Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Đề tài Kinh tế phát triển: Phân tích quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế (theo các mô hình tăng trưởng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.11 KB, 32 trang )

CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 2
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ .................................................................................................................................... 3
1.1. Tăng trưởng kinh tế........................................................................................................... 3
1.2. Các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ................................................................. 5
1.3. Cơ chế tác động của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế .................................... 7
1.4. Xác định ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng – Hàm sản xuất
Coob – Douglas ............................................................................................................................ 8
PHẦN 2: NHỮNG THAY ĐỔI VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THEO CÁC MƠ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ............... 10
2.1. Các mơ hình tăng trưởng kinh tế ............................................................................................ 10
2.1.1. Mơ hình tăng trưởng kinh tế của David Ricardo ................................................................. 10
2.1.2. Mơ hình tăng trưởng Harrod – Domar ................................................................................. 14
2.1.3. Mơ hình tăng trưởng Solow ................................................................................................ 16
2.1.4. Mơ hình tăng trưởng nội sinh .............................................................................................. 21
2.2. Phân tích những thay đổi về vai trị của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế theo
các mơ hình tăng trưởng kinh tế.................................................................................................... 25
PHẦN 3: VẬN DỤNG CÁC MƠ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................ 30
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 32

1

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN



LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu của mọi quốc gia trong mọi thời đại. Tăng
trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định phúc lợi kinh tế của người dân, mỗi quốc gia và
con đường tăng trưởng kinh tế từ lâu đã trở thành một trong những câu hỏi trung tâm của kinh tế học.
Có lẽ một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất và dai dẳng nhất trong kinh tế học là
tìm hiểu các nhân tố khiến nền kinh tế tăng trưởng. Trong những năm qua, đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố quyết định tăng trưởng.
Từ những ý niệm, tư tưởng đầu tiên của các nhà kinh tế cổ điển, đến các mơ hình nội sinh vô
cùng đa dạng, phong phú ngày nay, lý thuyết và mơ hình tăng trưởng kinh tế đã trải qua những bước
tiến lớn lao: quan điểm về nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế thay đổi theo thời gian, với xu hướng
ngày càng xét đầy đủ và rõ ràng hơn những lực lượng chi phối sự tăng trưởng.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, chúng tơi đã hồn thành tiểu luận với đề tài: “Phân
tích q trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh
tế (theo các mơ hình tăng trưởng)”.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của tiểu luận gồm ba phần với những
nội dung chính như sau:
Phần 1: Tổng quan về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
Phần 2: Những thay đổi về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế theo
các mô hình tăng trưởng kinh tế
Phần 3: Vận dụng các mơ hình tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam hiện
Do còn những hạn chế khách quan và chủ quan nên bài tiểu luận của chúng tơi khó tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được tiếp thu những ý kiến đóng góp của cơ giáo và các bạn.

2

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN


PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng
quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình qn trên đầu người (PCI) trong một thời
gian nhất định.
Tăng trưởng và phát triển
Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm
quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per
Capita Income, PCI).
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm trong nước
là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi
một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản
phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường
là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập rịng.
Tổng sản phẩm bình qn đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập
bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người
trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy
vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu
người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế
cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi
về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ).
Phát triển kinh tế là một q trình hồn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi
trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ

hạnh phúc hơn.
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng
kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại
so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể
hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng tốn học, sẽ có cơng thức:
y = dY/Y × 100(%),
Trong đó, Y là qui mơ của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng.
3

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Cịn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có
tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế
hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo trình dộ phát triển
nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu
chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ.
Nhưng tăng trưởng kinh tế khơng phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư khác
nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa nơng thơn và thành thị có thể
tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống
có thể khơng tăng, mơi trường có thể bị hủy hoại, tài ngun bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực
có thể sử dụng khơng hiệu quả, lãng phí.
1.1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế.
Mơ hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R,
Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản
xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng
giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nong phẩm tăng, tiền
lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản cơng nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy
để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm
lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mơ hình này khơng giải thích được nguồn gốc
của tăng trưởng.
Mơ hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông nghiệp và
công nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và
khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mơ hình hai khu vực là mơ hình
Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima.
Mơ hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa
vào sản xuất tăng lên.
Mơ hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng
thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn khơng ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng khơng (0)).
Mơ hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ cơng nghệ.
Mơ hình Sung Sang Park nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư
con người.
Mơ hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu
vào vốn (K) và lao động (L).
Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh
tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều khơng coi trọng vai
trị của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế.
4


Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mơ hình Harrod Domar. Mơ hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế khơng nhất
thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K,
capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng
thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng khơng cân bằng thì sẽ càng ngày càng
khơng cân bằng (mất ổn định kinh tế).
Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mơ hình của mình dựa trên hệ giả
thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái tồn dụng lao động.
Mơ hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng
mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng khơng cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở
về trạng thái cân bằng.
1.2. Các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển,
những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn
bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công
nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến
kết quả tương ứng.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng mà cụ thể là mức thu nhập của nền kinh tế (sản lượng đầu ra) với
các nhân tố kinh tế trực tiếp tác động đến tăng trưởng (các yếu tố đầu vào) thường được mô tả dưới
dạng hàm sản xuất tổng quát:
Y = F (Xi)
Trong đó, Y là giá trị đầu ra của nền kinh tế và Xi là giá trị những biến số đầu vào có liên quan
đến tổng cung. Thơng thường và cũng với ý nghĩa cổ điển, nói đến giá trị các biến số đầu vào tác động
đến tăng trưởng kinh tế là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu là: vốn (K), lao động (L), tài nguyên,đất
đai (R) và công nghệ kỹ thuật (K). Hàn sản xuất tổng quát được mô tả như dưới đây:
1.2.1. Vốn (K)
Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Để có được vốn,

phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng
cao và bền vững. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mơ có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra
ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền (giá trị), nó là tồn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của
nền kinh tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang bị được sử dụng như những yếu tố
đầu vào trong sản xuất. ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường
chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều rộng. Tuy vậy tác động của yếu tố
này đang có xu hướng giảm dần và được thay thế bằng các yếu tố khác.
1.2.2. Lao động (L)
Lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng,
kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết
các yếu tố khác như tư bản, ngun vật liệu, cơng nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng
nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, ngun vật liệu hay
cơng nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa,
5

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế
giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một
lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực
của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh
chóng sau năm 1945. Nếu khơng có số vốn nhân lực này thì sẽ khơng bao giờ có sự thần kỳ của nước
Đức thời hậu chiến."
Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy mơ,
số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực cịn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các
nước này còn thấp.

1.2.3. Tài nguyên, đất đai (R)
Tài nguyên, đất đai được coi là yếu tố đầu vào của sản xuất, những tài nguyên quan trọng nhất
là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Đất đai là yếu tố quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc
các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên từ trong lịng đất, khơng khí, từ rừng và biển
được chia ra làm: tài nguyên vô hạn và khơng thể thay thế, tài ngun có thể tái tạo và tài nguyên
không thể tái tạo. Các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng
đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là đối với các nước đang phát triển; một số tài nguyên quý hiếm là
những đầu vào cần thiết cho sản xuất song lại có hạn khơng thay thế được và khơng thể tái tạo được
hoặc nếu tái tạo được thì phải có thời gian và phải có chi phí tương đương với q trình tạo sản phẩm
mới. Từ những tính chất đó, các tài nguyên được đánh giá về mặt kinh tế và được tính giá trị như các
đầu vào khác trong quá trình sử dụng. Nguồn tài nguyên phong phú hay tiết kiệm nguồn tài nguyên
trong sử dụng cũng có một ý nghĩa tương đương như việc tạo ra một giá trị gia tăng so với chi phí đầu
vào khác để tạo ra nó.
Trong nền kinh tế hiện đại người ta đã tìm cách thay thế để khắc phục mức độ khan hiếm của
tài nguyên và đất đai trong quá trình tăng trưởng kinh tế, hơn nữa sản phẩm quốc dân và mức tăng của
nó khơng phụ thuộc nhiều vào dung lượng tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Tuy vậy, tài nguyên thiên
nhiên và đất đai vẫn là nhân tố khơng thể thiếu được của nhiều q trình sản xuất, nhất là các nước
đang phát triển.
1.2.4. Công nghệ kỹ thuật (T)
Công nghệ kỹ thuật được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng trong
điều kiện hiện đại. Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép
giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình khơng ngừng
thay đổi cơng nghệ sản xuất. Cơng nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể
tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là q trình sản xuất có hiệu quả hơn.
Yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: thứ nhất, đó là những thành tựu
kiến thức tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải
tiến sản phẩm, quy trình cơng nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả
nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu tố cơng
nghệ hiểu theo nghĩa tồn diện như thế đã được K. Marx xem như là "chiếc đũa thần tăng thêm sự giầu

có của cải xã hội". Cịn Solow thì cho rằng "tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn
6

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật", Kuznets hay Samuelson đều khẳng định: công nghệ kỹ thuật là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững.
Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh
học, cơng nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất.
Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tịi, nghiên cứu; cơng nghệ có phát triển
và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho
phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
1.2.5. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
Hiện nay, các mơ hình tăng trưởng hiện đại thường khơng nói đến nhân tố tài nguyên, đất đai
với tư cách là biến số của hàm tăng trưởng kinh tế, họ cho rằng đất đai là yếu tố cố định còn tài ngun
thì có xu hướng giảm dần trong q trình khai thác. Mặt khác, những yếu tố tài nguyên và đất đai đang
được sử dụng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K). Yếu tố công nghệ kỹ thuật trong hàm
sản xuất truyền thống hiện nay cũng được mở rộng ra theo nghĩa là các yếu tố cịn lại ngồi vốn và lao
động tác động đến tăng trưởng kinh tế, gọi là năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP- total factor
producctivity). Năng suất nhân tố tổng hợp là:
(i) hiệu quả sử dụng các thành tựu của tiến bộ công nghệ, kết quả nghiên cứu triển khai khoa
học kỹ thuật vào hoạt động kinh tế;
(ii) tác động của các yếu tố thể chế, chính sách, quá trình mở cửa, hội nhập, vốn nhân lực;
(iii) tất cả tạo nên hiệu quả, năng suất sử dụng lao động cao hơn và tạo nên “phần dư” còn lại
của thu nhập sau khi loại trừ tác dộng của yếu tố vốn và lao động.
Như vậy, theo quan điểm hiện đại, ba yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế được
nhấn mạnh là: vốn, lao động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP).
Y = F(K,L,TFP)

Vốn (K) và lao động (L) được xem như là các yếu tố vật chất có thể lượng hố được mức độ tác
động của nó đến tăng trưởng kinh tế và được coi là những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng. TFP
được coi là yếu tố phi vật chất tác động đến tăng trưởng, được coi là yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu.
Ngày nay, tác động của thể chế, của chính sách mở cửa, hội nhập hay phát triển của vốn nhân lực giúp
cho các nước đang phát triển tiếp cận được nhanh chóng những cơng nghệ hàng đầu thế giới đã tạo nên
"sự rượt đuổi dựa trên năng suất" và sự đóng góp của TFP ngày càng cao trong qúa trình thực hiện
mục tiêu tăng trưởng nhanh của các nước trên thế giới.
1.3. Cơ chế tác động của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế
Cơ chế tác động của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế được mô tả như sau:
PL
AS2 AS0 AS1

PL2
PL0
PL1

E2
E0
E1

Y2 Y0
Y1
Y
Mô hình AD - AS với sự tác động của các yếu tố nguồn lực
7

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Theo sơ đồ trên: nếu điểm cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E0 với mức thu nhập Y0 và mức
giá chung LP0,, viết tắt là E0(Y0, PL0). Vì một lý do nào đó mà một trong các yếu tố nguồn lực thay
đổi theo chiều hướng tăng, ví dụ như: sự gia tăng quy mô vốn sản xuất, tăng công suất hoạt động máy
móc thiết bị (thay đổi K); gia tăng quy mơ lực lượng lao động, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động, nâng cao chất lượng lao động (thay đổi L);v.v...thì tổng cung sẽ tăng lên và đường AS0 dịch
chuyển xuống dưới về phía trái sang đường AS1. Với giả thiết các yếu tố khác không đổi, điểm cân
bằng E0 sẽ dịch xuống đường E1 (Y1> Y0, PL1< PL0) tức là mức thu nhập tăng lên và mức giá cả chung
giảm đi. Một trường hợp ngược lại, vì một lý do nào đó mà một trong các yếu tố của tổng cung thay
đổi theo chiều hướng giảm, điều đó làm cho tổng cung sẽ giảm và đường AS0 dịch chuyển sang phải
lên trên đến AS2. Với giả thiết các yếu tố khác không đổi điểm cần bằng sẽ dịch chuyển lên điểm E2
với Y2 nhỏ hơn Y0 và PL2 lớn hơn PL0.
Theo cơ chế phân tích trên, sự thay đổi của các yếu tố nguồn lực tham gia trong hoạt động kinh
tế, sẽ làm cho thu nhập và mức giá cả chung sẽ thay đổi đông biến (với giả thiết các yếu tố khác khơng
đổi). Nó khác với cơ chế tác động đến tăng trưởng khi đứng trên cơ chế gia tăng tổng cầu. Nếu sử dụng
giải pháp tăng tổng cầu để thực hiện mục tiêu tăng trưởngg, chúng ta sẽ nhận được một hệ quả phụ là
mức giá cả chung có xu hướng tăng lên, làm cho tỷ lệ lạm phát có xu hướng gia tăng. Trong khi đó nếu
các chính sách của chính phủ hướng đến khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực đã được trang bị
hoặc sử dụng được đội ngũ lao động đông đảo trong xã hội, tận dụng triệt để nguồn tài ngun đất đai
v.v.. thì khơng chỉ làm gia tăng thu nhập cho nền kinh tế là còn làm cho mức độ lạm phát có xu hướng
giảm đi. Nhiều nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách rất coi trọng cơ chế này đối với các
nước đang phát triển, bởi vì ở đây, nguồn lực dư thừa đang còn tồn tại khá lớn, chưa được huy động
hết, chúng ta nên thực hiện tăng trưởng theo hướng khai thác công suất hoạt động của vốn sản xuất đã
được trang bị, sử dụng triệt để lực lượng lao động xã hội, nhất là khu vực nơng thơn để hình thành
danh mục hàng hoá phù hợp.
1.4. Xác định ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng – Hàm sản xuất Coob –
Douglas
Ta có hàm sản xuất tổng quát truyền thống:
Y = F(K,L,R,T)
Trong đó:
Y: Đầu ra (ví dụ GDP)

K: Vốn sản xuất
L: Số lượng lao động
R: Nguồn tài nguyên thiên nhiên
T: Khoa học - công nghệ.
Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb- Douglas, hàm này có dạng:
Y= T. K. L. R
Ở đây , , là các số luỹ thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.
( +  +  = 1)
Sau khi biến đổi Cobb- Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các
biến số.
g = t + k + l + r
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của GDP
8

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
t: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học - công nghệ.
Như vậy sử dụng hàm sản xuất Cobb- Douglas chúng ta có thể xác định ảnh hưởng của các yếu
tố đầu vào đến tăng trưởng kinh tế, trong đó các yếu tố K,L,R được xác định trực tiếp qua hệ số biên
của yếu tố này và tốc độ tăng trưởng của nó qua từng giai đoạn. Tuy vậy yếu tố T, do khơng có hệ số
biên nên khơng thể xác dịnh trực tiếp được, mặt khác tác động của nó là tác động mang tính tổng hợp,
vì vậy để tính tốn mức độ ảnh hưởng của yếu tố này đến tăng trưởng, phải dự trên cơ sở tốc độ tăng
trưởng chung đạt được sau khi trừ đi ảnh hưởng của các yếu tố vật chất K và L:
t = g – (k + l + r).
Vận dụng hàm Cobb – Douglas theo quan điểm hiện đại về hàm sản xuất, tức là khơng có yếu
tố R, yếu tố T trở thành TFP, tăng trưởng kinh tế là một hàm số phụ thuộc bởi 3 yếu tố K, L,TFP thì

tốc độ tăng trưởng GDP được xác định là:
g = k.α + l.β + tfp
Đóng góp của yếu tố TFP vào số điểm phần trăm tăng trưởng GDP là:
tfp = g – ( k.α + l.β).
Mơ hình này hiện nay đang được sử dụng khá phổ biến ở các nước, trong đó có Việt Nam để
phân tích, đánh giá tác động của các yếu tố đầu vào đến tăng trưởng kinh tế.

9

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

PHẦN 2
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ VAI TRỊ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC
THEO CÁC MƠ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1. Các mơ hình tăng trưởng kinh tế
2.1.1. Mơ hình tăng trưởng kinh tế của David Ricardo
2.1.1.1. Những xuất phát điểm của lý thuyết
David Ricardo (1772-1823) là nhà kinh tế học người Anh và ông được coi là tác giả xuất sắc
nhất của trường phái kinh tế cổ điển. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của D.Ricardo hình thành dựa trên
cơ sở những ý tưởng chung của các nhà kinh tế học cổ điển, như A.Smith, T.R Malthus, cùng với
những phát triển về tư duy của chính mình thơng qua tác phẩm nổi tiếng ơng viết vào thế kỷ thứ 19:
“Các nguyên tắc của kinh tế chính trị và thuế” (năm 1817).
Quan điểm của A.Smith trong cuốn “Của cải của các quốc gia” là một trong những xuất phát
điểm chính tạo nên quan niệm của D.Ricardo về các nhân tố tác động đến tăng trưởng. Ricardo đã nhất
trí với A.Smith cho rằng: tích luỹ làm gia tăng tư bản chính là cơ sở của sự tăng trưởng kinh tế. Lý
thuyết bàn tay vơ hình và Lý thuyết về giá trị lao động và phân phối thu nhập là xuất phát điểm quan
trọng cho sự phân tích các nhân tố tăng trưởng của Ricardo.

Xét về lịch sử, dịng kinh tế học cổ điển được hình thành trên nền của một xã hội bị chi phối
chủ yếu bởi kinh tế nông nghiệp, mặc dù lúc này đã bắt đầu xuất hiện cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất song các tác động của nó cịn rất yếu ớt. Các giải thích của các nhà kinh tế cổ điển vì thế ln
dựa trên nền tảng của sản xuất nơng nghiệp với quy mô dân số ngày càng gia tăng nhiều. Với quy luật
lợi tức giảm dần, Ricardo cho rằng sự tăng trưởng là có giới hạn do khan hiếm tài nguyên thiên nhiên.
Ricardo trở thành nhà bi quan vê khả năng tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy vậy, khi đồng nhất với
quan điểm của Malthus về sự tăng trưởng liên tục và ngày càng nhanh quy mô dân số, làm cho lượng
cung lao động trong dài hạn trở thành “hồn tồn co giãn” thì chính Ricardo lại đặt ra những khả năng
để có thể thực hiện tăng trưởng liên tục thơng qua ý tưởng về một mơ hình hai khu vực cổ điển.
2.1.1.2. Quan điểm về các yếu tố tác động đến tăng trưởng của lý thuyết tăng trưởng Ricardo
* Các yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng trưởng của Ricardo đã nhấn mạnh đến 3 nhân tố trực tiếp tác động đến tăng
trưởng kinh tế, đó là vốn (K), lao động (L) và ruộng đất bao gồm cả số và chất lượng (R). Hàm sản
xuất của Ricardo được khái quát là:
Y = F(K,L,R)
Trong đó, K (vốn, tư bản) là một quỹ tiền, được xác định bằng tổng tiền lương phải trả cho
người lao động sản xuất sản phẩm, trước khi hàng hoá được bán đi và phần tiền phải bỏ ra để mua máy
móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Vốn được quyết đinh bởi khả năng tích luỹ của các đơn
vị sản xuất.
R (đất đai) là số và chất lượng ruộng đất trong nông nghiệp. Ruộng đất, theo quan điểm của
Ricardo là khơng đổi, tức là có giới hạn, chính vì thế mà số và chất lượng sẽ ngày càng giảm dần theo
quy mô khai thác, sử dụng và tuân thủ theo nguyên tắc lợi tức giảm dần.
L (lượng cung lao động) được xác định bằng số lượng lao động sẵn sàng làm việc đủ thời gian,
với bất kể mức lượng bao nhiêu. Lao động được giả định là cố định trong ngắn hạn (khi dân số chưa
10

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

thay đổi) nhưng lại trở nên “hồn tồn co giãn” trong dài hạn. Điều đó có nghĩa là khi lao động đã đến
mức “bão hồ” so với một quy mơ ruộng đất hạn chế thì người lao động sẽ được hưởng mức tiền lương
như nhau và gọi là “mức tiền lương tối thiểu”.
Ricardo đã không “tin tưởng” đưa yếu tố kỹ thuật, công nghệ vào hàm sản xuất, vì cho rằng nó
tác động rất yếu ớt và lại không liên tục, không đủ sức để không chế được quy luật lợi tức giảm dần
của ruộng đất.
* Vai trò của yếu tố ruộng đất trong tăng trưởng
Ricardo đã cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, quy mơ ruộng đất sử dụng
được chính là yếu tố quyết định đến tăng trưởng. Để tìm ra câu trả lời nói trên, ơng đã có sự phân tích
theo một logic bắt đầu từ nguồn gốc của tăng trưởng là tích luỹ và đầu tư tư bản, cụ thể là:
(i) Muốn tăng thu nhập thì nền kinh tế phải có tích luỹ. Tăng trưởng (g) có mối quan hệ hàm số
mang tính đồng biến với quy mơ tích luỹ (I): g = F(I). Theo hàm số này, nếu tích luỹ càng cao thì khả
năng tăng thu nhập của nền kinh tế ở chu kỳ sau sẽ cao hơn, vì tích luỹ trở thành vốn (tư bản) sẽ cho
phép tăng cường khả năng khai thác thêm số và chất lượng của ruộng đất, làm sản lượng nông nghiệp
gia tăng. Ricardo cho rằng, sự thay đổi công nghệ hay kỹ thuật sản xuất chỉ tạm thời khống chế được
mức lợi nhuận giảm dần cho nên việc tăng vốn là cách duy nhất để bù đắp hiểm hoạ lâu dài này.
(ii) Tích luỹ lại có mối quan hệ hàm số đồng biến với lợi nhuận (Pr) đạt được trong mỗi chu kỳ
kinh doanh: I = F(Pr). Như vậy có nghĩa là quy mơ tích luỹ phụ thuộc vào kết quả lợi nhuận đạt được,
nếu lợi nhuận thu được cao hơn thì khả năng tích luỹ sẽ khả quan hơn và ngược lại (với giả định khơng
có sự thay đổi trong phân phối lợi nhuận cho các nhu cầu khác).
(iii) Lợi nhuận có mối quan hệ hàm số nghịch biến với tiến lương (W): Pr = F(W). Sở dĩ như
vậy là vì, theo Ricardo, thu nhập tạo ra sau mỗi chu kỳ sản xuất, sẽ được phân phối thành 2 bộ phận:
một phần là trả công cho người lao động sản xuất sản phẩm, phần còn lại là lợi nhuận thuộc về người
có vốn. Vì vậy, tuỳ thuộc vào mức tiền lương thoả thuận giữa chủ và thợ trên thị trường lao động, nếu
phải trả một mức tiền công cao hơn thì phần lợi nhuận để lại sẽ giảm đi và ngược lại.
(iv) Mức tiền công là yếu tố phụ thuộc và có quan hệ hàm số đồng biến với giá cả nơng sản
(Pa): W = F(Pa). Theo cách giải thích của Ricardo, mức tiền công thoả thuận giữa người lao động và
chủ của họ chính là mức đủ để bảo đảm các khoản chi trả cho cuộc sống của họ và gia đình họ. Trong
điều kiện kinh tế nơng nghiệp là chủ yếu thì cơ sở để thoả thuận mức tiền lương trên thị trường lao
động chính là mức giá cả nơng sản hàng hố. Nếu giá cả nơng sản càng cao thì mức tiền cơng thoả

thuận sẽ phải cao hơn.
(v) Cuối cùng thì, mức giá cả nơng sản hàng hố lại là hàm số có mối quan hệ nghịch biến với
số và chất lượng ruộng đất nông nghiệp (R). Pa = F(R). Khi đất đai mới được khai thác, trồng trọt ở
quy mơ nhỏ, người ta có điều kiện sử dụng những khu vực đất tốt, phù hợp với yêu cầu của cây trồng,
gần nơi tiêu thụ sản phẩm, lúc đó giá cả nơng sản sẽ rẻ hơn, quy mô đất đai sử dụng càng nhiều, đồng
nghĩa với phải sử dụng đất chất lượng kém dần, sản lượng và chất lượng sản phẩm kém đi, kết quả là
giá nông sản sẽ tăng dần lên.
Những lập luận trên đây đã giúp Ricardo đi đến kết luận số và chất lượng của ruộng đất chính
là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết tăng trưởng của D.Ricardo dựa trên sự chi phối bởi quy lụât lợi tức giảm dần và độ
mầu mỡ khác nhau của đất nông nghiệp. Lúc đầu khi đất đai nông nghiệp mới được khai thác, người ta
11

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
sử dụng đất đai có độ mầu mỡ cao, nên hiệu quả đầu tư vốn rất lớn, tốc độ tăng quy mô sản lượng sản
phẩm nông nghiệp gia tăng nhanh hơn tốc độ tăng quy mô đầu tư vốn và lao động. Tuy vậy, khi dân số
ngày càng đông, nhu cầu lương thực thực phẩm tăng, người ta phải kinh doanh trên những vùng đất
nông nghiệp có độ mầu mỡ kém hơn, sản phẩm biên của lao động và vốn có xu hướng giảm dần theo
quy mơ khai thác và sử dụng đất. Q trình đó nếu vẫn tiếp tục tiếp diễn, thì số và chất lượng ruộng
đất sẽ tiến đến “điểm dừng”. Theo Ricardo, điểm dừng của số và chất lượng ruộng đất là điểm (một
mốc về quy mô ruộng đất cụ thể Ro) nếu khai thác và sử dụng đến đó sẽ khơng còn cho mức sản
lượng gia tăng nếu tiếp tục đầu tư thêm vốn và lao động.
Q

Q*(Ro) -

A0


Ko,Lo

Q=f(K, L, R)

K,L

Đường biểu diễn hàm sản xuất của Ricardo
Sơ đồ trên cho thấy, nếu chúng ta đầu tư vốn và lao động đến mức Ko và Lo, thì đạt điểm Ao
trên đường biểu diễn hàm sản xuất, tại đó quy mơ ruộng đất là Ro (điểm dừng), và sản lượng nông sản
đạt tối đa (Q*). Khi đã đạt tới điểm Ao, nếu chúng ta tiếp tục đầu tư thêm vốn, bổ sung thêm lao động,
thì sản lượng nơng sản khơng có khả năng gia tăng, lúc này nơng nghiệp đã nằm trong tình trạng “trì
trệ tuyệt đối”, và tăng trưởng kinh tế dùng lại ở đó. Như vậy, đất đai khơng những là yếu tố quyết định
mà nó cịn là giới hạn của tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết của Ricardo đem lại sự bi quan về khả năng
tăng trưởng kinh tế bền vững.
* Ý tưởng của Ricardo về duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế - một mơ hình hai khu vưc kinh
tế
Đồng thời với việc đưa ra lý thuyết bi quan về tăng trưởng bền vững nếu chỉ dựa vào nền kinh
tế nông nghiệp, D.Ricardo đã manh nha quan điểm về xây dựng một mơ hình hai khu vực kinh tế. Nếu
như khu vực nông nghiệp (khu vực truyền thống) có đặc điểm: (i) trì trệ tuyệt đối với mức sản phẩm
biên của lao động bằng không, và (ii) ngày càng dư thừa lao động do quy mô dân số tăng nhanh, thì
phải hình thành một khu vực thứ hai, đó là khu vực cơng nghiệp (gọi là khu vực hiện đại). Khu vực
cơng nghiệp có chức năng thu hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển qua. Quá trình
tăng cường đầu tư cho phát triển khu vực công nghiệp, một mặt giải quyết thất nghiệp cho khu vực
nông nghiệp; mặt khác làm cho quy mô sản lượng ngành công nghiệp ngày càng lớn, tăng trưởng kinh
tế gia tăng với tốc độ nhanh và hiệu quả cao do chưa bị quy luật lợi tức giảm dần chi phối và có nhiều
ưu thế so với khu vực truyền thống; cuối cùng là sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước có thể
xuất khẩu để nhập khẩu nơng sản, nền kinh tế chuyển sang những giai đoạn phát triển hiện đại hơn.
Ricardo đã khẳng định, tích luỹ và đầu tư tư bản cho lĩnh vực công nghiệp là điều kiện duy trì khả
năng tăng trưởng trong dài hạn, khi nơng nghiệp nằm trong tình trạng lợi nhuận biên bằng khơng.

12

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

2.1.1.3. Những hạn chế của lý thuyết tăng trưởng Ricardo
Một hạn chế cơ bản trong nghiên cứu của Ricardo, và lại là điều cốt lõi trong mọi giải thích
trong lý thuyết tăng trưởng Ricardo, đó là việc ơng khơng tính đến vai trị của yếu tố cơng nghệ, kỹ
thuật hay nói đúng hơn là đánh giá thấp vai trò của yếu tố này trong việc bù đắp lại mức lợi tức giảm
dần. Từ thời Ricardo, sự tiến bộ cơng nghệ nhanh chóng đã đóng góp sự tăng trưởng kinh tế chưa từng
có trước đó. Ricardo không phủ nhận khả năng nâng cao công nghệ trong ngành nơng nghiệp, nhưng
lại cho rằng nó q yếu ớt để vượt khỏi quy luật lợi tức giảm dần trong nông nghiệp. Ý tưởng này là do
tiến bộ công nghệ trong nơng nghiệp thời đó chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và thử nghiệm của người
nông dân, thế nhưng lịch sử đã chứng minh, với việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp (từ cuối thế kỷ XIX) vào lĩnh vực nông nghiệp làm cho tốc độ tăng năng suất lao động trong
nơng nghiệp cịn lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp ở các nước đang phát
triển.
Sự sai sót trong đánh giá vai trị của yếu tố cơng nghệ, kỹ thuật đã dẫn đến một loạt các kết luận
thiếu chính xác trong lý thuyết tăng trưởng Ricardo, đó là: (i) quan điểm cho rằng khu vực nơng nghiệp
ln có dư thừa lao động và trở nên trì trệ tuyệt đối; (ii) khơng nên đầu tư cho khu vực nông nghiệp
khi ở đây nằm trong tình trạng lợi tức biên bằng khơng, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt được nhờ kết quả
tích luỹ và đầu tư cho công nghiệp; (iii) Khi đầu tư cho công nghiệp, chỉ cần đầu tư theo chiều rộng,
lượng lao động thu hút từ nông nghiệp sang tỷ lệ thuận với quy mơ tích luỹ của khu vực này và mức
tiền công trả cho lao động từ nông nghiệp sang là cố định cho đến khi khu vực này hết dư thừa lao
động.
2.1.2. Mơ hình tăng trưởng Harrod – Domar
2.1.2.1. Những xuất phát điểm của mơ hình
Mơ hình tăng trưởng Harrod – Domar là tổng hợp kết quả của hai cơng trình nghiên cứu độc

lập mang tính nối tiếp của nhà kinh tế học người Anh Roy Harrod với: “Tổng quan về lý thuyết
động”(năm 1939) và nhà kinh tế học người Mỹ gốc Ba Lan Evsey Domar với: “Mở rộng tư bản, tỷ lệ
tăng trưởng và công ăn việc làm” (năm 1946). Mơ hình tăng trưởng Harod – Domar hiện nay vẫn được
sử dụng phổ biến ở các nước đang phát triển và được xem như là một phương pháp khá đơn giản
nhưng lại khoa học về xác định mối quan hệ giữa tăng trưởng với các yếu tố nguồn lực cấu thành tăng
trưởng.
Nội dung của mơ hình được xây dựng trên cơ sở những xuất phát điểm cơ bản trong cuộc cách
mạng của J. Keynes trong tác phẩm nổi tiếng: “Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ”.
Keynes đã đồng nhất giữa đầu tư và tiết kiệm. Ơng cho rằng, tiết kiệm chính là tổng lượng chi
tiêu mà các doanh nghiệp và cá nhân dự kiến trích ra khỏi tiêu dùng trong một thời kỳ nhất định.
Harrod đã dựa trên xuất phát điểm này để đưa ra quan điểm của mình: tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế phụ thuộc vào tổng tiết kiệm đạt được và mối quan hệ giữa vốn đầu tư và mức tăng sản lượng.
Một phát triển mới về vai trò của chi tiêu cho đầu tư được Domar đưa ra trong cơng trình
nghiên cứu của mình là “Lý thuyết tăng trưởng kinh tế”cũng là một xuất phát điểm quan trọng cho mơ
hình harod –Domar, đó là: nếu Harrod đồng ý với J. Keynes và chỉ công nhận rằng đầu tư tạo hiệu ứng
tăng thu nhập thì Domar cịn cho rằng đầu tư tăng năng lực cho nền kinh tế. Định đề xuất phát của
Domar là đầu tư rịng có hai chức năng: nó làm tăng tổng cầu, qua đó làm tăng sản lượng và việc làm
trong ngắn hạn, đồng thời đầu tư làm tăng năng lực sản xuất trong dài hạn. Nếu như đầu tư làm tăng
13

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
tổng cầu tại thời điểm thực hiện hoạt động đầu tư, tức là quá trình hình thành vốn hữu hình, thì kết quả
đầu tư ngày hôm nay lại làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế ngày mai, khi vốn hữu hình đã
hình thành và hoạt động trong nền kinh tế.
Như vậy, mô hình tăng trưởng Harod – Domar đã dựa trên một logic xuất phát điểm: Tiết kiệm
(S) là nguồn gốc đầu tư (I), đầu tư ngày hơm nay chính là cơ sở tạo vốn sản xuất gia tăng của ngày mai
(ΔK) và mức vốn sản xuất gia tăng đóng vai trị trực tiếp làm gia tăng quy mô thu nhập của nền kinh tế

(ΔY). Ngoài ra, nghiên cứu của Harod – Domar còn dựa trên cơ sở những điểm xuất phát khác, đó
là:(i) tổng tiết kiệm bằng tổng đầu tư (S = I); (ii) các yếu tố đàu vào biến đổi là vốn (K) và lao động
(L), tỷ lệ kết hợp vốn và lao động là cố định; (iii) dân số hay lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ
tiết kiệm lao động gia tăng với một tốc độ cố định.
2.1.2.2. Quan điểm của mơ hình Harod – Domar về tác động của các yếu tố nguồn lực trong tăng
trưởng kinh tế
* Các yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng
Trong mơ hình nghiên cứu, Harrod - Domar đã cố định yếu tố cơng nghệ kỹ thuật trong phân
tích tác động của các nhân tố đến tăng trưởng, điều đó đồng nhất với việc chỉ có 3 yếu tố vốn (K), lao
động (L) và R(tài nguyên) cấu thành trong hàm sản xuất của Harrod - Domar: Y = F(K,L,R). Trong đó
L và R được xem là các yếu tố nguồn lực, sẽ được huy động vào hoạt động trên cơ sở khả năng tạo ra
vốn sản xuất gia tăng (K) của nền kinh tế. Yếu tố công nghệ không được đưa vào hàm sản xuất trong
mơ hình Harrod - Domar điều đó khơng có nghĩa là các ơng phủ nhận vai trò của yếu tố này trong tăng
trưởng mà được giả thiết gia tăng với một tốc độ cố định. Đây cũng chính là một nhược điểm của mơ
hình này.
* Vai trị của yếu tố vốn trong mơ hình Harrod-Domar
Mơ hình Harrod - Domar coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một cơng ty, một
ngành cơng nghiệp hay tồn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
(1) Hệ số gia tăng vốn - sản lượng (hệ số ICOR – Incremental capital output ratio). Việc phân
tích hệ số ICOR (k) đã giúp Harrod-Domar tìm ra được cụ thể mối quan hệ giữa mức tăng trưởng GDP
(ΔY) của thời kỳ sau với mức đầu tư (I) của thời kỳ trước. Hệ số ICOR của một thời kỳ (t+1) phản ánh
mức vốn sản xuất gia tăng cần có để tạo ra một đơn vị thu nhập gia tăng của kỳ đó
kt+1 = ΔKt+1/ΔYt+1
Vốn sản xuất gia tăng của năm t+1 được hình thành trên cơ sở vốn đầu tư của giai đoạn trước
(It), vì vậy có thể viết:
kt+1 = It /ΔYt+1
Đến đây chúng ta có thể định nghĩa hệ số gia tăng vốn - sản lượng: là mức vốn đầu tư cần thiết
của giai đoạn trước để có thêm một đơn vị thu nhập (GDP) của giai đoạn sau. Hệ số này nói lên vốn
được tạo nên bằng đầu tư là yếu tố cơ bản tạo nên mức tăng trưởng, hệ số ICOR phản ánh trình độ kỹ
thuật của sản xuất, năng lực của vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hệ số ICOR chịu ảnh

hưởng của những nhiều nhân tố: Trình độ cơng nghệ kỹ thuật của sản xuất, Mức độ khan hiếm nguồn
lực, Hiệu quả của sử dụng vốn đầu tư.
(2) Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tiết kiệm và đầu tư
Tiếp tục phân tích theo logic trên, nếu gọi thu nhập của nền kinh tế (GDP) là Y, tốc độ tăng
trưởng thu nhập là g:
14

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
gt+1 = ΔYt+1 / Yt
Sử dụng cơng thức tính hệ số ICOR ở trên, thay vào cơng thức này, chúng ta có:
gt+1 = ΔKt+1 / k x Yt
Theo giả định trong nghiên cứu của Harrod - Domar: ΔKt+1 = It = St (mức vốn sản xuất gia tăng
của thời kỳ sau) bằng mức đầu tư của thời kỳ trước, và tổng đầu tư bằng tổng tiết kiệm, chúng ta có:
gt+1 = It / k x Yt = St / k x Yt
Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:
s = S/Y
Do đó chúng ta có:
gt+1 = st / kt+1
Như vậy, bằng việc mô tả dưới dạng công thức, phương trình Harrod - Domar đã xây dựng mối
liên kết chắc chắn giữa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế với hai biến số cơ bản: khả năng tiết kiệm
của nền kinh tế và hệ số gia tăng vốn - sản lượng.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với tiết kiệm và hệ số gia tăng vốn sản lượng, Harrod - Domar đã đưa ra ba khái niệm về tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa quan trọng trong
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế quốc dân. Tốc độ tăng trưởng bảo đảm (gw) là thương số giữa tỷ lệ tiết
kiệm theo dự kiến và hệ số gia tăng vốn sản lượng dự kiến. Tốc độ tăng trưởng thực tế (gr) được hình
thành bởi tỷ lệ tiết kiệm dự kiến với hệ số gia tăng vốn - sản lượng thực tế. Tốc độ tăng trưởng tự
nhiên (gf) là tốc độ tăng trưởng đạt được trong điều kiện tồn dụng cơng nhân (đạt được mức tiềm
năng). Nếu gr = gw = gf , Harrod – Domar gọi đó là thời kỳ vàng của nền kinh tế, và đây chính là điều

kiện tăng trưởng kinh tế ổn định.
2.1.2.3. Hạn chế của mơ hình Harrod – Domar
Chúng ta rất dễ nhận ra nhược điểm của mơ hình Harrod – Domar: nó q đơn giản khi coi sự
tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát
triển kinh tế. Điều này đúng khi các quốc gia đang ở một trình độ phát triển thấp, thu nhập thực tế đạt
được còn rất nhỏ so với sản lượng tiềm năng, mơ hình tăng trưởng trong điều kiện này chủ yếu dựa vào
đầu tư theo chiều rộng để khai thác nguồn lực đang chưa được sử dụng hết. Đó cũng chính là lý do mà
hiện nay các nước đang phát triển vẫn đang sử dụng khá phổ biến mơ hình này trong lập kế hoạch tăng
trưởng và huy động vốn đầu tư. Tuy vậy, nền kinh tế trong nước và thế giới càng ở trình độ phát triển
cao, thì tăng trưởng kinh tế càng chịu sự tác động của nhiều nhân tố hơn. Trên thực tế thì tăng trưởng
kinh tế có thể xảy ra khơng phải vì lý do tăng đầu tư, hoặc ngược lại đầu tư khơng có hiệu quả thì vẫn
khơng có sự tăng trưởng. Kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm cũng
chỉ có thể tạo nên gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chứ không thể đạt được trong dài
hạn.
Một khía cạnh khác khi phân tích hạn chế của mơ hình Harrod – Domar, đó là kể cả trong điều
kiện các nước đang phát triển ở trình độ thấp áp dụng được mơ hình tăng trưởng dựa vào đầu tư thì các
nước này lại có mức thu nhập gần như tối thiểu khó có thể thốt khỏi cái vịng luẩn quẩn của sự nghèo
đói. Khi đó chính phủ phải sử dụng chiến lược tích luỹ vốn theo kế hoạch và cơ chế mệnh lệnh nhằm
hạn chế tiêu dùng hoặc dành quỹ đầu tư trước khi tiêu dùng. Đồng thời với sử dụng cơ chế ấy, Chính
phủ phải gồng mình lên với việc đi vay nợ nước ngồi, xin viện trợ v.v... để có đủ vốn đầu tư. Tất cả
các hình thức ấy đã đem lại kết quả nhất định trong giai đoạn đầu của chính sách, tăng trưởng kinh tế
đạt được tốc độ khá nhanh. Tuy vậy, càng về sau nó càng gặp phải những bất cập: (i) trước hết là trong
15

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
nội bộ nền kinh tế khi giải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng và động lực tích luỹ; (ii) tăng
trưởng kinh tế bị phụ thuộc rất lớn bởi nguồn vốn nước ngoài và đầu tư tập trung chủ yếu cho mục tiêu

ngắn hạn, thiếu bền vững; (iii) Chính phủ trở thành con nợ lớn với nguy cơ phá sản cận kề.
2.1.3. Mơ hình tăng trưởng Solow
2.1.3.1. Xuất phát điểm của mơ hình
Năm 1956, nhà kinh tế học người Mỹ là Robert Solow (1924) với bài viết “Một đóng góp cho
lý thuyết tăng trưởng kinh tế” đã xây dựng nên mơ hình tăng trưởng tân cổ điển, cịn được gọi là mơ
hình tăng trưởng Solow.
Những quan điểm của Harrod – Domar trong mơ hình tăng trưởng kinh tế vẫn được Solow xem
là xuất phát điểm trong nghiên cứu của mình. Solow đồng nhất với Harrod – Domar hai điểm:
+ Vốn sản xuất gia tăng được hình thành từ tiết kiệm và đầu tư là nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế;
+ Quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô vẫn tiếp tục chi phối hoạt động đầu tư mở rộng
quy mô tài sản hữu hình.
Solow đã chỉ ra một điểm khác biệt so với Harrod – Domar: khi quy mô tài sản hữu hình (vốn
sản xuất) lớn lên đến một mức độ nào đó, thì đầu tư sẽ khơng dẫn đến gia tăng mức sản lượng của nền
kinh tế, tức là Solow đã lo ngại về khả năng tăng trưởng trong dài hạn của nền kinh tế nếu chỉ dựa vào
yếu tố đầu tư.
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật. Hàng loạt
các phát minh khoa học và hàng loạt các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho q trình sản
xuất. Sự chuyển biến này đã có những ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế.
Nếu như Ricardo và cả Keynes đều cho rằng, hệ số kết hợp giữa vốn và lao động trong q trình sản
xuất sản phẩm ln ln cố định thì trường phái tân cổ điển đã bác bỏ quan điểm đó, họ cho rằng vốn
và lao động có thể kết hợp với nhau theo những tỷ lệ khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể về sự tương
quan giữa hai yếu tố này. Nếu có nhiều lao động hơn so với vốn, thì một phương án sản xuất sản phẩm
sử dụng nhiều lao động sẽ hình thành. Ngược lại, nếu thiếu hụt lao động thì các biện pháp khai thác và
sử dụng vốn sẽ được sử dụng tối đa trong sản xuất sản phẩm, hệ số ICOR sẽ tăng lên.Từ quan điểm
trên đây các nhà kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm "Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu"
có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất, còn sự gia tăng vốn phù hợp
với sự gia tăng về lao động được gọi là "phát triển kinh tế theo chiều rộng". Cải tiến trong các phương
pháp sản xuất sẽ là cơ sở gia tăng khối lượng sản phẩm và xu hướng của thay đổi trong kỹ thuật là đa
số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công. Những ý tưởng đó chính là

xuất phát điểm cho kết luận của Solow về vai trò quyết định của tiến bộ kỹ thuật để thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế. Tuy vậy, khi nghiên cứu vai trị của tiến bộ cơng nghệ kỹ thuật trong tăng trưởng kinh
tế, Solow lại cho rằng, đây là yếu tố tác động từ bên ngoài và sự tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ
thuộc vào những cú sốc về tiến bộ cơng nghệ từ bên ngồi đưa đến. Vì vậy chúng ta thường gọi mơ
hình Solow là mơ hình tăng trưởng ngoại sinh.
2.1.3.2. Quan điểm của Mơ hình Solow về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế
* Các yếu tố cấu thành hàm sản xuất trong mơ hình Solow

16

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Mơ hình Solow đã đưa thêm nhân tố lao động và tiến bộ công nghệ vào hàm sản xuất. Như vậy,
theo Solow họat động sản xuất trong nền kinh tế là sự kết hợp của các yếu tố vốn (K), lao động (L) và
yếu tố kỹ thuật công nghệ (T). Hàm sản xuất tổng quát có dạng:
Y = F( K,L,T)
Yếu tố T tạo nên hiệu quả của lao động (E) - hiệu quả lao động phản ánh trình độ cơng nghệ
của xã hội. E và L luôn đi đôi với nhau, LxE được gọi là số lao động hiêu quả (gọi là công nghệ bao
hàm trong lao động). Hàm sản xuất của Solow cịn có thể được viết: Y(t) = F(K, ExL). Trong hàm sản
xuất của Solow, các yếu tố đầu vào không phải là vốn, lao động và cơng nghệ sẽ khơng có vai trị lớn
trong q trình sản xuất. Nói cách khác, so với hàm sản xuất tổng quát truyền thống thì yếu tố đất đai
và các loại tài nguyên thiên nhiên khác khơng được đưa vào trong mơ hình Solow. Theo ơng, nó khơng
thể có quan hệ hàm số với quy mơ sản lượng, bỏ yếu tố tài nguyên thiên nhiên khỏi hàm sản xuất làm
cho các kết luận về vai trò của ba yếu tố cịn lại trở nên chính xác hơn.
* Vai trò của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế
a. Tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế
Solow đã sử dụng một dạng hàm tổng sản xuất Cobb-Douglas giản đơn, trong đó chỉ có 2 yếu
tố vốn và lao động, chưa có yếu tố cơng nghệ:

Y  K  L1  
trong đó, Y , K và L lần lượt là sản lượng, vốn và lao động của nền kinh tế. Khi đó, ta có thể chia hai

vế của phương trình trên cho L để có được một dạng hàm sản xuất mới
y  k

với y  Y L (thu nhập bình qn cơng nhân) và k  K L (mức vốn bình qn cơng nhân). Vì năng
suất cận biên của vốn giảm dần, nên khi k tăng thì y tăng chậm dần.
Từ mơ hình tăng trưởng Harrod - Domar, ta đã có I  sY , với I là đầu tư của nền kinh tế và
s là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia. Nếu chia cả hai vế phương trình này cho L , ta được mức đầu tư bình
qn cơng nhân i bằng i  sy .
Tại mỗi thời điểm, lượng vốn là yếu tố quyết định sản lượng của nền kinh tế, nhưng lượng vốn
có thể thay đổi theo thời gian, dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Mơ hình Solow xác định hai lực lượng tác
động tới sự thay đổi của lượng vốn là đầu tư (làm tăng lượng vốn) và khấu hao (làm giảm lượng vốn),
cụ thể là
Thay đổi lượng vốn = Đầu tư – Khấu hao
Với quy mô dân số nhất định, giả sử tỷ lệ khấu hao vốn sản xuất là một số  khơng đổi, tức là
mức khấu hao bình qn cơng nhân là  k và từ 3 phương trình trên ta viết được
k  i   k  sk    k

Δk là sự thay đổi lượng vốn giữa năm này với năm khác. Rõ ràng, k càng cao thì đầu tư và sản lượng
càng cao, nhưng đồng thời k càng cao thì mức khấu hao cũng càng lớn.

17

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Đầu tư và khấu hao

Khấu hao, k
k2

i2
*

Đầu t, i = sk

*

i = k
i1
k1

k
k1

k*

k2

Đầu tư, khấu hao và trạng thái ổn định.
Tồn tại duy nhất một k * mà tại đó, đầu tư bằng khấu hao. Nếu nền kinh tế có mức vốn bình
qn cơng nhân bằng k * , thì lượng vốn sẽ khơng thay đổi ( k  0 ), bởi vì hai lực lượng tác động lên
nó là đầu tư và khấu hao bằng nhau. Khi đó, nền kinh tế ở trạng thái ổn định, với k và y không thay
đổi theo thời gian. Mơ hình Solow chứng minh rằng: nếu nền kinh tế nằm ở trạng thái ổn định thì nó sẽ
đứng nguyên tại đó, và nếu nền kinh tế chưa nằm tại trạng thái ổn định, thì nó sẽ có xu hướng tiến về
đó (tức là k1 và k2 có xu hướng tiến về k * ). Do vậy, trạng thái ổn định chính là cân bằng dài hạn của
nền kinh tế.
Xét khi tỷ lệ tiết kiệm tăng lên. Từ hình dưới, nếu tỷ lệ tiết kiệm tăng từ s1 lên s2 , thì đường

đầu tư sẽ dịch chuyển lên trên. Vậy là ta có một k * mới ( k 2* ) lớn hơn, tức là nền kinh tế đã chuyển tới
một trạng thái ổn định có mức vốn bình qn cơng nhân cao hơn, do đó có mức sản lượng bình quân
đầu người lớn hơn so với trạng thái ổn định ban đầu ( k1* ).
Đầu t và khấu hao
k

i = s2k
i = s1k

k

k 1*

k *2

Tỷ lệ tiết kiệm gia tăng.
Vậy, mơ hình Solow cho thấy, nếu tỷ lệ tiết kiệm cao, thì nền kinh tế sẽ có mức sản lượng lớn
hơn (GDP cao hơn). Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ tiết kiệm chỉ đưa đến tăng trưởng nhanh hơn trong một
thời gian ngắn, trước khi nền kinh tế đạt tới trạng thái ổn định. Nếu một nền kinh tế duy trì một tỷ lệ
tiết kiệm cao nhất định, nó sẽ duy trì được mức sản lượng cao nhưng khơng duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao. Kết luận này hồn tồn khác với kết luận của mơ hình Harrod - Domar.
18

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
b. Tăng lao động và tăng trưởng kinh tế
Giả sử dân số và lực lượng lao động tăng với tốc độ nhất định là n . Nhưng rõ ràng là tăng số
công nhân sẽ khiến mức vốn bình qn trên một cơng nhân giảm xuống. Vậy sự thay đổi lượng vốn

bình qn cơng nhân bây giờ là:
k  i  (  n) k
trong đó, đầu tư làm tăng k còn khấu hao và gia tăng dân số làm giảm k . Hình trên được chuyển
thành dạng dưới đây
Đầu t
(+n)k
i = sk

k
k*

Tăng trưởng lao động trong mơ hình Solow.
Tại trạng thái ổn định, đầu tư vừa đủ để bù đắp khấu hao và cung cấp máy móc thiết bị cho
những cơng nhân mới, tức là k *  0 và i*   k *  nk * . Vậy khi đó, y  k  khơng thay đổi (thu
nhập bình qn đầu người khơng thay đổi), nhưng vì số lao động L tăng với tốc độ n nên tổng sản
lượng Y  yL cũng phải tăng với tốc độ n . Điều đó có nghĩa là nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ gia
tăng dân số (cịn thu nhập bình qn đầu người không thay đổi) trong dài hạn.
Nếu n tăng (từ n1 lên n2 ), rõ ràng k * sẽ giảm xuống cịn k2* , do đó thu nhập bình qn đầu
người cũng giảm xuống (xem hình dưới). Vậy, mơ hình Solow cho biết những nước có tốc độ tăng dân
số cao sẽ có mức thu nhập bình qn đầu người thấp hơn.
Đầu t
(+n2)k
(+n1)k
i = sk

k

k *2

k *1


Tác động của sự gia tăng dân số.

19

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
c. Tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế
Để đưa tiến bộ công nghệ vào mơ hình, ta sửa hàm sản xuất thành:
Y  K  ( L  E )1 

E là một biến mới, là hiệu quả của lao động. Hiệu quả của lao động phản ánh trình độ cơng
nghệ của xã hội, và khi cơng nghệ tiến bộ thì hiệu quả của lao động cũng tăng lên. Lúc này, L  E đo
số công nhân hiệu quả. Tổng sản lượng Y phụ thuộc vào số đơn vị K và số công nhân hiệu quả
L E.
Giả định E tăng với tốc độ g khơng đổi. Bởi vì L tăng với tốc độ là n , nên số công nhân hiệu
quả L  E tăng với tốc độ là n  g . Tương tự như trên, nhưng bây giờ ta phân tích nền kinh tế theo
các mức bình qn trên mỗi cơng nhân hiệu quả. Đặt k  K LE và y  Y LE . Vậy, ta vẫn có
y  k  . Sự thay đổi của mức vốn trên mỗi công nhân hiệu quả lúc này là:

k  i  (  n  g ) k

Ta vẫn xác định được k * thoả mãn k  0 . Điều này hàm ý rằng, ở trạng thái ổn định, đầu tư
vừa đủ để bù đắp khấu hao và cung cấp máy móc thiết bị cho những cơng nhân hiệu quả mới. Khi đó,
mức vốn trên mỗi cơng nhân hiệu quả không thay đổi, và mức sản lượng trên mỗi công nhân hiệu quả
Y LE cũng không thay đổi. Tuy nhiên, mức sản lượng trên mỗi công nhân Y L bây giờ tăng trưởng
với tốc độ g , và Y tăng với tốc độ n  g .
Đầu t

(+n+g)k

i = sk

k
k*

Tiến bộ cơng nghệ trong mơ hình Solow.
Tóm lại, tiến bộ cơng nghệ giải thích cho sự tăng trưởng của nền kinh tế trong dài hạn, cả trên
phương diện tổng thu nhập lẫn GDP bình quân đầu người. Nếu tốc độ tiến bộ cơng nghệ tăng lên, thì
cả GDP lẫn GDP/người đều tăng lên tương ứng.
2.1.3.3. Những nhược điểm của mô hình tăng trưởng Solow
- Theo mơ hình này, nếu khơng có cú sốc thay đổi cơng nghệ từ bên ngồi, thì tất cả các nền
kinh tế sẽ dần đạt đến trạng thái ổn định khơng có tăng trưởng (do quy mô dân số cũng đã ổn định).
Ngay cả khi tỷ lệ tiết kiệm tăng lên thì sự gia tăng GDP bình quân đầu người chỉ là hiện tượng tạm
thời, diễn ra trong quá trình nền kinh tế chuyển từ trạng thái ổn định này sang trạng thái ổn định khác.
Cũng theo ý nghĩa đó, các chính sách của nhà nước khơng có tác động gì tới tăng trưởng dài hạn nếu
như chúng không tạo ra tiến bộ công nghệ. Do đó, lý thuyết này khơng thể giải thích những bước tăng

20

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
trưởng vượt bậc của nhiều nền kinh tế trên thế giới từ sau những năm 1950, cũng như sự chênh lệch
lớn giữa nhiều nền kinh tế có cùng trình độ cơng nghệ.
- Mọi sự gia tăng GDP nếu không phải là do vốn và lao động đều là do công nghệ “số dư
Solow” (trên 50%)
- Phủ nhận vai trị của các chính sách Chính phủ và các quyết định của các chủ thể kinh tế

2.1.4. Các mơ hình tăng trưởng nội sinh
2.1.4.1. Xuất phát điểm của các mơ hình tăng trưởng nội sinh
Thực tế tăng trưởng kinh tế ở các nước có thể nhận ra rằng, tiến bộ công nghệ không phải yếu
tố ngoại sinh từ bên ngoài tác động vào nền kinh tế và “phần dư” giữa tăng trưởng thu nhập với tăng
trưởng của vốn cũng không phải chỉ là kết quả của yếu tố ngoại sinh này. Những nhược điểm của mơ
hình Solow đã thúc đẩy sự ra đời một cách tiếp cận mới đối với tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh
tế nội sinh (hay lý thuyết tăng trưởng mới) vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX. Đại diện tiêu biểu
cho nhóm những nhà kinh tế theo đuổi mơ hình tăng trưởng kinh tế mới mẻ này là là Robert E. Lucas
(1937), một trong những nhà lý luận kinh tế hiện đại có ảnh hưởng nhất thời nay, người đã đoạt giải
Nobel kinh tế năm 1995.
Hai xuất phát điểm trong phân tích, làm cơ sở cho những kết luận mới về vai trò của các yếu tố
tăng trưởng, và gọi nó là mơ hình tăng trưởng nội sinh.
Thứ nhất, đó là việc phân chia vốn làm 2 loại:
Vốn hữu hình (vốn vật chất, bao gồm K và L). Cụ thể, vốn sản xuất (K) là tài sản hữu hình do
các doanh nghiệp tư nhân hoặc chính phủ đầu tư như máy móc thiết bị, nhà xưởng mà các doanh
nghiệp sử dụng để sản xuất ra hàng hoá, cơ sở hạ tầng nghiên cứu khoa học kỹ thuật, giáo dục hệ thống
đường xá, cầu cống, hệ thống bưu chính viễn thơng, cơ sở hạ tầng giao thông, v.v..Lao động (L) nằm
trong phạm vi vốn vật chất bao gồm quy mô, số lượng, cơ cấu lực lượng lao động xã hội.
Vốn nhân lực (hay gọi là vốn con người). Vốn con người là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng, kỹ
năng, kiến thức, sự khéo léo, linh hoạt có được của mỗi con người và sử dụng trong các hoạt động kinh
tế. Vốn nhân lực hình thành trong q trình tích luỹ kiến thức của người lao động thông qua giáo dục,
đào tạo từ thời đi học phổ thông, đến đại học và các chương trình đào tạo nghề nghiệp cho người lao
động, hoặc tích luỹ từ kinh nghiệm thực tế.
Thứ hai, khẳng định vai trị của chính phủ trong tăng trưởng dài hạn: mơ hình tăng trưởng nội
sinh đồng nhất với quan điểm của trường phái kinh tế hiện đại, trong đó nổi bật là tư tưởng của
Samuelson trong tác phẩm Economics (giải thưởng Nobel năm 1970) về vai trò của chính phủ trong
nền kinh tế thị trường. Theo đó việc mở rộng kinh tế thị trường địi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà
nước khơng chỉ vì thị trường có những khuyết tật, mà cịn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có
hoạt động tốt cũng không thể đáp ứng được. Quan điểm của Samuelson về vai trị và chức năng của
chính phủ đã giúp các nhà kinh tế thuộc trường phái tăng trưởng nội sinh giải thích sự tiến bộ của cơng

nghệ kỹ thuật có vai trị của chính phủ. Vai trị của chính phủ được thể hiện bằng các chính sách
khuyến khích đầu tư nghiên cứu tiến bộ công nghệ, sử dụng công nghệ kỹ thuật mới vào hoạt động
kinh tế, bảo vệ các bản quyền phát minh, sở hữu trí tuệ, cũng như các chính sách đầu tư phát triển vốn
nhân lực.
Với các xuất phát điểm trên, các lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh đã cố gắng mơ hình hố
yếu tố tiến bộ công nghệ bằng cách đưa nguồn vốn con người vào hàm sản xuất và giải thích quá trình
21

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
tích luỹ kiến thức (tiến bộ cơng nghệ) trực tiếp thơng qua tích luỹ nguồn vốn con người, hay gián tiếp
thông qua nghiên cứu và phát triển (R&D) và vai trị của chính phủ trong quá trình phát triển vốn nhân
lực như thế nào..
2.1.4.2. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng
* Các yếu tố trong hàm sản xuất
Các yếu tố trong hàm sản xuất của mơ hình nội sinh cũng giống mơ hình Solow, bao gồm ba
yếu tố là vốn, lao động và công nghệ kỹ thuật. Tuy vậy có những sự khác biệt sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế được phân chia thành hai khu vực:
Khu vực sản xuất hàng hoá, bao gồm các doanh nghiệp. Khu vực này có chức năng sản xuất
hàng hoá và dịch vụ, được sử dụng trong tiêu dùng và tái đầu tư vào vốn sản xuất vật chất.
Khu vực sản xuất kiến thức, có chức năng sản xuất ra một yếu tố gọi là “kiến thức” được sử
dụng một cách tự do ở cả hai khu vực. Chính khu vực sản xuất kiến thức này sẽ tạo nên tiến bộ kỹ
thuật. Khu vực sản xuất kiến thức thực hiện sự Tiến bộ kỹ thuật, và được chia thành hai dạng: Một là
nắm bắt các khía cạnh của tiến bộ công nghệ, sản phẩm của dạng này là những sản phẩm mới (cải tiến
sản phẩm) và đưa ra các phương thức mới để tiến hành sản xuất (cải tiến quy trình cơng nghệ). Hai là,
Chuyển giao kiến thức kỹ thuật, thực hiện sự khuyếch tán kỹ thuật từ các cơ sở nghiên cứu đến các
lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ ở trong nước và phần còn lại của thế giới, đến tận người lao dộng
và thể hiện bằng kỹ năng, kiến thức và sự thành thạo, khéo léo của họ. Khu vực sản xuất kiến thức

được thực hiện ở các trường đại học, trung học viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai, dạy nghề
(chúng ta gọi tắt là khu vực các trường đại học)
Thứ hai, nếu trong hàm sản xuất của Solow, yếu tố công nghệ kỹ thuật thể hiện ở hiệu quả lao
động (E) là yếu tố ngoại sinh và số dư giữa thu nhập và đầu tư chính là do yếu tố này tạo nên, thì hàm
sản xuất của trường phái nội sinh cho rằng yếu tố E được tạo nên bởi tổng hợp tất cả các yếu tố ngoài
yếu tố vật chất là vốn và lao động tạo nên gọi là yếu tố năng suất lao động tổng hợp (TFP). Các yếu tố
khác phi vật chất như tiến bộ công nghệ, cơ chế sử dụng cơng nghệ, chính sách của Chính phủ có liên
quan đến khuyến khích nghiên cứu và triển khai, tác động nên vốn nhân lực và nó chính là yêu tố làm
nâng cao hiệu quả lao động
* Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng
a. Vai trị của vốn nhân lực theo Mơ hình AK
Xét hàm sản xuất rất đơn giản:
Y  AK
trong đó, Y là sản lượng, K là lượng vốn sản xuất và A là một hằng số đo sản lượng được sản
xuất ra trên mỗi đơn vị vốn. Hàm sản xuất này không thể hiện năng suất cận biên của vốn giảm dần.
Thêm một đơn vị vốn sẽ tạo ra thêm A đơn vị sản lượng, bất kể có bao nhiều vốn đi chăng nữa. Việc
bỏ qua quy luật năng suất cận biên giảm dần là khác biệt căn bản giữa mô hình tăng trưởng nội sinh và
mơ hình Solow.
Giả định rằng có một tỷ lệ s trong thu nhập được tiết kiệm và đầu tư. Do đó, ta có phương
trình tích luỹ vốn, cho biết sự thay đổi lượng vốn bằng đầu tư trừ đi khấu hao:
K  sY  K

22

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Tốc độ tăng trưởng của sản lượng Y  AK bằng tổng tốc độ tăng trưởng của A và của K ,
Y

g 
 g A  gK
nghĩa là:
Y
Nếu khơng có tiến bộ cơng nghệ, g A  0 , thì từ 2 phương trình trên, ta có tốc độ tăng trưởng
sản lượng chính là tốc độ tăng trưởng của vốn:
Y
K

 sA  
Y
K
Như vậy, nếu sA   , thì thu nhập của nền kinh tế sẽ tăng trưởng vĩnh viễn, cho dù có tiến bộ
cơng nghệ hay khơng. Chính tỷ lệ đầu tư (tiết kiệm) sẽ quyết định tăng trưởng.
Như vậy, một thay đổi nhỏ trong hàm sản xuất có thể dẫn tới kết luận hồn tồn trái ngược.
Trong mơ hình Solow, tiết kiệm dẫn đến tăng trưởng nhất thời, nhưng quy luật năng suất cận biên giảm
dần của vốn cuối cùng sẽ buộc nền kinh tế tiến tới một trạng thái ổn định, tại đó tăng trưởng chỉ phụ
thuộc vào tiến bộ cơng nghệ ngoại sinh. Ngược lại, trong mơ hình tăng trưởng nội sinh, tiết kiệm và
đầu tư có thể dẫn tới tăng trưởng vĩnh viễn.
Vấn đề là tại sao mơ hình này có thể loại bỏ giả định năng suất cận biên của vốn giảm dần. Câu
trả lời nằm ở bản chất của vốn sản xuất trong mơ hình. Nếu theo quan điểm truyền thống, K chỉ bao
gồm số máy móc, thiết bị… (gọi chung là vốn sản xuất vật chất) của nền kinh tế, thì đương nhiên K
tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng cần
hiểu rộng K hơn nữa, rằng K bao gồm cả kiến thức, kỹ năng… mà người lao động có được thơng qua
giáo dục, đào tạo (gọi chung là vốn con người). Rõ ràng là kiến thức, kỹ năng của người lao động là
một đầu vào quan trọng trong sản xuất của nền kinh tế, nhưng chẳng có lý do gì để buộc loại vốn này
tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần. Trên thực tế, những tiến bộ khoa học – công nghệ
trong mấy thế kỷ qua cho phép các nhà kinh tế đặt giả định rằng vốn con người có năng suất cận biên
tăng dần. Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm rằng kiến thức, kỹ năng của người lao động cũng là một
loại vốn, thì giả định năng suất cận biên của vốn không đổi trở nên hợp lý hơn trong mơ hình tăng

trưởng kinh tế dài hạn.
b. Mơ hình Lucas giản đơn – một mơ hình tăng trưởng hai khu vực
Giả sử một nền kinh tế có hai khu vực: khu vực sản xuất (gồm các doanh nghiệp) và khu vực
giáo dục (gồm các trường đại học). Các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ, được sử dụng
trong tiêu dùng và đầu tư vào vốn sản xuất vật chất. Còn các trường đại học sản xuất ra một nhân tố
sản xuất gọi là “kiến thức”, được sử dụng tự do trong cả hai khu vực. Nền kinh tế được mô tả bằng
hàm sản xuất của doanh nghiệp, hàm sản xuất của các trường đại học, và phương trình tích luỹ vốn:
Sử dụng hàm sản xuất Coob – Douglas, Hàm sản xuất của doanh nghiệp của mơ hình nội sinh
được xây dựng có xét tới vai trò của vốn con người, và thể hiện:
Y  K  [(1  u ) EL ]1

Trong đó, u là tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực giáo dục và 1  u là tỷ lệ lao động làm
việc trong khu vực sản xuất. E là lượng kiến thức (quyết định hiệu quả lao động). Như vậy thu nhập
của khu vực sản xuất được hình thành bởi kết quả của tích luỹ vốn vật chất (K) và hiệu quả tích luỹ của
khu vực giáo dục thể hiện ở số lao động hiệu quả trong khu vực sản xuất (1  u) EL . Vốn vật chất
được tích luỹ theo quy luật vận động thơng thường, và phương trình tích luỹ được xác định:
23

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

K  sY  K
Trong đó, s là tỷ lệ tiết kiệm trong GDP, б là tỷ lệ khấu hao bình quân của vốn sản xuất
Hàm sản xuất của khu vực giáo dục (các trường đại học) có sự vận động khác hơn. Khơng
giống như vốn vật chất, vốn con người không phải là một phần của sản lượng được tích luỹ va chuyển
hố thành vốn sản xuất. Hơn thế nữa, việc tạo ra vốn con người mới đòi hỏi sử dụng vốn con người
hiện vó. Vốn con người được tạo ra thơng qua giáo dục và kiến thức hiện có là yếu tố chủ yếu trong
việc tạo ra giáo dục. Do vậy nếu chúng ta giả định vốn con người tương lai được sản xuất ra từ chính

vốn con người, thì sự gia tăng vốn nhân lực hay hàm sản xuất của khu vực các trường đại học được
mô tả:
E  g (u ) E .
Từ logic như trên, có thể tổng hợp các phương trình liên quan đến tăng trưởng kinh tế theo mơ
hình Lucas như sau:
Y  K  [(1  u ) EL ]1

hàm sản xuất của các doanh nghiệp

E  g (u ) E

hàm sản xuất của các trường đại học

K  sY  K

phương trình tích luỹ vốn

Mơ hình này có cùng bản chất như mơ hình AK, ở chỗ nền kinh tế này có năng suất cận biên
của vốn không đổi nếu vốn được hiểu rộng là bao gồm cả kiến thức. Vậy nên cũng như mơ hình AK,
mơ hình này kết luận rằng nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng liên tục cho dù khơng có cú sốc công nghệ
ngoại sinh nào xảy ra. Sự tăng trưởng liên tục ở đây là nhờ tốc độ tạo ra kiến thức ở các trường đại
học không hề suy giảm.
Có hai biến quyết định quan trọng trong mơ hình này. Như trong mơ hình Solow, tỷ lệ thu nhập
được sử dụng cho tiết kiệm và đầu tư ( s ) sẽ quyết định lượng vốn vật chất ở trạng thái ổn định. Bên
cạnh đó, tỷ lệ lao động trong các trường đại học ( u ) sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng của kiến thức.
Cả s và u đều tác động tới tốc độ tăng thu nhập của nền kinh tế ở trạng thái ổn định. Do đó, mơ hình
tăng trưởng nội sinh cho thấy các quyết định của xã hội sẽ dẫn tới sự thay đổi công nghệ như thế nào,
và do đó ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế ra sao. (Điều này hoàn tồn khác với mơ hình
Solow, khi chính phủ khơng thể kiểm sốt tốc độ tăng trưởng kinh tế vì khơng xác định được các nhân
tố ảnh hưởng tới tiến bộ cơng nghệ).

2.1.4.3. Hạn chế của các mơ hình tăng trưởng nội sinh
Về mặt thực tiễn, các nghiên cứu phân tích tăng trưởng cho thấy, mơ hình vốn nhân lực đã đánh
giá q cao vai trị của vốn con người, mơ hình này cho rằng các nước đang phát triển khó có khả năng
vươn tới hội tụ với các nước phát triển. Đầu tư cho giáo dục không đủ thúc đẩy tăng trưởng ở các nước
nghèo.
Một số đề xuất chính sách của mơ hình vốn nhân lực cịn tỏ ra mang nặng tính chủ quan. Có
thể xảy ra một nghịch lý là, trong dài hạn, tăng trưởng có thể bị giới hạn do thiếu lao động thô sơ, đồng
thời những người lao động có trình độ lại bị thất nghiệp.
Mơ hình tăng trưởng nội sinh vẫn phụ thuộc vào một số giả định Tân cổ điển truyền thống mà
không phù hợp với các nền kinh tế đang phát triển. Chẳng hạn, các mơ hình tăng trưởng nội sinh cịn
24

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G


CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN
bỏ qua những yếu tố như sự yếu kém về cấu trúc hạ tầng, cấu trúc thể chế, các thị trường vốn và thị
trường hàng hố khơng hồn hảo… ở các nước đang phát triển, mà đây cũng là những yếu tố kìm hãm
tăng trưởng GDP giống như mức tiết kiệm và tích luỹ vốn con người thấp.
2.2. Phân tích những thay đổi về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế theo
các mơ hình tăng trưởng kinh tế
2.2.1. Những thay đổi về nội dung
Adam Smith là người đầu tiên cho rằng cơ chế tiết kiệm và đầu tư – thơng qua giảm tiêu dùng
hoang phí và gia tăng đầu tư vào những hoạt động “hữu ích và hiệu quả” - là cần thiết để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, phải đến những phát triển sau này của trường phái Cổ điển Anh thì cơ chế
đó mới được sử dụng như là cột trụ trung tâm của lý thuyết tăng trưởng kinh tế.
Với D.Ricardo, lý thuyết tăng trưởng nhấn mạnh đến 3 nhân tố trực tiếp tác động đến tăng
trưởng kinh tế là vốn, lao động và ruộng đất:
Y = F(K, L, R)
Trong đó, K là được xác định bằng tổng tiền lương phải trả cho người lao động và phần tiền bỏ

ra để mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. R là số lượng ruộng đất trong nơng
nghiệp. Cịn L được xác định bằng số lượng lao động sẵn sàng làm việc đủ thời gian, với bất cứ mức
lương nào.
D.Ricardo cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, do đó ruộng đất chính là yếu
tố quyết định đến tăng trưởng, nhưng ơng lại khơng tính đến vai trị của yếu tố cơng nghệ, kỹ thuật.
Ơng đã khơng đánh giá đúng vai trò của yếu tố này nên đã dẫn đến một loạt các kết luận sai như đã
trình bầy ở phần trên. D.Ricardo còn đưa ra ý tưởng về “duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế - một mơ
hình hai khu vực kinh tế” chứ khơng nghĩ rằng việc phát triển các khu công nghiệp với số lượng cơng
nhân ở đó là tất yếu của quy luật cung cầu (khơng phải để nhằm mục đích thu hút lao động dư thừa từ
khu vực nông nghiệp).
Thặng dư từ sản xuất công nghiệp thu được đều đổ dồn về cho nhà tư bản - những người có
khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư cao. Cơ chế này đảm bảo duy trì tỷ lệ tích luỹ tư bản cao và tăng
trưởng bền vững. Mặc dù vậy, Ricardo đã xác định một lực lượng cản trở q trình tăng trưởng này, đó
là quy luật lợi tức giảm dần của đất đai, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhà tư bản khơng cịn
động cơ đầu tư và tăng trưởng kinh tế dừng lại ở đó.
Có thể nói, các lý thuyết tăng trưởng kinh tế truyền thống đã đề cao vai trò của vốn, coi đó là
yếu tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng, trong đó tốc độ tích luỹ vốn lại phụ thuộc vào tỷ lệ tiết
kiệm của nền kinh tế. Tuy nhiên, phải đến mơ hình Harrod - Domar của trường phái Keynes thì mối
quan hệ tiết kiệm, tích lũy và tăng trưởng kinh tế mới được lượng hoá.
Với Harrod-Domar cũng là hàm sản xuất Y = F(K, L, R) nhưng R là tài nguyên chứ không chỉ
đơn thuần là ruộng đất như D.Ricardo nhận định. Khác với D.Ricardo, Harod-Domar đã cố định yếu tố
công nghệ kỹ thuật, tức là đã có sự quan tâm tới yếu tố này nhưng chỉ cho rằng nó tăng với một tốc độ
cố định, Harod-Domar coi trọng yếu tố vốn trong mơ hình bằng việc phân tích hệ số ICOR, hệ số
ICOR nói lên vốn được tạo nên bằng đầu tư là yếu tố cơ bản tạo nên mức tăng trưởng, hệ số này cũng
phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất, năng lực của vốn đầu tư. Hay nói cách khác, Harod-Domar coi
sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản cho sự

25

Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G



×