Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Một số phương hướng và giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.47 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình xây dựng đất nước Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận
thức, quan điểm về vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế cho phù hợp với từng
chặng đường phát triển kinh tế của đất nước.
Yêu cầu thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải đổi mới cho phù hợp, đó là
vấn đề sống còn của đất nước. Sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới kinh tế
nói riêng do Đảng ta khởi sướng và lãnh đạo đã thức nhận trên cả lý luận và
thực tiễn nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định nền kinh tế nước ta hiện nay có sáu
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ;
kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời nhần
mạnh: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng".
Kinh tế tư nhân được xác định là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta chưa bao giờ phủ nhận vai trò của kinh tế tư nhân,
tuy nhiên nhận thức về vai trò của nó trong mỗi giai đoạn là hoàn toàn khác
nhau. Ngay từ Hội nghị TW lần thứ 24, khoá III, đã chỉ ra: trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần. Đến Đại
hội Đảng lần thứ IV khẳng định tư tưởng này và còn ghi rõ: "Trong một thời
gian nhất định, trong một số lĩnh vực sản xuất nhất định, kinh tế miền Nam còn
có nhiều thành phần". Nhưng lúc đó do còn nhận thức hạn chế nên chưa thực sự
chú ý dến vai trò to lớn của khu vực tư nhân. Phải đến Đại hội Đảng lần thứ VI
Đảng ta mới thực sự coi trọng kinh tế tư nhân. Sau 15 năm đổi mới và kiểm
điểm đánh giá 10 năm thực hiện chiến lược và ổn định phát triển kinh tế - xã hội
(1991 - 2000), Đảng ta đã tiến hành Đại hội lần thứ IX (4/2001). Trong Đại hội
cũng đã khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân, đánh giá và dưa ra những giải
pháp phát triển.


1
PHẦN 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Khái niệm cơ bản về kinh tế tư nhân:
Khái niệm kinh tế tư nhân ở nước ta cho đến nay vẫn chưa bao hàm
những nội dung chính xác. Có thể phân chia kinh tế ngoài quốc doanh thành
công ty trách nhiện hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã.
Có quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân chỉ là một. Có
quan điểm lại đồng nhất kinh tế tư nhân với khu vực ngoài quốc doanh.
Tuy nhiên, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
Sản Việt Nam thì nền kinh tế quốc dân ở nước ta hiện nay gồm sáu thành phần
kinh tế. Trong sáu thành phần kinh tế đó có thể hiểu kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân là thuộc về kinh tế tư nhân. Ngoài ra nó có thể bao gồm
cả kinh tế có 100% vốn nước ngoài hoặc các doanh nghiệp mà tư nhân trong
nước hoặc ngoài nước nắm trên 50% vốn đầu tư.
Như vậy, có thể hiểu kinh tế tư nhân bao gồm: kinh tế tư bản tư nhân
(doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thuộc
thành phần kinh tế tư bản tư nhân) và kinh tế cá thể, tiểu chủ (kể cả kinh tế hộ và
trang trại).
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao
động làm thuê. Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thành
phần kinh tế này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản
xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như giải quyết các vấn đề xã hội. Đặc điểm của
thành phần kinh tế này là vốn do một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư
để sản xuất kinh doanh. Thành phần kinh tế này thường đầu tư vào những ngành
vốn ít mà cho lợi nhuận cao. Do vậy cần khẳng định nhất quán chủ trương phát
triển kinh tế tư bản tư nhân, tạo sự bình đẳng cho nó đối với các thành phần kinh
tế khác, khuyến khích tạo điều kiện cho nó phát triển.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế sở hữu nhỏ mà thu nhập dựa hoàn
toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình

thức kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa
vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. Thành phần kinh tế này giữ
một vị trí quan trọng trong nhiều ngành, nghề, có điều kiện phát huy nhanh và
hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, người lao
động. Do vậy cần phải phát triển mạnh thành phần kinh tế này để góp phần đạt
được mục tiêu tạo ra nhiều của cải vật chất, giải quyết việc làm cho xã hội.
1.2 Phạm vi của kinh tế tư nhân ở Việt Nam :
1.2.1 Quan điểm của Đảng về sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội:
2
Sở hữu về tư liệu sản xuất là một trong những vấn đề không phải chỉ của
riêng nước ta mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới. Nó là một vấn đề cơ bản
của hệ thống quan hệ sản xuất của các chế độ kinh tế xã hội. Mỗi một chế độ xã
hội được xây dựng trên cơ sở một chế độ sở hữu thống trị. Đối với nước ta, để
thực hiện nhất quán chính sách kinh thế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tất yếu phải xác lập được một chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
phản ánh đúng bản chất kinh tế của xã hội mới. Do đó xây dựng một chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất phát triển từ thấp đến cao theo hướng dần dần làm sở
hữu xã hội chủ nghĩa giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân là một trong
những nhiệm vụ then chốt và phải được tiến hành trong suốt thời kỳ quá độ.
Nước ta lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Ở nước ta đã xuất hiện tiền đề về chính trị cho sự ra đời
chủ nghĩa xã hội nhưng chưa xuất hiện tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời
chế độ kinh tế, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế còn tồn tại nhiều
loại hình và hình thức sở hữu, trong đó sở hữu tư nhân còn tạo địa bàn cho lực
lượng sản xuất phát triển, đang là động lực để chuyển sản xuất nhỏ sang sản
xuất lớn.
Sau khi giành chính quyền, trước thực trạng một nền kinh tế lạc hậu,
chúng ta dã dùng sức mạnh chính trị và tư tưởng để xoá bỏ nhanh chóng chế độ
tư hữu, chuyển trực tiếp sang chế độ công hữu dưới hai hình thức: toàn dân và

tập thể. Cách làm này trái với tiến trình tự nhiên của sự thay đổi quan hệ sở hữu,
trái với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Sở dĩ có quan điểm như vậy là do chúng ta quan niệm sở hữu tư
nhân là mặt đối lập với sở hữu xã hội chủ nghĩa, đối lập với chế độ công hữu, sự
tồn tại của sở hữu tư nhân sẽ làm suy yếu chế độ công hữu. Chính điều này đã
phản ánh việc hiểu tư tưởng của Mác về vấn đề sở hữu của ta là chưa đúng.
Chúng ta đã không xác định đúng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa chế độ sở hữu với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, tách quan hệ sản xuất ra khỏi mối quan hệ biên chứng
với lực lượng sản xuất. Áp dụng quan điểm của Mác và Ăng ghen "những người
cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất là: xoá bỏ
chế độ tư hữu" (Tuyên ngôn Đảng Cộng sản - 1848) nóng vội.
Trên thực tế, nền kinh tế tập trung đã bộc lộ nhiều nhược điểm: kém hiệu
quả, không thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nước ta,
không phát huy được tiềm năng vốn có, không khuyến khích người lao động làm
việc. Điều đó đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội vào những năm 80.
Do vậy, đổi mới toàn diện đất nước là tất yếu. Phải xem xét lại toàn bộ những lý
luận trước đây đặc biệt là quan điểm về sở hữu, đây là cơ sở cho việc xác định
đường lối và các chính sách kinh tế.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đặc biệt là từ năm
1989 đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, ra đời nhiều
3
thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh doanh bao gồm cả
quốc doanh, tập thể, tư nhân xuất hiện và cạnh tranh nhau trên thị trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định hiện nay ở nước ta
tồn tại ba loại hình sở hữu, trong mỗi loại có nhiều hình thức khác nhau. Đó là:
sở hữu công cộng bao gồm sở hữu toàn dân, nhà nước, tập thể; loại hình tư hữu;
loại hình sở hữu hỗn hợp.
Sở hữu toàn dân là mọi tài sản quốc gia thuộc sở hữu của nhân dân, nhà
nước là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân, đóng vai trò người

chủ sở hữu những đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, có quyền và có trách hiệm
quản lý, chi phối toàn bộ tài sản quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo
tồn và phát triển nguồn tài sản đó.
Sở hữu tập thể là sở hữu của một tập thể người lao động. Đối tượng của
nó là phần tài sản do quá trình tích luỹ chung tạo nên, hoặc phần tài sản được
cho, biếu, tặng. Những tài sản này có thể tồn tại dưới hình thức hiện vật hoặc
hình thức giá trị.
Sở hữu tư nhân đó là hình thức sở hữu của các nhà sản xuất tư nhân (lớn,
nhỏ) đối với tư liệu sản xuất, tiền vốn, ... bỏ vào sản xuất kinh doanh. Trong
hình thức sở hữu này, các quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền chi phối, ... về
cơ bản thuộc một chủ thể. Nhà nước chủ trương tôn trọng và bảo vệ quyền sở
hữu những tài sản và thu nhập hợp pháp của các chủ sở hữu tư nhân.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta còn tồn tại
đa dạng các hình thức sở hữu trong đó sở hữu toàn dân, nhà nước và tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
1.2.2 Tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần :
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu xã hội vừa
bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm những
yếu tố xã hội mới ra đời, đang lớn lên từng bước nhưng chưa giành toàn thắng.
Điều đó có nghĩa là nó mang tính chất quá độ. Lênin viết: "danh từ quá độ có
nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế đô hiện nay
có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có" (Lênin toàn tập, Nhà
xuất bản tiền bộ, 1978).
Lênin cũng chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội phổ biến có ba
thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và
kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta
khẳng định ở nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước; kinh
4

tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và các tài sản
thuộc sở hữu của nhà nước, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp cổ
phần hay liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn bẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng
dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền
tảng cho chế độ xã hôi mới.
Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động,
nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết
có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Kinh tế tập
thể phát triển rộng rãi trong các ngành nghề, nó giữ vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể sẽ trở thành nền tảng của nền kinh
tế.
Kinh tế tư bản nhà nước là những đơn vị kinh tế hình thành do sự liên
doanh giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa vơí tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư
bản tư nhân nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước ra đời do nhà nước xã hội chủ
nghĩa góp vốn, cổ phần hoặc cho thuê tài sản hoặc liên doanh với tư nhân trong
nước và ngoài nước. Kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản
xuất lớn đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta khẳng định: Kinh tế tư bản nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ,
khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản thân họ cũng như
của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Kinh tế cá thể tiểu chủ bao gồm nhưng đơn vị kinh tế và những hoạt động
kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Kinh tế cá thể,
tiểu chủ dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động
của bản thân gia đình.

Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một, hoặc một số
nàh tư bản góp lại để sản xuất kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư
bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc
lột lao động làm thuê.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là các đơn vị kinh tế do các nhà tư bản
nước ngoài bỏ 100% vốn hay góp vốn với các đơn vị kinh tế trong nước để sản
xuất kinh doanh.
Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta là tất yếu. Bởi vì:
5
- Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và
bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đòi hỏi khách quan là phải
từng bước xây dựng cơ sở kinh tế xã hội của chế độ mới, chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu nhà nước xã hội chủ
nghĩa và sở hữu tập thể. Kinh tế nàh nước và kinh tế tập thể hình thành trên chế
độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
- Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, do tính chất
quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội không qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, nươc ta tất yếu còn tồn tại kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế cá thể tiểu chủ.
1.2.3 Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế:
Sự phát triển của kinh tế tư nhân là kết quả thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế tư nhân đã huy động và khai thác một phần tiềm năng về vốn,
kinh nghiệm, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, thông tin... vào phát triển
kinh tế đất nước.
Sự phát triển kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng để tạo thêm công ăn
việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
Sự phát triển kinh tế tư nhân góp phần tăng thu ngân sách, góp phần gia
tăng tổng sản phẩm quốc dân.

Phát triển kinh tế tư nhân thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kinh tế tư nhân phát triển thúc đẩy cạnh tranh, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá
phát triển.

6
PHẦN 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT
NAM
2.1 Tình hình hoạt động của kinh tế tư nhân trước đổi mới (1954 – 1986):
2.1.1 Giai đoạn từ năm 1955 đến 1975:
Trong giai đoạn đầu khi miền Bắc giải phóng và khôi phục kinh tế sau
chiến tranh (1955 - 1957), trong nhận thức đã đặt vấn đề "không thể dung thứ sự
tồn tại của kinh tế tư doanh" (nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 16, tháng
4/1945). Nhưng trong thực tế vẫn "hướng dẫn, khuyến khích, giúp đỡ kinh
doanh tư nhân của tư sản dân tộc. Tư sản ngoại quốc cũng được chiếu cố một
cách đích đáng" (Báo cáo tại kỳ họp quốc hội lần thứ 4, tháng 3/1955). Ở nông
thôn sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất có 2 triệu hộ gồm 9,5 triệu người
được chia ruộng đất, điều này đã tạo điều kiện cho kinh tế cá thể phát triển. Các
cơ sở công nghiệp và thủ công nghiệp cũng tăng, kéo theo đó là sự gia tăng về
nhu cầu sử dụng lao động. Trong lĩnh vực thương nghiệp, kinh tế tư nhân giảm
do bị hạn chế. Năm 1955 tư thương chiếm 71,9% tổng doanh số bán buôn và
79,7% tổng doanh số bán lẻ, đến năm 1957 chỉ còn 47,3% tổng doanh số bán
buôn và 61,8% tổng doanh số bán lẻ. Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương,
năm 1955 nhà nước nắm 77% kim ngạch ngoại thương, năm 1957 tăng lên 95%.
Thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế (1958 - 1960), kinh tế tư nhân là đối
tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai đoạn này thiết lập chế độ công hữu
nên mọi hình thức sở hữu cá thể, tư nhân về tư liệu sản xuất bị xoá bỏ. Đến cuối
năm 1960 công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gần như đã hoàn thành
85,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp bâc thấp (hợp tác xã nông

nghiệp bâc thấp là hợp tác xã có quy mô nhỏ, diện tích đất trung bình là 33 ha
ruộng, và 68 hộ trong 1 hợp tác xã), gần 100% số hộ tư sản thuộc diện cải tạo đã
được cải tạo, 87,9% số thợ thủ công đi vào con đường làm ăn tập thể, 45,6% số
tiểu thương vào hợp tác xã mua bán, chuyển được 11.000 người sang sản xuất
và một số ít được tuyển vào làm nhân viên cho mậu dịch quốc doanh. Nhà nước
nắm 100% ngoại thương. Việc tiến hành cải tạo vận dung một cách chủ quan
duy ý chí đã xoá bỏ gần như hoàn toàn kinh tế tư nhân.
Trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thực hiện nhất quán
chủ trương xoá bỏ kinh tế tư nhân nên trong giai đoạn này kinh tế tư nhân ngày
càng bị thu hẹp. Cùng với đó là sự gia tăng số hộ nông dân vào hợp tác xã từ
85,8% năm 1960 lên 90,1% năm 1965; số hợp tác xã bậc cao tăng từ 10,6% năm
1960 lên 58% năm 1964. Quy mô hợp tác xã cũng lớn hơn, trung bình mỗi hợp
tác xã có 85 hộ và 49 ha.
Thời kỳ kháng chiễn chống Mĩ mặc dù chiến tranh ác liệt nhưng công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn giành được những thành tựu to lớn. Số hợp tác
7
xã bậc cao tăng lên 77% vào năm 1967, số hộ nông dân vào hợp tác xã nông
nghiệp tăng lên 95,2% vào năm 1975.
Tóm lại, trong cả giai đoạn này kinh tế tư nhân đã bị thủ tiêu thay vào đó
là sự gia tăng của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
2.1.2 Giai đoạn từ 1975 đến 1985:
Trong chiến tranh, kinh tế quốc doanh và tập thể đã phát huy được sức
mạnh của nó, góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của toàn dân tộc. Nhưng khi
hoà bình lập lại nó lại bộc lộ những yếu điểm của nó. Những yếu điểm này xuất
phát từ sự phát triển không đồng đều giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Lực lượng sản xuất của ta sau chiến tranh là thấp kém, đi lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền kinh tế nông dân lạc hậu. Quan hệ sản xuất phát triển cao, nó
không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, cản trở lực lượng sản xuất
phát triển. Trên thực tế mô hình tập thể hoá nông nghiệp không còn phù hợp
thay vào đó là chỉ thị 100 về khoán sản phẩm (1/1981 Ban Bí thư trung ương

Đảng). Hình thức này đã gắn với lợi ích cá nhân của người lao động nhưng dựa
trên cơ sở kinh tế tập thể chưa thừa nhận kinh tế cá thể. Sau khi ra chỉ thị này thì
có tới 80% tổng số hợp tác xã đã khoán trắng cho nông dân.
Trong lĩnh vực thương nghiệp vẫn chủ trương "xoá bỏ thương nghiệp tư
bản tư doanh", "tổ chức lại thương nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thương
sang sản xuất". Đến cuối năm 1978 có khoảng 9 vạn người buôn bán nhỏ được
chuyển sang sản xuất và 15.000 người được tuyển dụng vào thương nghiệp quốc
doanh.
Trong giai đoạn này nền kinh tế vẫn lâm vào tình trạng trì trệ, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó nghị quyết Hội nghị TW lần
thứ sáu (khoá IV) đã hé mở tư duy mới, đặt ra nhiệm vụ phải tận dụng các thành
phần kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân
được kinh doanh hợp pháp. Nhưng do sự quản lý của nhà nước non kém, tác
động vào thị trường nên dã nảy sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực, làm cho lưu
thông trở nên rối ren nên lại nhấn mạnh xoá bỏ tư thương. Chính sự không nhất
quán như vậy nên kinh tế tư nhân trong thời kì này cũng chưa phát triển.
2.2 Tình hình hoạt động của kinh tế tư nhân sau đổi mới (1986 đến nay):
2.2.1 Theo cơ cấu của nền kinh tế:
2.2.1.1 Nông nghiệp:
Cùng với sự đổi mới của kinh tế hợp tác, các văn bản luật ban hành vào
đầu năm 90 đã tác động rất mạnh vào khu vực nông nghiệp. Kinh tế hộ gia đình
nông dân, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có tính chất
công nghiệp ở nông thôn phát triển rất mạnh tạo nên sự thay đổi to lớn.
8
Ngành nghề của hộ Số lượng Tỷ trọng (%)
Nông nghiệp 9.528.896 79,58
Lâm nghiệp 18.156 0,15
Thủy sản 229.909 1,92
Công nghiệp 160.370 1,34
Xây dựng 31.914 0,27

Thương nghiệp 384.272 3,21
Dịch vụ 14.165 1,18
Ngành nghề khác 1.479.341 12,35
Trong số các ngành nghề hoạt động của các hộ thì nhóm hộ nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn nhất 79,58%, nếu bao hàm các ngành nghề nông, lâm, ngư
nghiệp thì nó chiếm tỷ trong khá cao 81,65%.
Nếu xét theo cơ cấu thành phần thì số hộ xã viên là 7.078.179 hộ
(51,11%); hộ cá thể là 33.333.788 hộ (27,84%); hộ nông dân chuyên làm thuê là
672.319 hộ (5,61%).
Kinh tế hộ tư nhân, cá thể trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao và thực
sự nó là một lực lượng kinh tế mạnh. Chỉ trong một thời gian ngắn các hộ nông
dân đã mua sắm rất nhiếu trang thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nông nghiệp . Các hộ đã mua thêm 109.483 máy phát điện, 9.088 động
cơ điện, 36.011 động cơ chạy xăng, 97.808 máy tuốt lúa, 28.643 máy kéo lớn,
75.268 máy kéo nhỏ, 537.809 máy bơm, 106.305 máy xay,15.157 máy nghiền
thức ăn gia súc, 11.392 máy cưa. Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn thì nông dân nước ta đã bỏ vốn lập trên 110.000 trang trại trong đó
riêng các tỉnh phía Bắc là 67.000 trang trại, vốn bình quân là 291,43 triệu đồng,
các trang trại đã tạo ra một lượng hàng hoá lớn trung bình lượng hàng hoá cung
cấp của một trang trại là 91,449 triệu đồng, chiếm 86,74% tỉ trọng hàng hoá chủ
yếu là các sản phẩm nông nghiệp.
Như vậy, qua đây ta cũng thấy được khu vực kinh tế tư nhân trong nông
nghiệp đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tạo ra 1/4 tổng sản lượng,
30% kim ngạch xuất khẩu. Theo tổng cục thống kê thì năm 1999 nông nghiệp
chiếm tỉ trọng 24% GDP.
2.2.1.2 Công nghiệp:
9
Sau đổi mới kinh tế tư nhân cũng đã thâm nhập vào lĩnh vực công nghiệp
đóng góp vào tổng sản lượng quốc dân năm 1990 là 37%, năm 2000 là 58%,
trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiểm tỷ trọng lớn 35,2%.

Ngoài ra còn phải kể đến sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước,
năm 1999 có 600.000 doanh nghiệp hộ gia đình nhỏ hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp chế tạo, 5.600 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo ra 10% GDP của
ngành công nghiệp chế tạo.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, sự phát triển khu vực kinh tế tư
nhân trong hoạt động công nghiệp cũng phát triển, đóng góp vào sự phát triển
kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và nông thôn nói riêng. Theo thống kê
của Tổng cục thống kê thì trong những năm gần đây trong nông thôn cả nước có
khoảng18% hộ nông dân tham gia hoạt động nông nghiệp thông qua sở hữu hơn
một nửa hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng thuộc kinh tế tư nhân .
2.2.1.3 Thương mại và dịch vụ:
Đây là lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhất. Số lượng hộ
tham gia lĩnh vực này ngày càng gia tăng, năm 1996 có 1.102.619 hộ, năm 1997
là 1.022.385 hộ, năm 1998 là 1.058.542 hộ, năm 1999 là 1.088.606 hộ, năm
2000 là 1.109.293 hộ.
2.2.2 Theo loại hình doanh nghiệp:
2.2.2.1 Hộ kinh doanh cá thể:
Năm 2000, cả nước có 9.793.878 hộ kinh doanh cá thể (20.222.442 lao
động). Trong đó, có 2.137.713 hộ kinh doanh phi nông nghiệp, chiếm 21,83%
tổng số hộ kinh doanh cá thể (3.802.057 lao động, chiếm 18,9% tổng số lao
động của các hộ kinh doanh cá thể); 7.656.165 hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xă,
chiếm 78,17% tổng số hộ kinh doanh cá thể (16.320.385) lao động, chiếm
81,1% tổng số lao động của các hộ kinh doanh cá thể.
2.2.2.2 Hộ kinh doanh phi nông nghiệp:
Năm 2000, có 2.137.713 hộ kinh doanh cá thể, tăng 6,02% so với năm
1996; bình quân mỗi năm tăng thêm được hơn 30 nghìn hộ, tốc độ tăng 4,47%
số hộ/ năm; theo Tổng cục Thuế, số kinh doanh có môn bài là 1,5 triệu hộ (trong
đó có 1,2 - 1,3 triệu hộ nộp thuế thường xuyên).
Số hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm số đông nhất (số hộ sản xuất

công nghiệp chiếm 30,21%, xây dựng chiếm 0,81%, giao thông vận tải chiếm
11,63%, thươngmại, dịch vụ chiếm 51,89%, các hoạt động khác chiếm 5,46%
trong tổng số hộ kinh doanh cá thể).
10
Hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp phát triển rộng khắp cả thành thị và
nông thôn trong cả nước, tập trung cao ở một số địa phương. Địa phương có số
hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp nhiều nhất nước là: thành phố Hồ Chí
Minh có 184.463 hộ, Hà Tây có 97.280 hộ, Thanh Hoá có 96.777 hộ, Đồng
Tháp có 95.049 hộ, thành phố Hà Nội có 92.302 hộ. Tổng cộng là 565.871 hộ,
chiếm 26,4% cả nước. Năm địa phương có số hộ ít nhất là: Bắc Kạn có 4.454
hộ, Hà Giang có 7.575 hộ, Lai Châu có 8.201 hộ, Kon Tum có 8.439 hộ, Lào
Cai có 9.029 hộ. Tổng cộng là 37.698, chiếm 1,8% cả nước (thời điểm thống kê
31/12/2000).
2.2.2.3 Hộ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp:
Trước đây hầu hết các hộ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tham gia hợp
tác xã. Hiện nay số hộ ngoài hợp tác xã trong sản xuất nông nghiệp là 7.656.165
hộ, chiếm 62,7% tổng số hộ nông nghiệp. Hộ sản xuất, kinh doanh bao gồm cả
nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề khác trong nông nghiệp. Tổng số có
12.22.302 hộ; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp: 11.780.184 hộ, ngành nghề khác
trong nông nghiệp (là diêm, một số dịch vụ trực tiếp và tận thu sản phẩm phụ
trong nông, lâm, ngư nghiệp không tính vào phi nông nghiệp ...) 440.118 hộ. Số
hộ trong hợp tác xã chiếm 37,3%. Số hộ ngoài hợp tác xã chiếm 62,7%. Trong
đó, hộ nông nghiệp chiếm 89,2%, hộ lâm nghiệp chiếm 0,5%, hộ ngư nghiệp
chiếm 4,6%, hộ ngành nghề khác trong nông nghiệp chiếm 5,7%. Một số lớn các
hộ tham gia các tổ hợp tác.
Số hộ phát triển mạnh kinh tế hàng hoá, tích tụ vốn nhanh dần và hình
thành các trang trại, tính đến hết sáu tháng đầu năm cả nước đã có 60.758 trang
trại, so với năm 1999 tăng 15.836 trang tại, so với năm 2000 tăng 5.000; trong
đó có 48,3% trồng cây hàng năm, 20,4% trồng cây lâu năm, 2,9% chăn nuôi,
3,5% lâm nghiệp, 20,8% nuôi trồng thuỷ sản, 4,1% sản xuất, kinh doanh tổng

hợp.
2.2.2.4 Doanh nghiệp tư nhân:
Số lượng doanh nghiệp tăng rất nhanh, đặc biệt tăng vượt bậc từ khi thực
hiện Luật doanh nghiệp. Số đăng ký kinh doanh năm 1991 là 132 doanh nghiệp,
đến cuối năm 1999 tổng cộng là 42.393 doanh nghiệp. Tính từ đầu năm 2000 tới
hết tháng 10/2001, số đăng ký kinh doanh là 24.387 doanh nghiệp. Thành phố
Hà Nội: chỉ tính riêng từ 1/1/2000 đến 30/9/2001 có 4.711 doanh nghiệp của tư
nhân dăng ký kinh doanh, bằng 105,8% số doanh nghiệp đăng ký của 8 năm
trước cộng lại. Thành phố Hồ Chí Minh: số doanh nghiệp của tư nhân đăng ký
kinh doanh năm 200 và 6 tháng đầu năm 2001 bằng 1,78 lần tổng doanh nghiệp
đăng ký 4 năm trước đó cộng lại.
Tính đến 31/10/2001, cá nước có 66.780 doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh. Trong đó doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ
trọng lớn nhất (doanh nghiệp tư nhân chiếm 55,76%, công ty trách nhiệm hữu
11
hạn chiếm 38,68%, công ty cổ phần chiếm 2,55%, công ty hợp danh chiếm
0,01%). Theo Tổng cục Thuế, số đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế là
59.894 doanh nghiệp (89,7% tổng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh), số
thường xuyên kê khai thuế chiếm 85% số đăng ký thuế (76,2% số doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh). Số không tìm thấy địa chỉ chiếm 5,72% tổng số doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh. Số doanh nghiệp tập trung nhiều ở một số địa
phương. Năm địa phương có số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh cao nhất nước
(thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, Đồng Nai, Tiền Giang, Bình
Dương) chiếm 53,3% cả nước; năm địa phương có số doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh ít nhất (Bắc Kạn, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Bắc Giang) tổng cộng
chiếm 0,5% cả nước.
Qua thực tế thống kê 33.720 doanh nghiệp trong năm 2000, số doanh
nghiệp kinh doanh thương mại dịch vụ chiếm đông nhất 51,9%, doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp chiếm 20,8%, xây dựng chiếm 8,3%, giao thông vận tải
chiếm 2,5%, các hoạt động phi nông nghiệp khác chiếm 4,1%, nông, lâm, ngư

nghiệp chiềm 12,4% (nông nghiệp 0,8%, lâm nghiệp 0,9%, ngư nghiệp 10,7%)
trong tổng số doanh nghiệp.
2.3 Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân cho nền kinh tế:
2.3.1 Tạo thêm nhiều việc làm:
Năm 2000, lao động của khu vực kinh tế tư nhân là 21.017.326 người
chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. Trong đó, lao
động trong hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn lao động trong doanh nghiệp,
lao động trong doanh nghiệp tuy số lượng còn nhỏ nhưng tăng rất nhanh.
Số liệu về lao động của khu vực kinh tế tư nhân
Đvt 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số Người 3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
Tỷ lệ so với tổng
lao động xã hội
% 11,2 10,3 10,3 10,9 12
Doanh nghiệp của
tư nhân
DN 354.328 395.705 453.907 539.533 841.787
Công nghiệp DN 233.078 252.657 273.819 322.496 498.847
Thương nghiệp DN 60.936 63.050 62.470 96.720 151.433
Các ngành khác DN 60.314 79.998 99.618 120.317 191.507
Hộ cá thể DN 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
Công nghiệp DN 1.524.708 1.403.205 1.350.152 4.646.013 1.622.381
12

×