu và mức BMI ban đầu có liên quan có ý nghĩa
thống kê với khả năng đạt mục tiêu HbA1c.
Kết quả phân tích bằng phương trình hồi
quy đa biến cho thấy thời gian mắc bệnh, mức
HbA1c ban đầu, mức triglycerid ban đầu và mức
BMI ban đầu có liên quan có ý nghĩa thống kê
mức giảm HbA1c sau 3 tháng.


Các biến cố bất lợi của thuốc
Bảng 6. Các biến cố bất lợi ghi nhận trong thời gian
khảo sát (N = 352)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Biến cố bất lợi
Nhiễm trùng đường hô hấp
Đầy bụng/khó tiêu
Đau họng
Buồn nôn
Đau bụng
Đau đầu
Tiêu chảy
Hạ glucose huyết
Ăn mất ngon
Ngứa da

Tần số
22

13
10
9
7
6
4
3
3
2

Tỷ lệ %
6,3%
3,7%
2,8%
2,6%
2,0%
1,7%
1,1%
0,9%
0,9%
0,6%

Trong thời gian khảo sát, đa số các biến cố
bất lợi ghi nhận được là nhiễm trùng đường hô
hấp (viêm mũi, viêm xoang, triệu chứng cúm),
kế đến là ở đường tiêu hóa (đầy bụng, khó tiêu).
Các biến cố này phù hợp với các biến cố bất lợi
đã được báo cáo của các nhóm thuốc trị đái tháo
đường đường uống bao gồm ức chế DPP-4. Các
biến cố khác xuất hiện với tần suất thấp, thường

nhẹ và nhanh chóng hồi phục mà không cần
phải ngưng thuốc.

BÀN LUẬN
Tỷ lệ thừa cân và béo phì ở mẫu nghiên cứu
là 71%, gần với kết quả nghiên cứu của tác giả
Trần Kim Thư cũng trên dân số bệnh nhân đái
tháo đường ngoại trú (74%)(1). Các bệnh nhân
trong mẫu nghiên cứu được chỉ định thuốc ức

Nghiên cứu Y học
chế DPP4 sau trung bình 5,26 ± 1,60 năm được
chẩn đoán đái tháo đường, trên 90% bệnh nhân
được chỉ định thuốc ức chế DPP4 sau khi đã sử
dụng các nhóm thuốc khác (metformin,
sulfonylureas). Việc lựa chọn thuốc ức chế DPP4 sau khi đã sử dụng các nhóm thuốc khác phụ
thuốc vào nhiều yếu tố bao gồm các hướng dẫn
điều trị, kinh nghiệm của bác sĩ điều trị và chi
phí của các thuốc ức chế DPP-4.
Kết quả khảo sát trên cân nặng cho thấy cân
nặng trung bình của 352 bệnh nhân khảo sát gần
như không thay đổi. Các nghiên cứu về ảnh
hưởng lên cân nặng của các thuốc ức chế DPP-4
đã cho các kết quả khác nhau nhưng đa số cho
kết quả trung lập, không ảnh hưởng đến cân
nặng. Các nghiên cứu trên sitagliptin cho thấy
cân nặng dao động từ giảm 1,5 kg sau 52 tuần
điều trị đến tăng 1,8 kg sau 24 tuần điều trị(2). Các
nghiên cứu trên vildagliptin cho thấy cân nặng
dao động từ giảm 1,8 kg đến tăng 1,3 kg sau 24

tuần điều trị và các nghiên cứu tương tự đối với
saxagliptin cho thấy cân nặng dao động từ giảm
1,8 kg đến tăng 0,7 kg sau 24 tuần điều trị (2).
Trong một phân tích tổng hợp trên 13 nghiên
cứu liên quan đến việc điều trị của cả ba thuốc
ức chế DPP-4, tác dụng của nhóm thuốc này trên
cân nặng là trung tính(2,3).
Kết quả phân tích cho thấy thời gian mắc
bệnh đái tháo đường càng dài thì mức giảm
HbA1c và hiệu quả kiểm soát HbA1c càng thấp.
Điều này có thể được giải thích bởi sự suy giảm
chức năng tế bào beta tuyến tụy và tăng khối
lượng chất béo, đặc biệt là béo phì nội tạng, dẫn
đến đề kháng insulin cao hơn kết hợp với quá
trình lão hóa. Việc đạt được và duy trì HbA1c <
7% khó khăn hơn ở những bệnh nhân có thời
gian mắc bệnh dài, ngay cả dùng phối hợp 3
thuốc, 4 thuốc. Nghiên cứu của Tong P.C. và
cộng sự tại Hongkong cũng đã chỉ ra rằng
những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dài và
dùng nhiều thuốc điều trị có liên quan với việc
kiểm soát đường huyết kém(4). Một số nghiên
cứu khác cũng cho kết quả tương tự, thời gian
mắc bệnh dài có ảnh hưởng tiêu cực đến việc

205


Nghiên cứu Y học
kiểm soát đường huyết(5, 6, 7). Như vậy, có thể cân

nhắc việc phối hợp thuốc ức chế DPP-4 sớm trên
những bệnh nhân chưa kiểm soát được đường
huyết (có thời gian mắc bệnh ngắn) để mang lại
hiệu quả tốt hơn.
Kết quả phân tích hồi quy đa biến của một
nghiên cứu tại Nhật cho thấy các yếu tố liên
quan đến hiệu quả giảm HbA1c sau 12 tháng là
mức HbA1c ban đầu cao, mức giảm HbA1c sau
3 tháng điều trị, chỉ số khối cơ thể thấp, chưa có
bệnh mạch vành (8). Kết quả phân tích trên mẫu
nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có mức glucose
huyết, HbA1c và triglyceride ban đầu cao thì khả
năng đạt mục tiêu điều trị HbA1c sẽ thấp hơn và
mức giảm HbA1c cũng thấp hơn. Kết quả này
khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Mullugeta và cộng sự đánh giá mối liên quan
giữa hiệu quả kiểm soát đường huyết với giá trị
lipid huyết ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2(9).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi góp phần
khẳng định tầm quan trọng của việc kiểm soát
lipid huyết đi kèm với kiểm soát đường huyết
nhằm tối ưu hoá hiệu quả điều trị và ngăn ngừa
các biến chứng.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thể trạng
thừa cân/béo phì có liên quan nghịch đến khả
năng đạt mục tiêu cũng như mức giảm HbA1c.
Kết quả này tương tự kết quả của nhiều nghiên
cứu trước đây(6, 8, 10). Mặc dù các cơ chế chính xác
về mối liên hệ giữa béo phì và đái tháo đường
vẫn chưa được xác định rõ ràng, các nghiên cứu

gần đây đã xác định được sự liên kết giữa béo
phì và bệnh đái tháo đường týp 2 thông qua các
cytokine tiền viêm (yếu tố hoại tử khối u và
interleukin-6), sự đề kháng insulin, rối loạn
chuyển hóa acid béo và rối loạn các quá trình
trong tế bào như rối loạn chức năng của ty lạp
thể và lưới nội chất. Các nghiên cứu di truyền về
sau có thể làm sáng tỏ thêm cơ chế sinh lý bệnh
giữa béo phì và đái tháo đường và có thể sẽ xác
định các mục tiêu điều trị mới đầy hứa hẹn (11).
Ưu điểm của nghiên cứu là việc thu thập
thông tin, dữ liệu của nghiên cứu một phần
được thực hiện qua phỏng vấn bệnh nhân nên

206

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
khai thác được các thông tin về thời gian mắc
bệnh đái tháo đường, những biến cố bất lợi gặp
phải trong qua trình điều trị cũng như đo được
chỉ số cân nặng, chiều cao của bệnh nhân để từ
đó khảo sát đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
và đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố khảo
sát với hiệu quả kiểm soát glucose huyết, HbA1c.
Tuy nhiên, thông tin thu thập chỉ dựa trên đơn
thuốc và kết quả xét nghiệm của bệnh nhân đến
khám tại phòng khám Nội tiết, chưa ghi nhận
được đơn thuốc từ các phòng khám khác như
tim mạch, tiêu hóa, xương khớp… nên những số
liệu về bệnh kèm theo, thuốc dùng kèm theo

trong nghiên cứu có thể chưa đầy đủ.

KẾT LUẬN
Qua khảo sát 385 hồ sơ bệnh án, nghiên cứu
đã góp phần xác định được một số đặc điểm
dịch tễ, tình hình sử dụng thuốc ức chế PPP-4
trong điều trị đái tháo đường trên bệnh nhân
ngoại trú. Đặc biệt, nghiên cứu đã ghi nhận được
hiệu quả kiểm soát đường huyết và HbA1c trên
thực tế, so sánh hiệu quả trước và sau khi điều
trị với các thuốc ức chế DPP4 của từng phối hợp
thuốc cụ thể và xác định được các yếu tố liên
quan đến khả năng đạt mục tiêu HbA1c cũng
như mức giảm HbA1c sau 3 tháng điều trị. Các
kết quả thu được gợi ý các chiến lược điều trị
phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả điều trị đái
tháo đường trên lâm sàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

Trần Kim Thư, Đặng Nguyễn Đoan Trang (2016). Đánh giá
nguy cơ biến cố tim mạch do xơ vữa trong 10 năm và việc sử
dụng statin theo hướng dẫn của ACC/AHA 2013 trên bệnh

nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện
Đại học Y Dược TP HCM. Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập
20, số 2.
Amori RE., Lau J, Pittas AG. (2007). Efficacy and safety of
incretin therapy in type 2 diabetes: systematic review and
meta-analysis. JAMA, 298, pp. 194–206.
Goldstein BJ, Feinglos MN, Lunceford JK, Johnson J, WilliamsHerman DE (2007). Effect of initial combination therapy with
sitagliptin, a dipeptidyl peptidase-4 inhibitor, and metformin
on glycemic control in patients with type 2 diabetes. Diabetes
Care, 30, pp. 1979-1987.
Tong PC, Ko GT, So WY et al. (2008). Use of anti-diabetic
drugs and glycemic control in type 2 diabetes. The Hong
Kong Diabetes Registry. Diabetes Res Clin Pract, 82, pp. 346–
352.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
5.

6.

7.

8.

9.

Sufiza AN et al. (2014). Factors associated with good glycemic
control among patients with type 2 diabetes mellitus. Journal
Diabetes Invest, 5, pp. 563–569.

Oladele VA, Parimalaranie Y et al. (2016). Cross-sectional
study of patients with type 2 diabetes in OR Tambo district,
South Africa. BMJ Open, 6, e010875.
De Pablos-Velasco P et al. (2014). Current Level of Glycaemic
Control and Its Associated Factors in Patients With Type 2
Diabetes Across Europe. Clin Endocrinol. 80(1), pp. 47-56.
Yagi S, Aihara K, Akaike M et al. (2015). Predictive Factors for
Efficacy of Dipeptidyl Peptidase-4 Inhibitors in Patients with
Type 2 Diabetes Mellitus. Diabetes & Metabolism Journal, 39(4),
342–347.
Mullugeta Y et al. (2012). Dyslipidemia Associated with Poor
Glycemic Control in Type 2 Diabetes Mellitus and the

Nghiên cứu Y học

10.

11.

Protective Effect of Metformin Supplementation.
Indian
Journal of Clinical Biochemistry, 27(4), pp. 363-369.
Mannucci E, Monami M, Dicembrini I. et al. (2014). Achieving
HbA1c targets in clinical trials and in the real world: a
systematic review and meta-analysis. J Endocrinol Invest, 37,
pp. 477-495.
Eckel RH., Kahn SE. et al. (2011). Obesity and Type 2 Diabetes:
What Can Be Unified and What Needs to Be Individualized? J
Clin Endocrinol Metab, 96(6), pp. 1654–1663


Ngày nhận bài báo:

20/07/2017

Ngày phản biện đánh giá bài báo:

28/07/2017

Ngày bài báo được đăng:

05/09/2017

207



×