BÙI MẠNH CƯỜNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẠI HỌC
Đề tài:
Một số phương hướng và giải pháp nhằm
phát triển dịch vụ việc làm ở Việt Nam hiện
nay.
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM.......5
I. Một số khái niệm và phân loại.........................................................................5
II. Sự cần thiết của dịch vụ việc làm trong nền kinh tế thị trường...................12
III. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ việc làm ở các
nước trên thế giới.................................................................................................19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM THỜI
GIAN QUAN........................................................................................................24
I. Quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ việc làm ở Việt Nam............24
II. Đánh giá hoạt động dịch vụ việc làm thời gian qua.......................................33
CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM....................................46
I. Điều kiện cần và đủ để dịch vụ việc làm có hiệu quả..................................46
II. Một số nét về bối cảnh thị trường lao động trong 5 10 năm tới có ảnh
hưởng đến sự phát triển của dịch vụ việc làm ở Việt Nam..............................50
III. Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển dịch vụ việc làm ở
nước ta..................................................................................................................53
KẾT LUẬN..........................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................69
2
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi đất nước ta thực hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề kinh tế
xã hội nảy sinh, trong đó có vấn đề việc làm cho người lao động. Nếu như
trước thời kỳ đổi mới, việc làm cho người lao động chủ yếu do Nhà nước phân
công thì trong đổi mới, “giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả
năng lao động đều có cơ hội việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các
doanh nghiệp và toàn xã hội” (Điều 13 Bộ Luật Lao động). Trong bối cảnh đó,
cùng với sự gia tăng nguồn nhân lực xã hội, sắp xếp lại sản xuất và tinh giảm
biên chế trong khu vực Nhà nước v.v…, nhu cầu về việc làm của người lao
động ngày càng trở nên cấp bách. Đây chính là cơ sở cho sự hình thành và phát
triển dịch vụ việc làm ở nước ta.
Từ những trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm, trung tâm xúc tiến việc
làm và phát triển thành các trung tâm dịch vụ việc làm. Hiện nay, cả nước đó có
178 Trung tâm Dịch vụ việc làm công thuộc các Sở Lao động Thương binh và
Xã hội, một số bộ, ngành và các tổ chức chính trị, xã hội. Những năm qua, các
Trung tâm Dịch vụ việc làm công này đó có những đóng góp tích cực đối với
việc phát triển thị trường lao động, xúc tiến việc làm, đáp ứng nhu cầu của
người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, những bất cập về nội
3
dung hoạt động, cơ chế, chính sách và tổ chức hoạt động… đã hạn chế hiệu
quả hoạt động của các trung tâm này. Bên cạnh đó, từ khi Luật Doanh nghiệp có
hiệu lực và dịch vụ việc làm được coi là ngành kinh doanh không cần điều kiện,
những phức tạp trong hoạt động dịch vụ việc làm đã nảy sinh đòi hỏi phải có
những nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm đảm bảo các hoạt động này
đúng hướng, làm lành mạnh thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động
dịch vụ việc làm.
Chính vì lý do trên, trong quá trình thực tập tại Vụ Chính sách Lao động và
Việc làm, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, được nghiên cứu và tìm hiểu
về hoạt động dịch vụ việc làm, em đã chọn đề tài: “Một số phương hướng và
giải pháp nhằm phát triển dịch vụ việc làm ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp của mình
Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ việc làm.
Chương II: Thực trạng dịch vụ việc làm thời gian qua.
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển dịch vụ
việc làm ở nước ta.
4
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ VIỆC LÀM
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về việc làm
Việc làm và thất nghiệp là những vấn đề luôn có tính thời sự và là mối
quan tâm của mọi người, mọi Chính phủ, mọi tổ chức trong xã hội. Nhìn chung,
trong các lý thuyết về việc làm, người ta thống nhất rằng, một hoạt động được
coi là việc làm khi đáp ứng được hai tiêu chuẩn sau đây:
Thứ nhất, đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm.
Thứ hai, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc
tạo điều kiện cho người lao động tham gia để tạo thu nhập hoặc tiết kiệm chi
phí cho gia đình.
Bộ luật Lao động của Việt Nam nêu rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” (Điều 18,
chương II). Hoạt động đem lại thu nhập có thể nhận diện được dưới các dạng:
người lao động làm việc để nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc
hiện vật từ người sử dụng lao động; tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua
hoạt động kinh tế mà bản thân người lao động làm chủ, tự tổ chức và tiến hành
các hoạt động đó; hoặc đem lại thu nhập cho h ộ gia đình mà bản thân người lao
động thực hiện công việc đó là thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm hay không chủ yếu được dựa trờn
tớnh hợp pháp và việc tạo ra thu nhập của hoạt động đó.
Như vậy, quan điểm việc làm đó cú sự thay đổi. Chính sách kinh tế nhiều
thành phần và cơ chế thị trường đã làm thay đổi quan điểm này. Việc làm được
5
xác định trong mọi thành phần kinh tế chứ không chỉ trong khu vực kinh tế Nhà
nước như trước đây.
1.2. Dịch vụ việc làm
Trong một thời gian dài, người ta thường hiểu dịch vụ việc làm là hoạt
động môi giới việc làm, là hoạt động trung gian nhằm chắp nối cung cầu về lao
động, giúp cho người lao động tìm được việc làm, người sử dụng lao động tìm
được lao động cần thuê. Cho đến năm1970, khi Công ước số 142 của tổ chức
Lao động quốc tế ILO “Công ước về hướng nghiệp và đào tạo nghề trong việc
phát triển nguồn nhân lực” ra đời, cách hiểu chung về dịch vụ việc làm không
chỉ thuần tuý dưới góc độ môi giới việc làm.
Sự ra đời của Công ước số 142 đã làm thay đổi căn bản nhận thức về dịch
vụ việc làm. Theo đó, dịch vụ việc làm ngoài nhiệm vụ môi giới c òn có nhiệm
vụ hướng nghiệp và đào tạo nghề. Mặt khác, cũng theo tinh thần các công ước
của tổ chức Lao động quốc tế ILO (Công ước số 34, 88, 96, 168…), hoạt động
dịch vụ việc làm còn bao gồm nhiều nhiệm vụ khác như thông tin thị trường lao
động, chắp nối cung cầu lao động liên vùng, liên quốc gia…
Như vậy, có thể hiểu dịch vụ việc làm là toàn bộ các hoạt động nhằm
sắp xếp việc làm có hiệu quả cho người lao động thông qua quá trình chắp nối
cung cầu lao động hoặc tư vấn, trợ giúp để người lao động có thể tự tạo việc
làm. Sắp xếp việc làm liên quan đến việc chắp nối kỹ năng, khả năng của người
tìm việc với yêu cầu của người sử dụng lao động. Tư vấn tạo việc làm liên quan
đến việc cung cấp các thông tin về cơ hội tự tạo việc làm, hỗ trợ các kỹ năng
cần thiết để tự tạo việc làm. Để đạt được các mục tiêu trên, dịch vụ việc làm
còn bao hàm một số chức năng khác như tư vấn pháp luật, chính sách, tư vấn
đào tạo và học nghề, tư vấn thông tin thị trường lao động.
6
1.3. Mạng lưới dịch vụ việc làm
Mạng lưới dịch vụ việc làm là một hệ thống bao gồm Trung tâm dịch vụ
việc làm, Trung tâm điều phối việc làm. Mối quan hệ giữa chúng được hình
thành nhằm hỗ trợ cho người lao động trong tìm kiếm việc làm và hỗ trợ cho
người sử dụng lao động, người đào tạo nghề thoả mãn nhu cầu về lao động, về
đào tạo trong một vùng lãnh thổ nào đó hoặc liờn vựng.
1.4. Trung tâm dịch vụ việc làm
Trung tâm dịch vụ việc làm (cơ sở, hay tổ chức Dịch vụ việc làm) là các
trung tâm được thành lập theo quy định của pháp luật để hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ việc làm. Tài liệu của ILO cho rằng, tổ chức dịch vụ việc làm có
thể được xem như là các tổ chức mà Nhà nước cho phép thành lập nhằm:
Cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ người thất nghiệp và giúp đỡ người
tìm việc tham gia hoặc tái tham gia vào thị trường lao động.
Tổ chức thị trường việc làm nhằm đảm bảo các chỗ làm việc trống
được lấp bằng những ứng viên thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của công việc đòi
hỏi trong thời gian sớm nhất; bảo đảm nhu cầu lao động hiện tại và tương lai
được đáp ứng bởi cung lao động phù hợp.
Đề xuất và thực hiện các giải pháp tạo việc làm mới.
Tổ chức dịch vụ việc làm có thể là tổ chức của Nhà nước hoặc là tổ chức
của tư nhân.
1.5. Trung tâm điều phối việc làm
Trung tâm điều phối việc làm là các trung tâm thực hiện các hoạt động
điều phối việc làm.
Hoạt động điều phối việc làm là hoạt động chắp nối thông tin cung cầu
về lao động giữa các Trung tâm dịch vụ việc làm các địa phương hoặc cỏc vựng
lãnh thổ nhằm giải quyết sự mất cân đối cung cầu lao động.
7
Trung tâm điều phối việc làm được hiểu như là cầu nối giữa các Trung
tâm dịch vụ việc làm. Nó có nhiệm vụ tổng hợp, phân tích, xử lý các nguồn
thông tin cung cầu về lao động do các Trung tâm dịch vụ việc làm cung cấp
hoặc từ các nguồn khác. Trên cơ sở nhu cầu về việc làm và nhu cầu cần tuyển
lao động ở các địa phương, trung tâm này có thể thực hiện chức năng trung gian
nhằm tuyển lao động ở địa phương thừa lao động cung ứng cho địa phương
thiếu lao động, góp phần làm giảm sự mất cân đối cung cầu lao động giữa c ác
vùng lãnh thổ.
Trên thực tế, sự tồn tại của các trung tâm chỉ thuần tuý thực hiện chức
năng điều phối việc làm là không phổ biến. Thông thường, các Trung tâm dịch
vụ việc làm thực hiện luôn chức năng này.
1.6. Môi giới việc làm
Trong các tài liệu về dịch vụ việc làm và trong nhôn ngữ thông thường rất
hay đề cập đến khái niệm môi giới việc làm. Môi giới, hiểu theo nghĩa thông
thường nhất là đứng giữa, làm trung gian, giúp hai bên giao tiếp với nhau nhằm
đạt được một mục đích nào đó mà hai bên theo đuổi.
Môi giới việc làm chính là đứng giữa làm trung gian cho hai bên, một bên
là người tìm việc, một bên là người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển người
vào chỗ làm việc trống, để họ tiếp xúc, tìm hiểu lẫn nhau nhằm đạt được mục
đích của mỗi bên, đó là người lao động tìm được việc làm phù hợp và người sử
dụng lao động tuyển chọn được lao động theo yêu cầu của công việc.
Môi giới việc làm là điểm xuất phát của hầu hết các cở dịch vụ việc làm.
Trong đề tài này, môi giới việc làm được hiểu là chức năng truyền thống của
các giao dịch về việc làm. Nó có thể định nghĩa như là quá trình thông qua đó
các cơ sở dịch vụ việc làm thu xếp để người tìm việc tìm được việc làm và
người sử dụng lao động tuyển được người phù hợp.
8
Sự cần thiết của hoạt động môi giới việc làm là ở chỗ cả người sử dụng
lao động và người lao động tìm việc đều không có đầy đủ thông tin về các chỗ
làm việc trống và các ứng viên tìm việc, do vậy, cần có một loại dịch vụ giúp
chắp nối hai bên với nhau. Không có dịch vụ này thỡ cỏc chừ làm việc trống cần
một thời gian dài hơn mới lấp đầy được và người tìm việc ở tình trạng thất
nghiệp trong một thời gian dài hơn. Môi giới việc làm là nỗ lực nhằm xoá bỏ sự
thiếu hụt về thông tin này và đưa người tìm việc và người sử dụng lao động đến
được với nhau.
1.7. Giới thiệu việc làm
So với môi giới việc làm thì giới thiệu việc làm có đôi chút khác biệt.
Trong môi giới việc làm, cơ sở dịch vụ việc làm không chỉ giới thiệu cho người
tìm việc và người tuyển dụng lao động gặp nhau mà còn quan tâm đến kết quả
là hai bên đi đến được một thoả thuận là người tìm việc chấp nhận chỗ làm
việc do nhà tuyển dụng đưa ra; nhà tuyển dụng chấp nhận tuyển người do cơ sở
dịch vụ việc làm giới thiệu. Giới thiệu việc làm nhiều khi chỉ là giúp cho người
tìm việc và người sử dụng lao động gặp nhau, họ tự thương thuyết, thoả thuận
và cơ sở dịch vụ việc làm nhiều khi không quan tâm lắm đến kết quả cuối cùng.
Giới thiệu việc làm là quá trình trong đó cơ sở dịch vụ việc làm có những
thông tin về chỗ làm việc trống và giới thiệu cho người tìm việc đến địa chỉ của
người sử dụng lao động để tìm hiểu và có thể đi đến thoả thuận về việc làm;
hoặc cơ sở dịch vụ việc làm có thông tin về người tìm việc và giới thiệu cho
người sử dụng lao động tiếp xúc và có thể đi đến những thoả thuận tuyển dụng.
1.8. Cung ứng lao động
Cung ứng lao động là một loại dịch vụ mà các cơ sở dịch vụ việc làm có
thể cung cấp cho người sử dụng lao động. Cung ứng lao động được dùng để chỉ
việc cơ sở dịch vụ việc làm và người sử dụng lao động ký kết hợp đồng cung
9
ứng lao động trong đó cơ sở dịch vụ việc làm chịu trách nhiệm tuyển chọn và
cung cấp đủ số lượng lao động đáp ứng các yêu cầu về kỹ năng, tay nghề cho
người sử dụng lao động.
Cung ứng lao động thường xảy ra khi nhà tuyển dụng không có thông tin
và thời gian tìm kiếm người lao động và tin chắc rằng cơ sở dịch vụ việc làm có
đủ năng lực giúp họ làm việc đó. Cung ứng loa động cũng thường xảy ra khi nhà
tuyển dụng muốn có một số lượng lớn lao động, không đòi hỏi chất lượng quá
khắt khe và việc nhờ cơ sở dịch vụ việc làm tuyển dụng sẽ tiết kiệm được chi
phí hơn là họ tự đứng ra tuyển.
2. Phân loại dịch vụ việc làm
2.1. Phân loại theo đối tượng hoạt động
Dịch vụ việc làm có nhiều hình thức khác nhau. Nếu phân theo đối tượng
hoạt động, có 3 dạng dịch vụ việc làm sau:
Dịch vụ trợ giúp người lao động;
Dịch vụ trợ giúp người sử dụng lao động;
Dịch vụ trợ giúp người đào tạo, dạy nghề.
Bản chất của dịch vụ trợ giúp người lao động là cung cấp các thông tin và
tư vấn về những vấn đế liên quan đến lao động việc làm, đào tạo, hướng
nghiệp… mà người lao động có nhu cầu, đồng thời giúp họ tìm kiếm việc làm.
Ở nhiều quốc gia, các Trung tâm dịch vụ việc làm cũng kiêm luôn cả dịch vụ chi
trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
Dịch vụ trợ giúp người sử dụng lao động thường được hiểu là dịch vụ tìm
kiếm người lao động phù hợp với yêu cầu công việc do người tuyển dụng lao
động đề ra. Theo đó dịch vụ này bao gồm:
10
Xem xét các thông tin về người xin việc, nếu thấy phù hợp với yêu cầu
của người sử dụng lao động, Trung tâm dịch vụ việc làm sẽ giới thiệu cho
người sử dụng lao động tự tuyển chọn.
Tham gia tuyển chọn lao động nếu được người sử dụng lao động uỷ
quyền.
Tuy nhiên, ở một số quốc gia, chẳng hạn ở Cộng hoà liên bang Đức, dịch
vụ trợ giúp người sử dụng lao động còn bao gồm cả dịch vụ trợ giúp người
thành lập doanh nghiệp hoặc trợ giúp cho doanh nghiệp hoạt động trở lại.
Khác với các dạng dịch vụ kể trên, dịch vụ trợ giúp người đào tạo dạy
nghề chỉ gián tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, dịch vụ này bao
gồm:
Tư vấn cung cấp các thông tin cần thiết cho người đào tạo, dạy nghề về
nhu cầu lao động trên thị trường lao động nhằm giúp cho người đào tạo, dạy
nghề định hướng những lĩnh vực cần tập trung đào tạo.
Giới thiệu người cần đào tạo, học nghề cho người đào tạo, dạy nghề.
Tổ chức đào tạo, dạy nghề nếu được giao nhiệm vụ hoặc được uỷ
quyền.
2.2. Phân loại theo phạm vi hoạt động
Theo tiêu chí này, có thể phân loại dịch vụ việc làm thành 3 dạng khác
nhau:
Dịch vụ việc làm địa phương;
Dịch vụ việc làm liên địa phương;
Dịch vụ việc làm quốc tế.
Dịch vụ việc làm địa phương là dịch vụ việc làm mà phạm vi hoạt động
chỉ thu hẹp trong một vùng lãnh thổ nào đó (tỉnh, thành phố, huyện…).
11
Dịch vụ việc làm liên địa phương là dịch vụ việc làm được thực hiện
thông qua hoạt động điều phối việc làm giữa các địa phương trong nước.
Dịch vụ việc làm quốc tế là dịch vụ việc làm nhằm điều phối việc làm
giữa các quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, loại dịch vụ này được thực
hiện chủ yếu dưới hình thức xuất khẩu lao động. Ngược lại, đối với các nước
phát triển hoặc các nước công nghiệp mới, dịch vụ này chủ yếu được thực hiện
dưới hình thức nhập khẩu lao động.
2.3. Phân loại theo chủ thể quản lý
Dịch vụ việc làm có thể có nhiều chủ thể quản lý khác nhau. Theo tiêu
thức này có thể phân dịch vụ việc làm thành 2 dạng:
Dịch vụ việc làm công;
Dịch vụ việc làm tư nhân.
Dịch vụ việc làm công là dịch vụ việc làm do Nhà nước hoặc Nhà nước
phối hợp với các tổ chức xã hội quản lý, tiến hành các hoạt động dịch vụ việc
làm vì mục tiêu xã hội, phi lợi nhuận. Chi phí cho hoạt động dịch vụ việc làm
của các tổ chức dịch vụ việc làm công được Ngân sách Nhà nước đài thọ. Các tổ
chức dịch vụ việc làm công không thu phí của người lao động và người sử dụng
lao động. Khi các nước triển khai Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp, mà gần đây
đều có xu hướng chuyển thành Chính sách Bảo hiểm việc làm, thì chi phí hoạt
động của hệ thống dịch vụ việc làm công do Quỹ Bảo hiểm việc làm chịu.
Thông thường, dịch vụ việc làm công do ngành lao động quản lý. Chẳng hạn, ở
Philipines dịch vụ việc làm công do Bộ Lao động Việc làm quản lý; ở Thái Lan
do Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội quản lý.
Dịch vụ việc làm tư nhân có chủ thể quản lý không phải là Nhà nước. Đó
là các tổ chức dịch vụ việc làm do một số cá nhân tự đứng ra thành lập. Song về
12
mặt nguyên tắc, việc thành lập các tổ chức dịch vụ việc làm này phải chịu sự
quản lý của Nhà nước.
Hiện tại các cơ sở dịch vụ việc làm công hoạt động trong bối cảnh thị
trường lao động thay đổi nhanh chóng. Dịch vụ việc làm ở hầu hết các nước
phát triển đều phải đối mặt với các sức ép bởi:
Sự hạn chế về nguồn nhân lực (cán bộ) và tài chính cho hoạt động.
Sự gia tăng của số người thất nghiệp, số mới bước vào thị trường lao
động.
Sự gia tăng của số người thuộc nhóm yếu thế.
Sự suy giảm số chỗ làm việc trống.
Thị trường lao động ngày càng đa dạng và linh hoạt.
Một phần là do những biến đổi nhanh chúng trờn thị trường lao động, một
phần là do các nhu cầu không được đáp ứng của người tìm việc và doanh nghiệp
có xu hướng tăng lên do dịch vụ việc làm công không đủ nguồn lực để thoả
mãn, các cơ sở dịch vụ việc làm tư nhân dần dần xuất hiện và được thừa nhận.
Trong chuyên đề này sẽ tập trung nghiên cứu dịch vụ việc làm theo cách
phân loại này.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA DỊCH VỤ VIỆC LÀM TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Thị trường lao động và mối quan hệ giữa thị trường lao động với
các dạng dịch vụ việc làm
1.1. Thị trường lao động
a. Khái niệm
Theo Adam Smith thị trường là không gian trao đổi, trong đó người mua và
người bán gặp nhau thoả thuận trao đổi hàng hoá và dịch vụ nào đó.
13
Theo David Beg, thị trường là tập hợp những sù thoả thuận, trong đó
người mua và người bán trao đổi với nhau loại hàng hoá, dịch vụ nào đó. Như
vậy, theo quan điểm này, thị trường không bó hẹp bởi một không gian nhất định
mà bất cứ ở đâu có sự trao đổi, thoả thuận mua bán hàng h óa thì ở đó có thị
trường.
Thị trường lao động là thị trường ở đó diễn ra sù trao đổi hàng hoá sức lao
động giữa một bên là người sở hữu sức lao động và một bên là người cần thuê
sức lao động đó.
Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị
trường và chịu sự tác động của hệ thống các quy luật của nền kinh tế thị trường
như quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền… Các quy luật này tác động
và chi phối quan hệ cung cầu của thị trường lao động.
b. Cấu trúc của thị trường lao động
Nói đến thị trường, bao giê người ta cũng đề cập đến cung, cầu về hàng
hoỏ đú và giá cả của nó. Trên thị trường lao động, hàng hoá là sức lao động. Như
vậy, cung và cầu về hàng hoá ở đây là cung, cầu về sức lao động, còn giá cả
hàng hoá là giá cả sức lao động.
Giá cả sức lao động là là mức giá mà người sử dụng lao động trả cho
người làm thuê để mua sức lao động của họ trên cơ sở thoả thuận với người làm
thuê nhằm thực hiện một hoạt động lao động nào đó trong một khoảng thời gian
nào đó. Mức giá cả này thường được gọi là tiền công (Wage).
Giá cả sức lao động chịu sự chi phối của cung và cầu về sức lao động và
có tác động tới cung cầu sức lao động.
Cung về lao động là lượng lao động làm thuê có thể cung ứng trên thị
trường sức lao động ở mỗi mức giá nhất định. Cung lao động mô tả toàn bộ
14
hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở mức giá đặt ra. Khi giá cả tăng,
cung lao động sẽ tăng và ngược lại.
Cầu về lao động là lượng lao động mà người sử dụng lao động có thể
thuê mướn ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Cầu về lao động được coi là cầu dẫn xuất hay là cầu gián tiếp. Bởi lẽ,
xuất phát từ nhu cầu về sản phẩm nào đó mới có nhu cầu sản xuất ra sản phẩm
đó. Cầu về lao động khác với lượng cầu về lao động. Cầu về lao động mô tả
toàn bộ hành vi của người mua có thể mua được hàng hoá sức lao động ở mỗi
mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Ở mỗi mức giá có một lượng
cầu nhất định.
Cũng như cung về lao động, cầu về lao động có liên quan chặt chẽ với giá
cả sức lao động (tiền công). Khi giá cả sức lao động tăng (hoặc giảm), cầu về
sức lao động sẽ giảm (hoặc tăng) và ngược lại. Đây là mối quan hệ tỷ lệ nghịch
giữa hai phạm trù kinh tế này.
Như vậy, có thể thấy, nếu biểu diễn mối quan hệ cung cầu về lao động
trên đồ thị mà trục tung chỉ mức giá cả W (Wage tiền công), trục hoành chỉ số
lượng lao động Q thì đường cung lao động LS (Labour Supply cung lao động)
sẽ là đường cong có độ dốc đi lên, còn đường cầu lao động LD (Labour Demand
cầu lao động) sẽ là đường cong có độ dốc đi xuống. Hai đường này cắt nhau
tại một điểm (điểm E), tại điểm đó, lượng cầu bằng lượng cung, và điểm E
được gọi là điểm cân bằng của thị trường lao động. Mức giá W0 được gọi là
mức giá cân bằng với lượng cầu Q0 (xem hình 1).
Hình 1: Đồ thị biểu diễn mối quan hệ cung cầu về sức lao động
W
LD LS
15
E
W0 Q
Q0
Từ đây, có thể thấy sự tác động của cung cầu sức lao động tới việc hình
thành giá cả sức lao động: nếu cung > cầu thì giá cả có xu hướng giảm và cầu >
cung thì giá cả có xu hướng tăng.
c. Phân loại thị trường lao động
Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu mà người ta chia ra:
Thị trường lao động trong nước;
Thị trường lao động ngoài nước;
Thị trường lao động khu vực, vùng;
Thị trường lao động thành thị;
Thị trường lao động nông thôn;
Thị trường lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật;
Thị trường lao động phổ thông;
Thị trường lao động chất xám;
v.v…
Việc nghiên cứu từng loại thị trường lao động cho phép chúng ta biết
được nhu cầu và khả năng đáp ứng của từng loại lao động cho sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
1.2. Mối quan hệ giữa thị trường lao động và các dạng dịch vụ việc
làm
1.2.1. Dịch vụ việc làm công công cụ chủ yếu của chính sách thị trường
lao động
16
a. Khái niệm chính sách thị trường lao động
Như đã trình bày, thị trường lao động là nơi diễn ra sù trao đổi hàng hoá
sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là
người cần thuê sức lao động đó. Do những đặc tính về cơ cấu của nó, thị trường
lao động khác với thị trường hàng hoá, thị trường tiền, thị trường vốn: trên thị
trường lao động, người lao động cung ứng sức lao động của mình. Đối với họ,
sức lao động là nguồn duy nhất đảm bảo nhu cầu cuộc sống của họ. Về phương
diện vật chất, nhìn chung, họ yếu thế hơn một cách cơ bản so với giới chủ sở
hữu về tư liệu sản xuất, công cụ và kết quả sản xuất. Như vậy, có một sự phân
chia không đồng đều về quyền lực trên thị trường. Vì vậy, trong một nền kinh
tế thị trường với những cam kết về phương diện xã hội, thị trường lao động
càng không thể để phó mặc mà không điều tiết, đối với những cơ chế giống
như ở trên các thị trường khác: cần có sự chuyển biến thị trường lao động tự do,
không hoàn chỉnh sang một thị trường lao động được tổ chức và thể chế hoá.
Như vậy, chính sách thị trường lao động là chính sách của Nhà nước
nhằm đưa ra những công cụ điều tiết, các cơ chế trên thị trường lao động,
nhằm đưa thị trường lao động tự do trở thành thị trường lao động có tổ chức và
thể chế hoá để góp phần đạt được những mục tiêu đã định của Nhà nước về
lao động việc làm.
Chính sách thị trường lao động có thể được phân thành ba lĩnh vực: chính
sách cổ điển là chính sách trật tự thị trường lao động; chính sách cân bằng thị
trường lao động; chính sách tạo đầy đủ công ăn việc làm.
Chính sách trật tự thị trường lao động nhằm làm giảm bớt sự chênh lệch
về quyền lực trên thị trường lao động. Một tiền đề quan trọng để thực hiện
chính sách này là những điều kiện lao động được thoả thuận không phải chủ
17
yếu giữa cỏc cỏ nhõnvới nhau, mà thoả thuận giữa các tập thể thông qua cơ chế
hai bên hoặc ba bên.
Chính sách cân bằng thị trường lao động có mục tiêu tạo ra mức độ công
ăn việc làm cao có thể có được. Trong vấn đề này, một mặt phải sử dụng một
cách có hiệu quả nhân tố lao động, mặt khác phải ngăn ngừa và làm giảm những
sự mất cân đối về mặt xã hội.
Chính sách tạo đầy đủ công ăn việc làm được thể hiện ở việc tạo mới và
tạo đủ việc làm cho người lao động, làm giảm tối đa tỷ lệ thất nghiệp. Nó được
thể hiện thông qua những chính sách như là chính sách tài khoá, chính sách tiền
tệ và các chương trình quốc gia về việc làm v.v…
b. Hoàn thiện và phát triển dịch vụ việc làm Nhà nước nhân tố quan
trọng bảo đảm chính sách thị trường lao động được thực hiện có hiệu quả.
Dịch vụ việc làm Nhà nước là dịch vụ việc làm do Nhà nước quản lý và
thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao, được Ngân sách Nhà nước đài thọ, có
thẩm quyền và năng lực thực hiện hoạt động dịch vụ việc làm trên phạm vi cả
nước. Có nghĩa là nó có tác động quan trọng trong việc cân đối cung cầu về lao
động ở địa phương, liên địa phương và liên quốc gia. Việc hoàn thiện và phát
triển dịch vụ việc làm Nhà nước, vì lẽ đó, sẽ có tác động làm cho thị trường lao
động sôi động hơn, hoàn thiện hơn. Như vậy, có thể thấy, dịch vụ việc làm Nhà
nước là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách thị trường lao động.
Mặt khác, chính sách thị trường lao động là chính sách của Nhà nước, việc
thực hiện chính sách này phải thông qua các công cụ của Nhà nước, trong đó có
hệ thống dịch vụ việc làm Nhà nước.
Với nội dung hoạt động như là công cụ chủ yếu của chính sách thị trường
lao động, có tác động đáng kể vào việc hoàn thiện và phát triển thị trường lao
động, việc hoàn thiện và phát triển dịch vụ việc làm Nhà nước chắc chắn phải
18
là nhân tố quan trọng bảo đảm chính sách thị trường lao động được thực hiện có
hiệu quả.
1.2.2. Như phần trên đã trình bày, dịch vụ việc làm tư nhân ra đời và tồn
tại là tất yếu. Dịch vụ việc làm tư nhân xuất hiện sẽ làm tăng cơ hội l ựa chọn
cho người tìm việc và người sử dụng lao động, tạo ra sự cạnh tranh trong nâng
cao chất lượng dịch vụ. Những điều đó chỉ có lợi cho sự phát triển của thị
trường lao động.
2. Tác dộng của dịch vụ việc làm đến việc hoàn thiện thị trường lao
động.
Dịch vụ việc làm thực hiện một trong những nhiệm vụ của nó là cầu nối
trung gian giữa người sử dụng lao động và người lao động. Nó cung cấp cho
người lao động những thông tin về yêu cầu của người sử dụng lao động, về lĩnh
vực cần tuyển dụng lao động, những đòi hỏi về trình độ chuyên môn kỹ thuật,
cũng như mức tiền công do đó làm tăng tính hiệu quả của thị trường lao động
rút ngắn thời gian tìm việc, thời gian tuyển dụng người, độ dài thời gian thất
nghiệp, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn nhân lực.
Với mong muốn có việc làm thích hợp và có thu nhập cao, người lao động
sẽ phải cố gắng để đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của công việc. Hơn
nữa, các Trung tâm dịch vụ việc làm còn tham gia đào tạo, dạy nghề. Như vậy,
có thể thấy, dịch vụ việc làm có tác động nâng cao chất lượng “cung về lao
động”. Chất lượng cung về lao động tăng lên sẽ khuyến khích các nhà sản xuất
trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đòi hỏi về trình
độ chuyên môn kỹ thuật đối với nhân công sẽ tăng lên. Điều đó thúc đẩy tiếp
tục nâng cao chất lượng cung về lao động, nhưng đồng thời cho thấy sự thoả
mãn cầu về lao động cũng tăng lên.
19
Ngoài ra, dịch vụ việc làm cũn giỳp cho việc nắm bắt, xử lý thông tin cung
cầu lao động nhanh chóng, kịp thời ở từng vựng, liờn vựng và trong toàn quốc,
còng như ở thị trường lao động quốc tế, góp phần hoàn thiện thị trường lao
động chung của quốc gia.
3. Tác động của dịch vụ việc làm đến phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Dịch vụ việc làm giúp người lao động nhanh chóng tìm được việc làm và
được việc làm đúng ngành nghề, chuyên môn, phát huy được khả năng, sở
trường; giúp người sử dụng lao động nhanh chóng thoả mãn nhu cầu về lao
động. Thông qua đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần tăng năng suất
lao động xã hội, nâng cao mức sống dân cư.
Dịch vụ việc làm góp phần giảm bớt nhu cầu bức bách của xã hội về việc
làm, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, thông qua đó có tác động làm cho xã hội lành
mạnh hơn.
Dịch vụ việc làm có hiệu quả sẽ góp phần làm cho nền kinh tế thị trường
năng động hơn, làm tăng GDP, GNP, thông qua đó làm tăng vị thế của đất nước
trong khu vực và trên thế giới.
Dịch vụ việc làm có hiệu quả, với những tác động như đã trình bày ở trên,
sẽ tạo điều kiện cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
được thực hiện tốt hơn.
III. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA DỊCH VỤ VIỆC LÀM Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1. Sự ra đời của dịch vụ việc làm
Trong quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Tư bản, cùng với sự
tập trung và tích tụ tư bản là sự lớn mạnh của nền sản xuất đại công nghiệp.
Trên nền tảng đó, giai cấp công nhân ra đời và ngày càng lớn mạnh. Vì mục tiêu
20
lợi nhuận, giai cấp tư bản đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải tiến tổ chức
sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tạo đà cho
nền sản xuất công nghiệp phát triển. Nền sản xuất công nghiệp phát triển, việc
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng đã dẫn đến xu hướng tất yếu là mức
độ chuyên môn hoá tăng và đòi hỏi về trình độ chuyên môn kỹ thuật của người
lao động ngày càng cao. Như vậy, nhà tư bản sẽ khó khăn hơn trong việc tuyển
dụng được lao động phù hợp cho doanh nghiệp, họ cần có một khâu trung gian
giúp cho việc tuyển dụng lao động. Mặt khác, do sự bùng nổ dân số vào thế kỷ
18 và 19, vấn đề thất nghiệp trở nên gay gắt. Người lao động mong muồn có
việc làm. Nhưng để tìm được việc làm thích hợp, họ cần có một cơ quan trung
gian môi giới để giúp họ liên hệ.
Xuất phát từ những nhu cầu đó, dịch vụ việc làm ra đời. Sự ra đời của
dịch vụ việc làm đã làm năng động thêm nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa
Tư bản, có tác động làm hoàn thiện thêm thị trường lao động.
2. Quá trình phát triển của dịch vụ việc làm.
Như đã đề cập, sự hình thành và phát triển của dịch vụ việc làm ở các
quốc gia trên thế giới là một tất yếu khách quan xuất phát từ đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Sự phát triển đó có thể chia
ra thành nhiều giai đoạn:
2.1. Giai đoạn trước năm 1936
Các Trung tâm dịch vụ việc làm bước đầu được hình thành ở các nước tư
bản như Mỹ, Anh, Pháp, Đức… chủ yếu với mục đích kiếm lợi dựa trờn nhu
cầu tìm việc làm của một bộ phận đông đảo người lao động và nhu cầu tuyển
lao động theo đúng trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công việc của
người sử dụng lao động. Sự hình thành các Trung tâm dịch vụ việc làm này mang
tính tự phát và không chịu sự điều phối, quản lý của Nhà nước.
21
Trong thời gian này, các Trung tâm dịch vụ việc làm của cá nhân, hội, cơ
quan, sở hoặc các tổ chức khác (được gọi chung là các Phòng Việc làm có thu
phí) có thể chia ra làm hai loại:
Những phòng việc làm có mục đích kiếm lợi, tức là mọi cá nhân, hội, cơ
quan, sở hoặc mọi tổ chức khác làm môi giới để tìm việc làm cho người lao
động hoặc cho người sử dụng lao động.
Những phòng tìm việc làm không có mục đích kiếm lợi gồm những dịch
vụ việc làm của các hội, cơ quan, sở hoặc mọi tổ chức khác, tuy không tìm kiếm
một lợi ích vật chất, nhưng có thu của người sử dụng lao động một khoản tiền
vào cửa. Một khoản đóng góp hoặc một khoản thù lao nhất định về những dịch
vụ đó.
2.2. Giai đoạn từ 1936 1950
Sự phát triển rầm rộ của các “Phòng việc làm có thu phí” bước đầu tuy có
những tác động tích cực trong việc cân bằng cung cầu trên thị trường lao động,
song ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Chi phí “vào cửa” và nhưng chi trả
vật chất kèm theo quá lớn đó gây nên những bất bình đối với người tìm việc làm
cũng như người thuê mướn nhân công. Đứng trước tình hình đó, ngày 8/6/1933,
Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã triệu tập Hội nghị tại Giơnevơ và cho Công
ước số 34 “Công ước về các Phòng tìm việc làm có thu phớ”. Công ước này bắt
đầu có hiệu lực từ ngày 18/10/1936 và không áp dụng đối với vấn đề tìm việc
làm cho các thuỷ thủ.
Theo Công ước số 34, các Phòng tìm việc làm có thu phí nói trên phải
được đặt dưới sự giám sát của nhà chức trách có thẩm quyền và phải có giấy
phép thay mới hàng năm theo quyết định của nhà chức trách. Các phòng này sẽ
chỉ được thu phí và các khoản phụ phí theo biểu giá đã được nhà chức trách nói
trên chấp thuận và chỉ được tìm việc, tuyển mộ những người lao động ra nước
22
ngoài nếu được nhà chức trách có thẩm quyền cho phép và được thực hiện theo
sự thoả thuận giữa các quốc gia hữu quan.
2.3. Giai đoạn từ 1950 1977
Việc tiếp tục thu phí và các khoản phụ phí dù theo biểu giá đã được nhà
chức trách có thẩm quyền cho phép cỏc phũng việc làm có thu phí nhìn chung
vẫn thể hiện mét số mặt chưa tích cực. Nhiều người lao động không đủ tiền để
trả chi phí cần thiết. Do vậy, khả năng tìm kiếm việc làm đối với họ bị hạn chế
và họ vẫn tiếp tục ở tình trạng thất nghiệp. Xét đến khía cạnh này, ngày
17/6/1948 tại Xan Franxisco, trong kỳ họp thứ 31, tổ chức Lao động quốc tế đã
cho ra đời Công ước số 88 “Cụng ước về tổ chức dịch vụ việc làm”. Theo
Công ước này, từ ngày 10/8/1950, mọi nước thành viên của tổ chức Lao động
quốc tế ILO đã tham gia ký kết công ước phải thực hiện dịch vụ việc làm công
cộng miễn phí. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan dịch vụ việc làm, theo tinh thần
của Công ước, là phải bảo đảm sự hiệp tác, nếu cần, với các cơ quan công cộng
và tư nhân hữu quan khác, tổ chức thị trường việc làm như một bộ phận khăng
khít của một chương trình quốc gia, nhằm thực hiện và duy trì tình trạng mọi
người đều có việc làm và nhằm phát triển, sử dụng các tài nguyên sản xuất.
Theo Công ước số 88, dịch vụ việc làm được hợp thành một hệ thống
quốc gia những cơ quan việc làm được đặt dưới sự kiểm soát của nhà chức
trách có thẩm quyền. Hệ thống đó bao gồm mạng lưới những cơ quan việc làm
địa phương và nếu cần, những cơ quan việc làm ở các vùng, với số lượng đủ để
phục vụ cho từng vùng địa lý, được đặt ở nơi thuận tiên cho người lao động và
người sử dụng lao động. Các cơ quan việc làm phải có sự bố trí thích hợp bằng
cách lập các Hội đồng tư vấn nhằm bảo đảm sự hợp tác giữa các đại diện của
người lao động và người sử dụng lao động trong việc tổ chức, điều hành dịch
vụ việc làm, cũng như trong việc triển khai chính sách dịch vụ việc làm. Chính
23
sách chung của dịch vụ việc làm là nhằm đưa người lao động đến nơi có việc
làm và phải được ấn định sau khi đã tham khảo ý kiến các đại diện của người
lao động và người sử dụng lao động thông qua các Hội đồng tư vấn đó nờu ở
trên. Cũng theo Công ước này, dịch vụ việc làm phải:
Giúp cho người lao động tìm được một việc làm thoả đáng và giúp cho
người sử dụng lao động tuyển chọn được lao động thích hợp;
Có những biện pháp thích hợp để tạo điều kiện dễ dàng cho s ự di
chuyển về nghề nghiệp, về địa lý (trong vùng hoặc liên vùng, liên quốc gia)
nhằm giải quyết sự mất cân đối cung cầu về lao động giữa các ngành nghề, c ác
vùng, các quốc gia (theo sự thoả thuận của các Chính phủ hữu quan);
Thu thập và phân tích mọi thông tin về tình hình thị trường việc làm và
khả năng diễn biến của thị trường đú trờn toàn quốc, cũng như trong các nghề,
các vùng lãnh thổ, chuyển các thông tin đó một cách có hệ thống và nhanh chóng
tới các nhà chức trách, các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao
động cũng như công chúng;
Cộng tác trong việc quản lý sự nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp và trong
việc áp dụng những biện pháp khác nhằm giúp đỡ người thất nghiệp;
Giúp đỡ ở mức cần thiết cho các cơ quan công cộng và tư nhân trong việc
soạn thảo các kế hoạch kinh tế xã hội nhằm tác động thuận lợi đến vấn đề việc
làm.
Công ước cũng khuyến nghị các nước thành viên phải có những biện pháp
để tạo điều kiện cho cỏc phũng việc làm được chuyên môn hoá theo ngành nghề
và đáp ứng một cách thoả đáng những nhu cầu về các dạng tìm việc làm đặc
biệt, ví dụ như tìm việc làm cho người tàn tật.
24
2.4. Giai đoạn từ 1977 đến nay.
Sự phát triển dịch vụ việc làm ở thập kỷ 60 và những năm đầu của thập
kỷ 70 tuy đạt được những thành tựu đáng kể, song cũng còn một số bất cập nhất
định. Nhiều khi người tìm việc không được qua đào tạo hoặc nếu được qua đào
tạo thì lĩnh vực chuyên môn được đào tạo lại không đáp ứng được nhu cầu của
thị trường lao động. Chính vì lẽ đó, tại Hội nghị toàn thể của tổ chức Lao động
quốc tế ở Giơnevơ ngày 4/6/1970, Công ước số 142 “Công ước về hướng
nghiệp và đạo nghề trong việc phát triển nguồn nhân lực” đã ra đời và chính
thức có hiệu lực từ ngày 19/7/1977 tại các nước thành viên tham gia ký kết Công
ước.
Theo Công ước này, mỗi nước thành viên phải chấp thuận và triển khai
những chính sách, chương trình hoàn chỉnh có phối hợp về hướng nghiệp và đào
tạo nghề; phải thiết lập thông qua các cơ quan dịch vụ công cộng về việc làm
một mối liên hệ chặt chẽ giữa hướng nghiệp, đào tạo nghề và việc làm. Những
chính sách và chương trình đó phải lưu ý tới những nhu cầu, khả năng việc làm
và những vấn đề có liên quan ở từng địa phương và toàn quốc trên cơ sở trình độ
phát triển kinh tế xã hội văn hoá và mối tương quan giữa các mục tiêu khai
thác tài nguyên, nhân lực và các mục tiêu kinh tế xã hội văn hoỏ khỏc. Như
vậy, hoạt động dịch vụ việc làm đó kiờm thờm chức năng hướng nghiệp và đào
tạo nghề.
Kể từ năm 1988, theo tinh thần của Công ước số 168, các quốc gia thành
viên của ILO tiến hành xúc tiến việc làm, chống thất nghiệp và đưa những biện
pháp đặc biệt bảo đảm trợ cấp thất nghiệp thông qua mạng lưới dịch vụ việc
làm. Công ước này khuyến nghị các nước thành viên ILO có những biện pháp
hữu hiệu nhằm tạo việc làm cho các đối tượng đặc biệt như lao động nữ, lao
động bị khuyết tật, lao động dôi dư do thay đổi cơ cấu v.v…
25