Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn tốt nghiệp đại học: Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển dịch vụ việc làm ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.68 KB, 77 trang )

BÙI MẠNH CƯỜNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
ĐẠI HỌC
Đề tài:
Một số phương hướng và giải pháp nhằm  
phát triển dịch vụ việc làm ở Việt Nam hiện  
nay.

1


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM.......5
I. Một số khái niệm và phân loại.........................................................................5
II. Sự cần thiết của dịch vụ việc làm trong nền kinh tế thị trường...................12
III. Sơ  lược về  quá  trình hình thành và  phát triển của dịch vụ  việc làm  ở  các 
nước trên thế giới.................................................................................................19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ  VIỆC LÀM  Ở  VIỆT NAM THỜI 
GIAN QUAN........................................................................................................24
I. Quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ việc làm ở Việt Nam............24
II. Đánh giá hoạt động dịch vụ việc làm thời gian qua.......................................33
CHƯƠNG   III:   MỘT   SỐ   PHƯƠNG   HƯỚNG   VÀ   GIẢI   PHÁP   NHẰM 
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM....................................46
I. Điều kiện cần và đủ để dịch vụ việc làm có hiệu quả..................................46
II.   Một số  nét về  bối cảnh thị  trường lao  động trong 5 ­ 10 năm tới có  ảnh 
hưởng đến sự phát triển của dịch vụ việc làm ở Việt Nam..............................50
III. Một số  phương hướng và  giải pháp nhằm phát triển dịch vụ  việc làm  ở 
nước ta..................................................................................................................53


KẾT LUẬN..........................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................69
2


LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi đất nước ta thực hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế từ nền kinh tế 
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự 
điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề kinh tế 
­ xã hội nảy sinh, trong đó có vấn đề  việc làm cho người lao động. Nếu như 
trước thời kỳ đổi mới, việc làm cho người lao động chủ yếu do Nhà nước phân 
công thì trong đổi mới,  “giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả  
năng lao động đều có cơ  hội việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các  
doanh nghiệp và toàn xã hội” (Điều 13 Bộ Luật Lao động). Trong bối cảnh đó, 
cùng với sự  gia tăng nguồn nhân lực xã hội, sắp xếp lại sản xuất và tinh giảm  
biên chế  trong khu vực Nhà nước v.v…, nhu cầu về  việc làm của người lao  
động ngày càng trở  nên cấp bách. Đây chính là cơ  sở  cho sự  hình thành và phát 
triển dịch vụ việc làm ở nước ta.
Từ những trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm, trung tâm xúc tiến việc 
làm và phát triển thành các trung tâm dịch vụ việc làm. Hiện nay, cả nước đó có 
178 Trung tâm Dịch vụ việc làm công thuộc các Sở Lao động ­ Thương binh và 
Xã hội, một số  bộ, ngành và các tổ  chức chính trị, xã hội. Những năm qua, các  
Trung tâm Dịch vụ  việc làm công này đó có  những đóng góp tích cực đối với 
việc phát triển thị  trường lao động, xúc tiến việc làm, đáp  ứng nhu cầu của 
người lao động và người sử  dụng lao động. Tuy nhiên, những bất cập về  nội 
3


dung hoạt động, cơ  chế, chính sách và tổ  chức hoạt động… đã hạn chế  hiệu  
quả hoạt động của các trung tâm này. Bên cạnh đó, từ khi Luật Doanh nghiệp có 

hiệu lực và dịch vụ việc làm được coi là ngành kinh doanh không cần điều kiện, 
những phức tạp trong hoạt động dịch vụ  việc làm đã nảy sinh đòi hỏi phải có 
những nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm đảm bảo các hoạt động này 
đúng hướng, làm lành mạnh thị  trường lao động, nâng cao hiệu quả  hoạt động  
dịch vụ việc làm.
Chính vì lý do trên, trong quá trình thực tập tại Vụ Chính sách Lao động và 
Việc làm, Bộ Lao động ­ Thương binh và Xã hội, được nghiên cứu và tìm hiểu  
về hoạt động dịch vụ việc làm, em đã chọn đề tài: “Một số phương hướng và  
giải pháp nhằm phát triển dịch vụ việc làm ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài 
cho luận văn tốt nghiệp của mình
Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ việc làm.
Chương II: Thực trạng dịch vụ việc làm thời gian qua.
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển dịch vụ 
việc làm ở nước ta.

       

4


CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về việc làm 
Việc làm và thất nghiệp là những vấn đề  luôn có tính thời sự  và là mối 
quan tâm của mọi người, mọi Chính phủ, mọi tổ chức trong xã hội. Nhìn chung,  
trong các lý thuyết về việc làm, người ta thống nhất rằng, một hoạt động được  
coi là việc làm khi đáp ứng được hai tiêu chuẩn sau đây:

­ Thứ nhất, đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm.
­ Thứ  hai, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc 
tạo điều kiện cho người lao động tham gia để  tạo thu nhập hoặc tiết kiệm chi 
phí cho gia đình.
Bộ luật Lao động của Việt Nam nêu rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu  
nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” (Điều 18, 
chương II). Hoạt động đem lại thu nhập có thể nhận diện được dưới các dạng: 
người lao động làm việc để  nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc  
hiện vật từ người sử dụng lao động; tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua  
hoạt động kinh tế mà bản thân người lao động làm chủ, tự tổ chức và tiến hành  
các hoạt động đó; hoặc đem lại thu nhập cho h ộ gia đình mà bản thân người lao 
động thực hiện công việc đó là thành viên của hộ  gia đình, do gia đình quản lý. 
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm hay không chủ yếu được dựa trờn  
tớnh hợp pháp và việc tạo ra thu nhập của hoạt động đó.
Như vậy, quan điểm việc làm đó cú sự thay đổi. Chính sách kinh tế nhiều 
thành phần và cơ chế thị trường đã làm thay đổi quan điểm này. Việc làm được  
5


xác định trong mọi thành phần kinh tế chứ không chỉ trong khu vực kinh tế Nhà 
nước như trước đây.
1.2. Dịch vụ việc làm 
Trong một thời gian dài, người ta thường hiểu dịch vụ  việc làm là hoạt 
động môi giới việc làm, là hoạt động trung gian nhằm chắp nối cung cầu về lao  
động, giúp cho người lao động tìm được việc làm, người sử  dụng lao động tìm 
được lao động cần thuê. Cho đến năm1970, khi Công  ước số  142 của tổ  chức  
Lao động quốc tế ILO ­ “Công ước về hướng nghiệp và đào tạo nghề trong việc 
phát triển nguồn nhân lực” ra đời, cách hiểu chung về  dịch vụ  việc làm không 
chỉ thuần tuý dưới góc độ môi giới việc làm.
Sự ra đời của Công ước số 142 đã làm thay đổi căn bản nhận thức về dịch  

vụ  việc làm. Theo đó, dịch vụ  việc làm ngoài nhiệm vụ  môi giới c òn có nhiệm 
vụ  hướng nghiệp và đào tạo nghề. Mặt khác, cũng theo tinh thần các công ước 
của tổ chức Lao động quốc tế ILO (Công ước số 34, 88, 96, 168…), hoạt động  
dịch vụ việc làm còn bao gồm nhiều nhiệm vụ khác như thông tin thị trường lao  
động, chắp nối cung cầu lao động liên vùng, liên quốc gia…
Như  vậy, có thể  hiểu  dịch vụ  việc làm là toàn bộ  các hoạt động nhằm  
sắp xếp việc làm có hiệu quả cho người lao động thông qua quá trình chắp nối  
cung ­ cầu lao động hoặc tư vấn, trợ giúp để người lao động có thể tự tạo việc  
làm. Sắp xếp việc làm liên quan đến việc chắp nối kỹ năng, khả năng của người  
tìm việc với yêu cầu của người sử dụng lao động. Tư vấn tạo việc làm liên quan  
đến việc cung cấp các thông tin về  cơ hội tự  tạo việc làm, hỗ  trợ  các kỹ  năng  
cần thiết để  tự  tạo việc làm. Để  đạt được các mục tiêu trên, dịch vụ  việc làm  
còn bao hàm một số  chức năng khác như  tư  vấn pháp luật, chính sách, tư  vấn  
đào tạo và học nghề, tư vấn thông tin thị trường lao động.

6


1.3. Mạng lưới dịch vụ việc làm 
Mạng lưới dịch vụ việc làm là một hệ thống bao gồm Trung tâm dịch vụ 
việc làm, Trung tâm điều phối việc làm. Mối quan hệ  giữa chúng được hình 
thành nhằm hỗ  trợ  cho người lao động trong tìm kiếm việc làm và hỗ  trợ  cho 
người sử dụng lao động, người đào tạo nghề thoả mãn nhu cầu về lao động, về 
đào tạo trong một vùng lãnh thổ nào đó hoặc liờn vựng.
1.4. Trung tâm dịch vụ việc làm 
Trung tâm dịch vụ  việc làm (cơ  sở, hay tổ chức Dịch vụ  việc làm) là các 
trung tâm được thành lập theo quy định của pháp luật để  hoạt động trong lĩnh 
vực dịch vụ  việc làm. Tài liệu của ILO cho rằng, tổ  chức dịch vụ việc làm có  
thể được xem như là các tổ chức mà Nhà nước cho phép thành lập nhằm:
­ Cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ người thất nghiệp và giúp đỡ  người 

tìm việc tham gia hoặc tái tham gia vào thị trường lao động.
­ Tổ  chức thị  trường việc làm nhằm đảm bảo các chỗ  làm việc trống 
được lấp bằng những ứng viên thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của công việc đòi 
hỏi trong thời gian sớm nhất; bảo đảm nhu cầu lao động hiện tại và tương lai 
được đáp ứng bởi cung lao động phù hợp.
­ Đề xuất và thực hiện các giải pháp tạo việc làm mới.
Tổ chức dịch vụ việc làm có thể là tổ chức của Nhà nước hoặc là tổ chức  
của tư nhân.
1.5. Trung tâm điều phối việc làm 
Trung tâm điều phối việc làm là các trung tâm thực hiện các hoạt động 
điều phối việc làm.
Hoạt động điều phối việc làm là hoạt động chắp nối thông tin cung ­ cầu 
về lao động giữa các Trung tâm dịch vụ việc làm các địa phương hoặc cỏc vựng  
lãnh thổ nhằm giải quyết sự mất cân đối cung ­ cầu lao động.
7


Trung tâm điều phối việc làm được hiểu như  là cầu nối giữa các Trung  
tâm dịch vụ  việc làm. Nó  có  nhiệm vụ  tổng hợp, phân tích, xử  lý các nguồn 
thông tin cung ­ cầu về  lao động do các Trung tâm dịch vụ  việc làm cung cấp  
hoặc từ các nguồn khác. Trên cơ sở nhu cầu về việc làm và nhu cầu cần tuyển  
lao động ở các địa phương, trung tâm này có thể thực hiện chức năng trung gian  
nhằm tuyển lao động  ở  địa phương thừa lao động cung  ứng cho địa phương 
thiếu lao động, góp phần làm giảm sự mất cân đối cung ­ cầu lao động giữa c ác 
vùng lãnh thổ.
Trên thực tế, sự  tồn tại của các trung tâm chỉ  thuần tuý thực hiện chức 
năng điều phối việc làm là không phổ  biến. Thông thường, các Trung tâm dịch 
vụ việc làm thực hiện luôn chức năng này.
1.6.  Môi giới việc làm 
Trong các tài liệu về dịch vụ việc làm và trong nhôn ngữ thông thường rất  

hay đề  cập đến khái niệm  môi giới việc làm. Môi giới, hiểu theo nghĩa thông 
thường nhất là đứng giữa, làm trung gian, giúp hai bên giao tiếp với nhau nhằm 
đạt được một mục đích nào đó mà hai bên theo đuổi.
Môi giới việc làm chính là đứng giữa làm trung gian cho hai bên, một bên 
là người tìm việc, một bên là người sử  dụng lao động có nhu cầu tuyển người  
vào chỗ làm việc trống, để  họ  tiếp xúc, tìm hiểu lẫn nhau nhằm đạt được mục 
đích của mỗi bên, đó là người lao động tìm được việc làm phù hợp  và người sử 
dụng lao động tuyển chọn được lao động theo yêu cầu của công việc.
Môi giới việc làm là điểm xuất phát của hầu hết các cở dịch vụ việc làm. 
Trong đề  tài này, môi giới việc làm được hiểu là chức năng truyền thống của  
các giao dịch về  việc làm. Nó có thể  định nghĩa như  là quá trình thông qua đó 
các cơ  sở  dịch vụ  việc làm thu xếp để  người tìm việc tìm được việc làm và  
người sử dụng lao động tuyển được người phù hợp.
8


Sự cần thiết của hoạt động môi giới việc làm là ở  chỗ cả người sử dụng  
lao động và người lao động tìm việc đều không có đầy đủ  thông tin về  các chỗ 
làm việc trống và các  ứng viên tìm việc, do vậy, cần có một loại dịch vụ  giúp  
chắp nối hai bên với nhau. Không có dịch vụ này thỡ cỏc chừ làm việc trống cần  
một thời gian dài hơn mới lấp đầy được và người tìm việc  ở  tình trạng thất  
nghiệp trong một thời gian dài hơn. Môi giới việc làm là nỗ lực nhằm xoá bỏ sự 
thiếu hụt về thông tin này và đưa người tìm việc và người sử dụng lao động đến 
được với nhau.
1.7. Giới thiệu việc làm
So với môi giới việc làm thì giới thiệu việc làm có đôi chút khác biệt. 
Trong môi giới việc làm, cơ sở dịch vụ việc làm không chỉ giới thiệu cho người  
tìm việc và người tuyển dụng lao động gặp nhau mà còn quan tâm đến kết quả 
là hai bên đi đến được một thoả  thuận là người tìm việc chấp nhận chỗ  làm 
việc do nhà tuyển dụng đưa ra; nhà tuyển dụng chấp nhận tuyển người do cơ sở 

dịch vụ việc làm giới thiệu. Giới thiệu việc làm nhiều khi chỉ là giúp cho người  
tìm việc và người sử dụng lao động gặp nhau, họ tự thương thuyết, thoả thuận  
và cơ sở dịch vụ việc làm nhiều khi không quan tâm lắm đến kết quả cuối cùng.
Giới thiệu việc làm là quá trình trong đó cơ sở dịch vụ việc làm có những  
thông tin về chỗ làm việc trống và giới thiệu cho người tìm việc đến địa chỉ của  
người sử  dụng lao động để  tìm hiểu và có thể  đi đến thoả  thuận về  việc làm;  
hoặc cơ  sở  dịch vụ  việc làm có thông tin về  người tìm việc và giới thiệu cho  
người sử dụng lao động tiếp xúc và có thể đi đến những thoả thuận tuyển dụng.
1.8. Cung ứng lao động
Cung ứng lao động  là một loại dịch vụ mà các cơ sở dịch vụ việc làm có 
thể cung cấp cho người sử dụng lao động. Cung ứng lao động được dùng để chỉ 
việc cơ  sở  dịch vụ  việc làm và người sử  dụng lao động ký kết hợp đồng cung  
9


ứng lao động trong đó cơ  sở  dịch vụ  việc làm chịu trách nhiệm tuyển chọn và  
cung cấp đủ  số  lượng lao động đáp  ứng các yêu cầu về  kỹ  năng, tay nghề  cho  
người sử dụng lao động.
Cung ứng lao động thường xảy ra khi nhà tuyển dụng không có thông tin  
và thời gian tìm kiếm người lao động và tin chắc rằng cơ sở dịch vụ việc làm có  
đủ năng lực giúp họ làm việc đó. Cung ứng loa động cũng thường xảy ra khi nhà 
tuyển dụng muốn có một số  lượng lớn lao động, không đòi hỏi chất lượng quá  
khắt khe và việc nhờ cơ sở dịch vụ việc làm tuyển dụng sẽ tiết kiệm được chi 
phí hơn là họ tự đứng ra tuyển. 
2. Phân loại dịch vụ việc làm 
2.1. Phân loại theo đối tượng hoạt động 
Dịch vụ việc làm có nhiều hình thức khác nhau. Nếu phân theo đối tượng  
hoạt động, có 3 dạng dịch vụ việc làm sau:
­ Dịch vụ trợ giúp người lao động;
­ Dịch vụ trợ giúp người sử dụng lao động;

­ Dịch vụ trợ giúp người đào tạo, dạy nghề.
Bản chất của dịch vụ trợ giúp người lao động là cung cấp các thông tin và  
tư  vấn về  những vấn đế  liên quan đến lao động  ­  việc làm, đào tạo, hướng 
nghiệp… mà người lao động có nhu cầu, đồng thời giúp họ  tìm kiếm việc làm. 
Ở nhiều quốc gia, các Trung tâm dịch vụ việc làm cũng kiêm luôn cả dịch vụ chi 
trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
Dịch vụ trợ giúp người sử dụng lao động thường được hiểu là dịch vụ tìm 
kiếm người lao động phù hợp với yêu cầu công việc do người tuyển dụng lao  
động đề ra. Theo đó dịch vụ này bao gồm:

10


­ Xem xét các thông tin về người xin việc, nếu thấy phù hợp với yêu cầu  
của người  sử  dụng lao  động, Trung tâm dịch vụ  việc làm sẽ  giới thiệu cho 
người sử dụng lao động tự tuyển chọn.
­ Tham gia tuyển chọn lao động nếu được người sử  dụng lao động uỷ 
quyền.
Tuy nhiên, ở một số quốc gia, chẳng hạn  ở Cộng hoà liên bang Đức, dịch 
vụ  trợ  giúp người sử  dụng lao động còn bao gồm cả  dịch vụ  trợ  giúp người 
thành lập doanh nghiệp hoặc trợ giúp cho doanh nghiệp hoạt động trở lại.
Khác với các dạng dịch vụ  kể  trên, dịch vụ  trợ  giúp người đào tạo dạy 
nghề  chỉ  gián tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, dịch vụ  này bao 
gồm:
­ Tư vấn cung cấp các thông tin cần thiết cho người đào tạo, dạy nghề về 
nhu cầu lao động trên thị  trường lao động nhằm giúp cho người đào tạo, dạy  
nghề định hướng những lĩnh vực cần tập trung đào tạo.
­ Giới thiệu người cần đào tạo, học nghề cho người đào tạo, dạy nghề.
­ Tổ  chức đào tạo, dạy nghề  nếu  được giao nhiệm vụ  hoặc  được uỷ 
quyền.

2.2. Phân loại theo phạm vi hoạt động
Theo tiêu chí này, có thể  phân loại dịch vụ  việc làm thành 3 dạng khác 
nhau:
­ Dịch vụ việc làm địa phương;
­ Dịch vụ việc làm liên địa phương;
­ Dịch vụ việc làm quốc tế.
Dịch vụ  việc làm địa phương là dịch vụ  việc làm mà phạm vi hoạt động 
chỉ thu hẹp trong một vùng lãnh thổ nào đó (tỉnh, thành phố, huyện…).

11


Dịch vụ  việc làm liên địa phương là dịch vụ  việc làm được thực hiện  
thông qua hoạt động điều phối việc làm giữa các địa phương trong nước.
Dịch vụ  việc làm quốc tế  là dịch vụ  việc làm nhằm điều phối việc làm  
giữa các quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, loại dịch vụ này được thực 
hiện chủ yếu dưới hình thức xuất khẩu lao động. Ngược lại, đối với các nước  
phát triển hoặc các nước công nghiệp mới, dịch vụ này chủ yếu được thực hiện 
dưới hình thức nhập khẩu lao động.
2.3. Phân loại theo chủ thể quản lý
Dịch vụ  việc làm có thể  có nhiều chủ  thể  quản lý khác nhau. Theo tiêu 
thức này có thể phân dịch vụ việc làm thành 2 dạng:
­ Dịch vụ việc làm công;
­ Dịch vụ việc làm tư nhân. 
Dịch vụ  việc làm công là dịch vụ  việc làm do Nhà nước hoặc Nhà nước  
phối hợp với các tổ  chức xã hội quản lý, tiến hành các hoạt động dịch vụ  việc  
làm vì mục tiêu xã hội, phi lợi nhuận. Chi phí cho hoạt động dịch vụ  việc làm 
của các tổ chức dịch vụ việc làm công được Ngân sách Nhà nước đài thọ. Các tổ 
chức dịch vụ việc làm công không thu phí của người lao động và người sử dụng  
lao động. Khi các nước triển khai Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp, mà gần đây 

đều có xu hướng chuyển thành Chính sách Bảo hiểm việc làm, thì chi phí hoạt 
động của hệ  thống dịch vụ  việc làm công do Quỹ  Bảo hiểm việc làm chịu. 
Thông thường, dịch vụ việc làm công do ngành lao động quản lý. Chẳng hạn, ở 
Philipines dịch vụ việc làm công do Bộ Lao động ­ Việc làm quản lý; ở Thái Lan 
do Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội quản lý.
Dịch vụ việc làm tư nhân có chủ thể quản lý không phải là Nhà nước. Đó  
là các tổ chức dịch vụ việc làm do một số cá nhân tự đứng ra thành lập. Song về 

12


mặt nguyên tắc, việc thành lập các tổ  chức dịch vụ  việc làm này phải chịu sự 
quản lý của Nhà nước.
Hiện tại các cơ  sở  dịch vụ  việc làm công hoạt động trong bối cảnh thị 
trường lao động thay đổi nhanh chóng. Dịch vụ  việc làm  ở  hầu hết các nước  
phát triển đều phải đối mặt với các sức ép bởi:
­ Sự hạn chế về nguồn nhân lực (cán bộ) và tài chính cho hoạt động.
­ Sự gia tăng của số  người thất nghiệp, số  mới bước vào thị  trường lao 
động.
­ Sự gia tăng của số người thuộc nhóm yếu thế.
­ Sự suy giảm số chỗ làm việc trống.
­ Thị trường lao động ngày càng đa dạng và linh hoạt.
Một phần là do những biến đổi nhanh chúng trờn thị trường lao động, một 
phần là do các nhu cầu không được đáp ứng của người tìm việc và doanh nghiệp  
có xu hướng tăng lên do dịch vụ  việc làm công không đủ  nguồn lực để  thoả 
mãn, các cơ sở dịch vụ việc làm tư nhân dần dần xuất hiện và được thừa nhận.
Trong chuyên đề  này sẽ  tập trung nghiên cứu dịch vụ  việc làm theo cách 
phân loại này.
II. SỰ  CẦN THIẾT CỦA DỊCH VỤ VIỆC LÀM TRONG NỀN KINH 
TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Thị trường lao động và mối quan hệ giữa thị trường lao động với 
các dạng dịch vụ việc làm 
1.1. Thị trường lao động 
a. Khái niệm
Theo Adam Smith thị trường là không gian trao đổi, trong đó người mua và 
người bán gặp nhau thoả thuận trao đổi hàng hoá và dịch vụ nào đó.

13


Theo David Beg, thị  trường là tập hợp những sù   thoả  thuận, trong đó 
người mua và người bán trao đổi với nhau loại hàng hoá, dịch vụ  nào đó. Như 
vậy, theo quan điểm này, thị trường không bó hẹp bởi một không gian nhất định  
mà bất cứ   ở  đâu có sự  trao đổi, thoả  thuận mua bán hàng h óa  thì  ở  đó có thị 
trường.
Thị trường lao động là thị trường ở đó diễn ra sù trao đổi hàng hoá sức lao 
động giữa một bên là người sở  hữu sức lao động và một bên là người cần thuê 
sức lao động đó.
Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị 
trường và chịu sự tác động của hệ thống các quy luật của nền kinh tế thị trường  
như  quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền… Các quy luật này tác động 
và chi phối quan hệ cung ­ cầu của thị trường lao động.
b. Cấu trúc của thị trường lao động 
Nói đến thị trường, bao giê người ta cũng đề  cập đến cung, cầu về  hàng 
hoỏ đú và giá cả của nó. Trên thị trường lao động, hàng hoá là sức lao động. Như 
vậy, cung và cầu về  hàng hoá  ở  đây là cung, cầu về  sức lao động, còn giá cả 
hàng hoá là giá cả sức lao động.
Giá cả  sức lao động là là mức giá mà người sử  dụng lao động trả  cho 
người làm thuê để mua sức lao động của họ trên cơ sở thoả thuận với người làm 
thuê nhằm thực hiện một hoạt động lao động nào đó trong một khoảng thời gian  

nào đó. Mức giá cả này thường được gọi là tiền công (Wage).
Giá cả sức lao động chịu sự chi phối của cung và cầu về sức lao động và  
có tác động tới cung ­ cầu sức lao động.
Cung về  lao động là lượng lao động làm thuê có thể  cung  ứng trên thị 
trường sức lao động  ở  mỗi mức giá nhất định. Cung lao động mô tả  toàn bộ 

14


hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận  ở mức giá đặt ra. Khi giá cả tăng, 
cung lao động sẽ tăng và ngược lại.
Cầu về  lao động là lượng lao động mà người sử  dụng lao động có thể 
thuê mướn ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Cầu về  lao động được coi là cầu dẫn xuất hay là cầu gián tiếp. Bởi lẽ,  
xuất phát từ nhu cầu về sản phẩm nào đó mới có nhu cầu sản xuất ra sản phẩm 
đó. Cầu về  lao động khác với lượng cầu về  lao động. Cầu về  lao động mô tả 
toàn bộ  hành vi của người mua có thể  mua được hàng hoá sức lao động  ở  mỗi 
mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Ở mỗi mức giá có một lượng  
cầu nhất định.
Cũng như cung về lao động, cầu về lao động có liên quan chặt chẽ với giá 
cả  sức lao động (tiền công). Khi giá cả  sức lao động tăng (hoặc giảm), cầu về 
sức lao động sẽ giảm (hoặc tăng) và ngược lại. Đây là mối quan hệ tỷ lệ nghịch  
giữa hai phạm trù kinh tế này.
Như vậy, có thể thấy, nếu biểu diễn mối quan hệ cung ­ cầu về lao động 
trên đồ thị mà trục tung chỉ mức giá cả W (Wage ­ tiền công), trục hoành chỉ số 
lượng lao động Q thì đường cung lao động LS (Labour Supply ­ cung lao động) 
sẽ là đường cong có độ dốc đi lên, còn đường cầu lao động LD (Labour Demand 
­ cầu lao động) sẽ  là đường cong có độ  dốc đi xuống. Hai đường này cắt nhau  
tại một điểm (điểm E), tại điểm đó, lượng cầu bằng lượng cung, và điểm E  
được gọi là điểm cân bằng của thị  trường lao động. Mức giá W0  được gọi là 

mức giá cân bằng với lượng cầu Q0 (xem hình 1).
Hình 1: Đồ thị biểu diễn mối quan hệ cung cầu về sức lao động
                  W 
                                  LD                              LS

15


                                                  E
                 W0                                                                          Q
                                                          Q0                                            
Từ đây, có thể thấy sự tác động của cung ­ cầu sức lao động tới việc hình  
thành giá cả sức lao động: nếu cung > cầu thì giá cả có xu hướng giảm và cầu >  
cung thì giá cả có xu hướng tăng.                   
c. Phân loại thị trường lao động 
Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu mà người ta chia ra:
­ Thị trường lao động trong nước;
­ Thị trường lao động ngoài nước;
­ Thị trường lao động khu vực, vùng;
­ Thị trường lao động thành thị;
­ Thị trường lao động nông thôn;
­ Thị trường lao động có trình độ chuyên môn ­ kỹ thuật;
­ Thị trường lao động phổ thông;
­ Thị trường lao động chất xám;
­ v.v…
Việc nghiên cứu từng loại thị  trường lao  động cho phép chúng ta biết  
được nhu cầu và khả năng đáp ứng của từng loại lao động cho sự phát triển kinh  
tế xã hội của đất nước.
1.2. Mối quan hệ giữa thị trường lao động và các dạng dịch vụ việc 
làm 

1.2.1. Dịch vụ việc làm công ­ công cụ chủ yếu của chính sách thị trường  
lao động 
16


a. Khái niệm chính sách thị trường lao động 
Như  đã trình bày, thị  trường lao động là nơi diễn ra sù trao đổi hàng hoá 
sức lao động giữa một bên là những người sở  hữu sức lao động và một bên là 
người cần thuê sức lao động đó. Do những đặc tính về cơ cấu của nó, thị trường  
lao động khác với thị  trường hàng hoá, thị  trường tiền, thị  trường vốn: trên thị 
trường lao động, người lao động cung  ứng sức lao động của mình. Đối với họ, 
sức lao động là nguồn duy nhất đảm bảo nhu cầu cuộc sống của họ. Về phương  
diện vật chất, nhìn chung, họ  yếu thế  hơn một cách cơ  bản so với giới chủ  sở 
hữu về tư liệu sản xuất, công cụ và kết quả sản xuất. Như vậy, có một sự phân 
chia không đồng đều về  quyền lực trên thị  trường. Vì vậy, trong một nền kinh  
tế  thị  trường với những cam kết về  phương diện xã hội, thị  trường lao động  
càng không thể  để  phó mặc mà không điều tiết, đối với những cơ  chế  giống 
như ở trên các thị trường khác: cần có sự chuyển biến thị trường lao động tự do, 
không hoàn chỉnh sang một thị trường lao động được tổ chức và thể chế hoá.
Như  vậy,  chính sách thị  trường lao động là chính sách của Nhà nước  
nhằm đưa ra những công cụ  điều tiết, các cơ  chế  trên thị  trường lao động,  
nhằm đưa thị trường lao động tự do trở thành thị trường lao động có tổ chức và  
thể  chế  hoá để  góp phần đạt được những mục tiêu đã định của Nhà nước về  
lao động ­ việc làm. 
Chính sách thị trường lao động có thể được phân thành ba lĩnh vực: chính 
sách cổ  điển là chính sách trật tự  thị  trường lao động; chính sách cân bằng thị 
trường lao động; chính sách tạo đầy đủ công ăn việc làm.
Chính sách trật tự thị trường lao động nhằm làm giảm bớt sự  chênh lệch  
về  quyền lực trên thị  trường lao động. Một tiền đề  quan trọng để  thực hiện 
chính sách này là những điều kiện lao động được thoả  thuận không phải chủ 


17


yếu giữa cỏc cỏ nhõnvới nhau, mà thoả thuận giữa các tập thể thông qua cơ chế 
hai bên hoặc ba bên.
Chính sách cân bằng thị trường lao động có mục tiêu tạo ra mức độ  công 
ăn việc làm cao có thể có được. Trong vấn đề  này, một mặt phải sử dụng một 
cách có hiệu quả nhân tố lao động, mặt khác phải ngăn ngừa và làm giảm những 
sự mất cân đối về mặt xã hội.
Chính sách tạo đầy đủ công ăn việc làm được thể hiện ở việc tạo mới và  
tạo đủ việc làm cho người lao động, làm giảm tối đa tỷ lệ thất nghiệp. Nó được  
thể hiện thông qua những chính sách như  là chính sách tài khoá, chính sách tiền 
tệ và các chương trình quốc gia về việc làm v.v…
b. Hoàn thiện và phát triển dịch vụ  việc làm Nhà nước ­ nhân tố  quan  
trọng bảo đảm chính sách thị trường lao động được thực hiện có hiệu quả.
Dịch vụ  việc làm Nhà nước là dịch vụ  việc làm do Nhà nước quản lý và 
thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao, được Ngân sách Nhà nước đài thọ, có 
thẩm quyền và năng lực thực hiện hoạt động dịch vụ việc làm trên phạm vi cả 
nước. Có nghĩa là nó có tác động quan trọng trong việc cân đối cung ­ cầu về lao  
động  ở  địa phương, liên địa phương và liên quốc gia. Việc hoàn thiện và phát 
triển dịch vụ việc làm Nhà nước, vì lẽ đó, sẽ có tác động làm cho thị trường lao  
động sôi động hơn, hoàn thiện hơn. Như vậy, có thể thấy, dịch vụ việc làm Nhà 
nước là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách thị trường lao động.
Mặt khác, chính sách thị trường lao động là chính sách của Nhà nước, việc 
thực hiện chính sách này phải thông qua các công cụ của Nhà nước, trong đó có 
hệ thống dịch vụ việc làm Nhà nước.
Với nội dung hoạt động như là công cụ chủ yếu của chính sách thị trường  
lao động, có tác động đáng kể  vào việc hoàn thiện và phát triển thị  trường lao  
động, việc hoàn thiện và phát triển dịch vụ việc làm Nhà nước chắc chắn phải 

18


là nhân tố quan trọng bảo đảm chính sách thị trường lao động được thực hiện có 
hiệu quả.
1.2.2. Như  phần trên đã trình bày, dịch vụ  việc làm tư  nhân ra đời và tồn  
tại là tất yếu. Dịch vụ việc làm tư  nhân xuất hiện sẽ làm tăng cơ  hội l ựa chọn 
cho người tìm việc và người sử dụng lao động, tạo ra sự  cạnh tranh trong nâng  
cao chất lượng dịch vụ. Những  điều đó chỉ  có lợi cho sự  phát triển của thị 
trường lao động.
2. Tác dộng của dịch vụ việc làm đến việc hoàn thiện thị trường lao  
động.
Dịch vụ việc làm thực hiện một trong những nhiệm vụ của nó là cầu nối 
trung gian giữa người sử  dụng lao động và người lao động. Nó cung cấp cho  
người lao động những thông tin về yêu cầu của người sử dụng lao động, về lĩnh 
vực cần tuyển dụng lao động, những đòi hỏi về trình độ chuyên môn ­ kỹ thuật, 
cũng như mức tiền công do đó làm tăng tính hiệu quả của thị trường lao động ­  
rút ngắn thời gian tìm việc, thời gian tuyển dụng người, độ  dài thời gian thất 
nghiệp, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn nhân lực.
Với mong muốn có việc làm thích hợp và có thu nhập cao, người lao động 
sẽ  phải cố  gắng để  đáp  ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của công việc. Hơn 
nữa, các Trung tâm dịch vụ việc làm còn tham gia đào tạo, dạy nghề. Như vậy,  
có thể  thấy, dịch vụ  việc làm có tác động nâng cao chất lượng “cung về  lao  
động”. Chất lượng cung về lao động tăng lên sẽ khuyến khích các nhà sản xuất 
trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đòi hỏi về trình 
độ  chuyên môn  kỹ  thuật đối với nhân công sẽ  tăng lên. Điều đó thúc đẩy tiếp  
tục nâng cao chất lượng cung về  lao động, nhưng đồng thời cho thấy sự  thoả 
mãn cầu về lao động cũng tăng lên.

19



Ngoài ra, dịch vụ việc làm cũn giỳp cho việc nắm bắt, xử lý thông tin cung  
­ cầu lao động nhanh chóng, kịp thời ở từng vựng, liờn vựng và trong toàn quốc,  
còng như   ở  thị  trường lao động quốc tế, góp phần hoàn thiện thị  trường lao  
động chung của quốc gia.
3. Tác động của dịch vụ việc làm đến phát triển kinh tế ­ xã hội của 
đất nước.
Dịch vụ việc làm giúp người lao động nhanh chóng tìm được việc làm và 
được   việc   làm   đúng   ngành   nghề,   chuyên   môn,   phát   huy   được   khả   năng,   sở 
trường; giúp người sử  dụng lao động nhanh chóng thoả  mãn nhu cầu về  lao 
động. Thông qua đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần tăng năng suất 
lao động xã hội, nâng cao mức sống dân cư.
Dịch vụ việc làm góp phần giảm bớt nhu cầu bức bách của xã hội về việc  
làm, làm giảm tỷ  lệ  thất nghiệp, thông qua đó có tác động làm cho xã hội lành 
mạnh hơn.
Dịch vụ việc làm có hiệu quả sẽ góp phần làm cho nền kinh tế thị trường  
năng động hơn, làm tăng GDP, GNP, thông qua đó làm tăng vị thế của đất nước  
trong khu vực và trên thế giới.
Dịch vụ việc làm có hiệu quả, với những tác động như đã trình bày ở  trên, 
sẽ  tạo điều kiện cho các chương trình phát triển kinh tế  ­ xã hội của đất nước  
được thực hiện tốt hơn.
III.  SƠ  LƯỢC VỀ  QUÁ TRÌNH  HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 
CỦA DỊCH VỤ VIỆC LÀM Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1. Sự ra đời của dịch vụ việc làm
Trong quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Tư bản, cùng với sự 
tập trung và tích tụ  tư  bản là sự  lớn mạnh của nền sản xuất đại công nghiệp. 
Trên nền tảng đó, giai cấp công nhân ra đời và ngày càng lớn mạnh. Vì mục tiêu 
20



lợi nhuận, giai cấp tư bản đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải tiến tổ chức 
sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tạo đà cho  
nền sản xuất công nghiệp phát triển. Nền sản xuất công nghiệp phát triển, việc  
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng đã dẫn đến xu hướng tất yếu là mức 
độ  chuyên môn hoá tăng và đòi hỏi về  trình độ  chuyên môn kỹ  thuật của người  
lao động ngày càng cao. Như vậy, nhà tư bản sẽ khó khăn hơn trong việc tuyển 
dụng được lao động phù hợp cho doanh nghiệp, họ cần có một khâu trung gian 
giúp cho việc tuyển dụng lao động. Mặt khác, do sự bùng nổ dân số vào thế kỷ 
18 và 19, vấn đề  thất nghiệp trở  nên gay gắt. Người lao động mong muồn có 
việc làm. Nhưng để tìm được việc làm thích hợp, họ  cần có một cơ quan trung 
gian môi giới để giúp họ liên hệ.
Xuất phát từ  những nhu cầu đó, dịch vụ  việc làm ra đời. Sự  ra đời của 
dịch vụ  việc làm đã làm năng động thêm nền kinh tế  thị  trường của chủ  nghĩa 
Tư bản, có tác động làm hoàn thiện thêm thị trường lao động.
2. Quá trình phát triển của dịch vụ việc làm.
Như  đã đề  cập, sự  hình thành và phát triển của dịch vụ  việc làm  ở  các 
quốc gia trên thế  giới là một tất yếu khách quan xuất phát từ  đòi hỏi của nền  
kinh tế thị trường nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Sự phát triển đó có thể chia  
ra thành nhiều giai đoạn:
2.1. Giai đoạn trước năm 1936
Các Trung tâm dịch vụ việc làm bước đầu được hình thành ở các nước tư 
bản như  Mỹ, Anh, Pháp, Đức… chủ  yếu với mục đích kiếm lợi dựa trờn nhu  
cầu tìm việc làm của một bộ  phận đông đảo người lao động và nhu cầu tuyển  
lao động theo đúng trình độ  chuyên môn để  đáp  ứng yêu cầu công việc của  
người sử dụng lao động. Sự hình thành các Trung tâm dịch vụ việc làm này mang 
tính tự phát và không chịu sự điều phối, quản lý của Nhà nước.
21



Trong thời gian này, các Trung tâm dịch vụ việc làm của cá nhân, hội, cơ 
quan, sở  hoặc các tổ  chức khác (được gọi chung là các Phòng Việc làm có thu 
phí) có thể chia ra làm hai loại:
­ Những phòng việc làm có mục đích kiếm lợi, tức là mọi cá nhân, hội, cơ 
quan, sở  hoặc mọi tổ  chức khác làm môi giới để  tìm việc làm cho người lao 
động hoặc cho người sử dụng lao động.
­ Những phòng tìm việc làm không có mục đích kiếm lợi gồm những dịch 
vụ việc làm của các hội, cơ quan, sở hoặc mọi tổ chức khác, tuy không tìm kiếm 
một lợi ích vật chất, nhưng có thu của người sử dụng lao động một khoản tiền  
vào cửa. Một khoản đóng góp hoặc một khoản thù lao nhất định về  những dịch 
vụ đó.
2.2. Giai đoạn từ 1936 ­ 1950
Sự phát triển rầm rộ của các “Phòng việc làm có thu phí” bước đầu tuy có 
những tác động tích cực trong việc cân bằng cung cầu trên thị  trường lao động,  
song ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Chi phí “vào cửa” và nhưng chi trả 
vật chất kèm theo quá lớn đó gây nên những bất bình đối với người tìm việc làm 
cũng như người thuê mướn nhân công. Đứng trước tình hình đó, ngày 8/6/1933,  
Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã triệu tập Hội nghị tại Giơ­ne­vơ và cho Công  
ước số 34 “Công ước về các Phòng tìm việc làm có thu phớ”. Công ước này bắt 
đầu có hiệu lực từ ngày 18/10/1936 và không áp dụng đối với vấn đề  tìm việc 
làm cho các thuỷ thủ.
Theo Công  ước số  34, các Phòng tìm việc làm có thu phí  nói trên phải 
được đặt dưới sự  giám sát của nhà chức trách có thẩm quyền và phải có giấy  
phép thay mới hàng năm theo quyết định của nhà chức trách. Các phòng này sẽ 
chỉ được thu phí và các khoản phụ phí theo biểu giá đã được nhà chức trách nói 
trên chấp thuận và chỉ  được tìm việc, tuyển mộ những người lao động ra nước 
22


ngoài nếu được nhà chức trách có thẩm quyền cho phép và được thực hiện theo  

sự thoả thuận giữa các quốc gia hữu quan.
2.3. Giai đoạn từ 1950 ­ 1977
Việc tiếp tục thu phí và các khoản phụ  phí dù theo biểu giá đã được nhà 
chức trách có thẩm quyền cho phép cỏc phũng việc làm có thu phí nhìn chung  
vẫn thể hiện  mét số mặt chưa tích cực. Nhiều người lao động không đủ tiền để 
trả chi phí cần thiết. Do vậy, khả năng tìm kiếm việc làm đối với họ bị hạn chế 
và   họ   vẫn   tiếp   tục   ở   tình   trạng   thất   nghiệp.   Xét   đến   khía   cạnh   này,   ngày  
17/6/1948 tại Xan Franxisco, trong kỳ họp thứ 31, tổ chức Lao động quốc tế đã 
cho ra đời Công  ước số  88 ­ “Cụng  ước về  tổ  chức dịch vụ  việc làm”. Theo 
Công  ước này, từ  ngày 10/8/1950, mọi nước thành viên của tổ  chức Lao động 
quốc tế ILO đã tham gia ký kết công ước phải thực hiện dịch vụ việc làm công 
cộng miễn phí. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan dịch vụ việc làm, theo tinh thần  
của Công ước, là phải bảo đảm sự hiệp tác, nếu cần, với các cơ quan công cộng  
và tư nhân hữu quan khác, tổ  chức thị trường việc làm như một bộ  phận khăng  
khít của một chương trình quốc gia, nhằm thực hiện và duy trì tình trạng mọi 
người đều có việc làm và nhằm phát triển, sử dụng các tài nguyên sản xuất.
Theo Công  ước số  88, dịch vụ  việc làm được hợp thành một hệ  thống 
quốc gia những cơ  quan việc làm được đặt dưới sự  kiểm soát của nhà chức  
trách có thẩm quyền. Hệ thống đó bao gồm mạng lưới những cơ quan việc làm  
địa phương và nếu cần, những cơ quan việc làm ở các vùng, với số lượng đủ để 
phục vụ cho từng vùng địa lý, được đặt ở nơi thuận tiên cho người lao động và 
người sử dụng lao động. Các cơ quan việc làm phải có sự bố trí thích hợp bằng  
cách lập các Hội đồng tư vấn nhằm bảo đảm sự hợp tác giữa các đại diện của  
người lao động và người sử  dụng lao động trong việc tổ  chức, điều hành dịch 
vụ  việc làm, cũng như  trong việc triển khai chính sách dịch vụ  việc làm. Chính 
23


sách chung của dịch vụ  việc làm là nhằm đưa người lao động đến nơi có việc 
làm và phải được ấn định sau khi đã tham khảo ý kiến các đại diện của người  

lao động và người sử  dụng lao động thông qua các Hội đồng tư  vấn đó nờu  ở 
trên. Cũng theo Công ước này, dịch vụ việc làm phải: 
­ Giúp cho người lao động tìm được một việc làm thoả  đáng và giúp cho 
người sử dụng lao động tuyển chọn được lao động thích hợp;
­  Có   những  biện  pháp thích  hợp  để   tạo  điều kiện dễ   dàng cho  s ự  di 
chuyển về  nghề  nghiệp, về  địa lý (trong vùng hoặc liên vùng, liên quốc gia) 
nhằm giải quyết sự mất cân đối cung cầu về lao động giữa các ngành nghề, c ác 
vùng, các quốc gia (theo sự thoả thuận của các Chính phủ hữu quan);
­ Thu thập và phân tích mọi thông tin về  tình hình thị  trường việc làm và 
khả  năng diễn biến của thị trường đú trờn toàn quốc, cũng như  trong các nghề, 
các vùng lãnh thổ, chuyển các thông tin đó một cách có hệ thống và nhanh chóng  
tới các nhà chức trách, các tổ  chức của người sử  dụng lao động và người lao 
động cũng như công chúng;
­ Cộng tác trong việc quản lý sự  nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp và trong 
việc áp dụng những biện pháp khác nhằm giúp đỡ người thất nghiệp;
­ Giúp đỡ ở mức cần thiết cho các cơ quan công cộng và tư nhân trong việc  
soạn thảo các kế hoạch kinh tế ­ xã hội nhằm tác động thuận lợi đến vấn đề việc 
làm.
Công ước cũng khuyến nghị các nước thành viên phải có những biện pháp 
để tạo điều kiện cho cỏc phũng việc làm được chuyên môn hoá theo ngành nghề 
và đáp  ứng một cách thoả  đáng những nhu cầu về  các dạng tìm việc làm đặc  
biệt, ví dụ như tìm việc làm cho người tàn tật.

24


2.4. Giai đoạn từ 1977 đến nay.
Sự phát triển dịch vụ việc làm  ở thập kỷ 60 và những năm đầu của thập 
kỷ 70 tuy đạt được những thành tựu đáng kể, song cũng còn một số bất cập nhất 
định. Nhiều khi người tìm việc không được qua đào tạo hoặc nếu được qua đào 

tạo thì lĩnh vực chuyên môn được đào tạo lại không đáp ứng được nhu cầu của 
thị trường lao động. Chính vì lẽ đó, tại Hội nghị toàn thể của tổ chức Lao động 
quốc tế   ở  Giơ­ne­vơ  ngày 4/6/1970, Công  ước số  142 ­ “Công  ước về  hướng 
nghiệp và đạo nghề  trong việc phát triển nguồn nhân lực” đã ra đời và chính  
thức có hiệu lực từ ngày 19/7/1977 tại các nước thành viên tham gia ký kết Công  
ước.
Theo Công  ước này, mỗi nước thành viên phải chấp thuận và triển khai 
những chính sách, chương trình hoàn chỉnh có phối hợp về hướng nghiệp và đào 
tạo nghề; phải thiết lập thông qua các cơ  quan dịch vụ  công cộng về  việc làm 
một mối liên hệ chặt chẽ giữa hướng nghiệp, đào tạo nghề và việc làm. Những  
chính sách và chương trình đó phải lưu ý tới những nhu cầu, khả năng việc làm 
và những vấn đề có liên quan ở từng địa phương và toàn quốc trên cơ sở trình độ 
phát triển kinh tế  ­ xã hội ­ văn hoá và mối tương quan giữa các mục tiêu khai  
thác tài nguyên, nhân lực và các mục tiêu kinh tế  ­ xã hội ­ văn hoỏ  khỏc. Như 
vậy, hoạt động dịch vụ việc làm đó kiờm thờm chức năng hướng nghiệp và đào 
tạo nghề.
Kể từ năm 1988, theo tinh thần của Công ước số  168, các quốc gia thành 
viên của ILO tiến hành xúc tiến việc làm, chống thất nghiệp và đưa những biện 
pháp đặc biệt bảo đảm trợ  cấp thất nghiệp thông qua mạng lưới dịch vụ  việc  
làm. Công  ước này khuyến nghị  các nước thành viên ILO có những biện pháp 
hữu hiệu nhằm tạo việc làm cho các đối tượng đặc biệt như  lao động nữ, lao 
động bị khuyết tật, lao động dôi dư do thay đổi cơ cấu v.v…
25


×