Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực ti n thực hiện tại công ty cổ phần sản xuất bao bì khánh an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.29 KB, 56 trang )

TÓM LƯỢC
Trong những năm gần đây Việt Nam đang không ngừng phát triển và hội nhập với
thế giới, việc thông thương hàng hóa qua hình thức xuất nhập khẩu không còn xa lạ, đã
được
ứng dụng nhiều trong môi trường kinh tế. Chính vì vậy mà việc tìm hiểu về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là điều cần thiết, bởi lẽ hợp đồng là căn cứ pháp lý mạnh
mẽ nhất để giải quyết các tranh chấp trong thương mại đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc
tế. Không chỉ thế, việc đi sâu tìm hiểu về các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế cùng thực tiễn áp dụng tại một đơn vị cụ thể cũng để chỉ ra
những điều khoản còn chưa phù hợp với thực tế thương mại và thông lệ quốc tế. Từ
những bất cập, mâu thuẫn và chưa phù hợp này bài khóa luận đưa ra những đề xuất nhằm
sửa đổi, bổ sung những quy định sao cho ngày một hoàn thiện hơn. Vì những lý do cấp
thiết trên, đề tài: “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn
thực hiện tại Công ty cổ phần Sản xuất bao bì Khánh An” rất cần được nghiên cứu và tìm
hiểu.
Trước hết, bài khóa luận này tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản như: Khái
niệm liên quan đến pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cơ sở ban hành, nội
dung, nguyên tắc của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Đồng thời, bài khóa luận cũng tìm hiểu về các hệ thống pháp luật của Việt Nam,
pháp luật quốc tế về loại hợp đồng này như các điều ước quốc tế, tập quán thương mại
quốc tế…
Tiếp đó, khóa luận phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế tại Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì
Khánh An và đưa ra quan điểm hoàn thiện, các giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật từ phía nhà nước và từ phía doanh nghiệp.
Mong rằng nội dung của bài khóa luận sẽ mang lại một cái nhìn khái quát hơn về
pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn mà các thương nhân Việt Nam
đang trải qua khi áp dụng pháp luật và sử dụng loại hợp đồng này, nhất là trong giai đoạn
hiện nay khi hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của bất kỳ
nền kinh tế nào.


1


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa kinh tế - luật trường Đại học thương mại và sự đồng ý
của cô giáo hướng dẫn ThS. Phùng Bích Ngọc em đã thực hiện đề tài “Pháp luật về thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần sản
xuất bao bì Khánh An”
Hoàn thành bài khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo trường
Đại học Thương mại, những người đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt cho em những kiến
thức bổ ích. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Phùng Bích Ngọc – người
đã tận tình quan tâm và hướng dẫn em trong quá trình thực tập.
Em cũng xin được cảm ơn sự giúp đỡ của ban lãnh đạo, các anh chị cán bộ công
nhân viên tại Công ty Cổ phần sản xuất bao bì Khánh An, những người đã nhiệt tình chỉ
bảo em trong thời gian thực tập tại công ty và tận tình cung cấp những thông tin quý báu
để em hoàn thành được bài luận này.
Trong quá trình làm bài khóa luận, do kinh nghiệm thực tế còn hạn hẹp cũng như
thời gian thực tập có hạn nên bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ phía cô giáo hướng dẫn cùng các quý thầy, cô để em hoàn
thiện bài viết và rút ra được những kinh nghiệm bổ ích.
Em xin chân thành cảm ơn!


2


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC...................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................................ii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT...........................................................................v

CHƯƠNG MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.............................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..........................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu...................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................5
6. Kết cấu bài khóa luận tốt nghiệp....................................................................................6
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ...................................................................7
1.1. Một số khái niệm.........................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về hợp đồng mua bán hàng hóa...........................................7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế..............................9
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế...................................................................................................................................... 12
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.......................12
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.....................13
1.3: Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
......................................................................................................................................... 30
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN
XUẤT BAO BÌ KHÁNH AN.........................................................................................33
2.1 Tổng quan tình hình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và các nhân tố
ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng...........................................................................33
2.1.1: Tổng quan tình hình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.....................33
2.1.2 Tổng quan tình hình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại công ty cổ
phần sản xuất bao bì Khánh An........................................................................................34
3


2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế tại Việt Nam.........................................................................................................35
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật Việt Nam điều chỉnh thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế........................................................................................................36
2.3 Thực trạng thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Công ty cổ phần sản
xuất bao bì Khánh An.......................................................................................................41
2.4 Kết luận và đánh giá về thực trạng thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
......................................................................................................................................... 42
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ....................................................................................................................... 44
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế....................................................................................................................... 44
3.2 .Các giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế........................................................................................................45
3.3: Những vấn đề còn đặt ra điều chỉnh pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế....................................................................................................................... 47
KẾT LUẬN CHƯƠNG III............................................................................................49
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................50

4


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
CIF
CISG/Công
ước viên
EU
FOB
ICC

INCOTERMS
L/C
PICC
TNHH
TPP
UCP 500
UNCITRAL
UNIDROIT
VIAC
WTO
DDU
TCVN
ISO 9001

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Trả cước, bảo hiểm tới bến
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Liên minh châu Âu
Giao trên tàu
Phòng thương mại quốc tế
Các điều kiện cơ sở giao hàng trong mua bán hàng hóa quốc tế
Thư tín dụng
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế
Trách nhiệm hữu hạn
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (Bản sửa đổi lần thứ
500)
Ủy ban của Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế
Viện quốc tế về thống nhất luật tư
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam

Tổ chức Thương mại Thế giới
Giao chưa nộp thuế
Tiêu chuẩn Việt Nam
Tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức tiêu chuẩn hóa
quốc tế ban hành năm

5


CHƯƠNG MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi nước ta định hướng nền kinh tế là nền kinh tế cơ chế thị trường, khẳng
định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế Việt Nam đã
có những sự thay đổi đáng kể. Nền kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng khá
cao liên tục trong nhiều năm. Việt Nam liên tục không ngừng tham gia các tổ chức quốc
tế như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO)... Chính những nỗ lực không ngừng đó của nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế Việt
Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới, tạo cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Gần đây nhất, Việt Nam đã
tham gia vào Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) – một bước ngoặt
đối với hội nhập kinh tế khu vực và đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh việc thực hiện hội nhập khu
vực và quốc tế, Việt Nam đã thực hiện nhất quán chính sách đa phương hoá, đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế đối ngoại. Cho đến nay, Việt Nam đã có được một chỗ đứng nhất
định trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh đó, thị trường nước ta trở thành thị trường tiềm năng với nhiều quốc
gia khác. Các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt cơ hội cũng đã hội nhập bằng cách mở
rộng kinh doanh, tiến hành xuất khẩu hàng hóa đến nhiều quốc gia trên thế giới. Có thể
thấy, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường không chỉ tạo ra cơ hội mà còn
tiềm ẩn những thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước. Bởi nếu như

trước đây đối thủ cạnh tranh với sản phẩm trong nước chỉ là hàng hóa, dịch vụ nội địa thì
ngày nay các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đối mặt với nguồn hàng hóa, dịch vụ
mạnh cả về số lượng và chất lượng từ các doanh nghiệp nước ngoài khác. Vì vậy để tồn
tại và phát triển, mỗi doanh nghiệp trong nước phải mở rộng các mối quan hệ xã hội.
Trong đó các bên thiết lập với nhau những quan hệ, chuyển giao cho nhau các lợi ích vật
chất, hàng hóa… nhằm đáp ứng nhu cầu các bên và đi đến lợi ích tối ưu nhất. Việc thiết
lập quan hệ đó được thực hiện thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóalà điều thiết
yếu.
Từ lâu, hợp đồng mua bán hàng hóa đã trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu cho các
thương nhân, thể hiện hầu hết các quan hệ mua bán của các bên trong nhiều lĩnh vực. Với
nhu cầu phát triển ra quốc tế như hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế càng
đóng vai trò quan trọng hơn nữa. Khi mà các đối tác không còn bị bó hẹp trong phạm vi
một quốc gia mà đã mở rộng thành phạm vi quốc tế. Với đà phát triển hiện tại của nền
kinh tế nước ta, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ ngày một tăng mạnh. Tuy nhiên, hành
1


lang pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa và cụ thể là pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, không đáp ứng được tốc độ hội
nhập quốc tế.Tính từ năm 2016 đến nay trung tâm quốc tế Việt Nam (VIAC) đã giải
quyết hơn 300 vụ việc trong đó năm 2016 những vụ việc liên quan đến mua bán hàng hóa
nước ngoài chiếm hơn 34% trong tổng số vụ năm 2016, và chiến 28% trong tổng số vụ
2017 nhiều hơn so với những lĩnh vự khác 1 Trước tình hình thể chế kinh tế thị trường
Việt Nam chưa thực sự hoàn thiện thì việc hoàn thiện pháp luật chính là một trong những
mối quan tâm hàng đầu, trong đó pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa đang trở
thành một yêu cầu cấp thiết.
Đối với Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh An, hoạt động chủ yếu trong lĩnh
vực xuất khẩu bao bì sang các thị trường như: Nhật Bản, thái lan, hàn quốc, trung quốc…
thì việc áp dụng pháp luật trong mỗi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà công ty
thực hiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công ty. Dù đã đi vào hoạt động như

một công ty cổ phần từ năm 2005 và xuất khẩu sản phẩm sang nhiều quốc gia song việc
áp dụng pháp luật trongthực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của công ty vẫn
chưa thực sự hiệu quả.
Tóm lại, để hạn chế các tranh chấp liên quan đến mua bán hàng hóa quốc tế và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật trong mua bán hàng hóa quốc tế cần phải có các giải pháp
thiết thực nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Đề tài “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn
áthực hiện tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh An” là một vấn đề mang tính cấp
thiết
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Thời gian qua có nhiều bài báo, bài tham luận, luận văn, luận án, chuyên đề đề cập
đến pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Đó là những tác phẩm nghiên cứu nội
dung, bất cập của các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa hiện hành, thực
trạng và đề xuất các kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và các tác phẩm này là các nghiên
cứu về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Trong đó có những
nghiên cứu đã có những thành công nhất định, góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Một số tác
phẩm đề cập đến đề tài cần được quan tâm như:
Nguyễn Thị Tuyết Giang (2008), Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội: Luận văn tập
trung vào các vấn đề lý luận chung liên quan đến xác định pháp luật áp dụng trong hợp
1 Nguồn số liệu thống kê trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC ngày 13/3/2017

2


đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thực trạng pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và đưa ra một số giải pháp. Bài luận văn chỉ đi sâu vào việc xác
định pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chưa đề cập đến

các vấn đề thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và những bất cập còn tồn tại
của pháp luật điều chỉnh nội dung này.
Nguyễn Văn Quang (2014), So sánh chế định giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980, Luận văn thạc sĩ luật học
Đại học Quốc gia Hà Nội: Luận văn khái quát chung về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980, so sánh các nội dung
cụ thể của Công ước Viên 1980 với pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Bài luận văn đã đưa ra sự so sánh, đánh giá dựa
trên quá trình phân tích cụ thể từng nội dung trong các quy định của pháp luật Việt Nam
và Công ước Viên 1980. Song, luận văn của tác giả vẫn chưa đề cập đến vấn đề áp dụng
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong thực tiễn tại Việt Nam.
Ngoài các tác phẩm nêu trên, còn có nhiều bài luận văn, công trình nghiên cứu về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Như bài viết của tác giả Đỗ Minh Ánh “vấn đề về sửa đổi khái niệm mua bán hàng
hóa quốc tế trong luật thương mại để gia nhập công ước viên của liên hợp quốc về hợp
đồn mua bán hàng hóa quốc tế” hay một số báo trên các trang như : Phapluatphattrien.vn,
thongtinphapluatdansu.edu.vn
. Nhìn chung, các nghiên cứu liên quan đến đề tài này đều có mục tiêu tập trung vào
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sao cho phù hợp với nền
kinh tế thị trường trong nước cũng như quốc tế nhưng chỉ trên phương diện lý luận, thiếu
tính áp dụng trên thực tế. Bên cạnh đó một số công trình nghiên cứu còn chưa bắt kịp
được sự sửa đổi, bổ sung mới đây của pháp luật hiện hành. Cho nên, pháp luật về thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần được quan tâm, nghiên cứu sâu hơn nữa về
cả lý luận và thực tiễn áp dụng
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Có thể thấy, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và tình hình đầy biến động
của nền kinh tế nước nhà, việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là một nhu cầu tất yếu. Đây cũng là giải pháp góp phần bảo vệ quyền lợi cho
các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; giảm thiểu các vi phạm

hợp đồng xảy ra; dễ dàng hơn trong xác định trách nhiệm pháp lý
Ngoài ra, sau quá trình tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan trên cơ sở phân
tích, đánh giá cũng như nhận thức được rõ mức độ cấp thiết của đề tài, có thể thấy rằng
3


đề tài nghiên cứu được đưa ra tuy không hoàn toàn mới mẻ nhưng rất cần được quan tâm
nghiên cứu một cách đúng đắn và sâu sắc. Vì các công trình nghiên cứu trước đây giải
quyết các vấn đề chung của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chưa đi
sâu vào pháp luật thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Bằng việc tham khảo
các tài liệu, công trình nghiên cứu trình nghiên cứu đi trước khác và quá trình tìm hiểu,
thực tập tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh An cùng với sự hướng dẫn tận tình
của giảng viên ThS. Phùng Bích Ngọc. Đề tài nghiên cứu này tập trung vào các quy định
pháp luật trong nước về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nghiên cứu thực
trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đưa ra thực tiễn áp dụng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh
An, làm rõ những bất cập của pháp luật hiện hành và nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Do hạn chế về thời gian và năng lực nghiên cứu nên bài
khóa luận chỉ tập trung vào nghiên cứu các đối tượng gồm: Những quy định của pháp
luật thế giới về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cụ thể là trong Công ước
viên năm 1980 hay một số các văn bản khác như Inconterm 2010, và bộ nguyên tắc
unidroit về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 2004. Đồng thời nghiên cứu những
quy định về vấn đề này trong các văn bản pháp lý của Việt Nam để từ đó so sánh, rút
những tích cực và hạn chế trong pháp luật nhằm xây dụng hệ thống pháp luật ngày càng
hoàn thiện.
Từ những quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
trong thực hiện hợp đồng, phân tích đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng

mua bán hàng hóa quốc tế tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh An nhằm hoàn
thiện, đưa ra giải pháp để công ty có thể áp dụng pháp luật một cách tốt hơn.
Về mục tiêu nghiên cứu: Bài khóa luận được thực hiện với các mục tiêu như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Các
khái niệm, đặc điểm liên quan đến pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế; cơ sở ban hành và nội dung của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế; các nguyên tắc về pháp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong nước;
từ đó có sự nhìn nhận, đánh giá, so sánh khách quan giữa pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa ở các điều ước quốc tế trên thế giới và Việt Nam.

4


- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại
Công ty cổ phần sản xuất Bao bì Khánh An thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế.
- Đề xuất định hướng, quan điểm, kiến nghị khắc phục những bất cập trong thực
trạng pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của một khóa luận tốt nghiệp, bài
viết tập trung nghiên cứu pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
các vấn đề liên quan (bao gồm các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật mua
bán hàng hóa quốc tế tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh An trong thực hiện hợp
đồng; một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế).
- Không gian nghiên cứu: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ghi nhận trong
pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và các điều ước quốc tế… Tuy nhiên để thuận lợi

hơn cho việc nghiên cứu, bài khóa luận chủ yếu nghiên cứu pháp luật Việt Nam và so
sánh với các quy định tại điều ước quốc tế, thực trạng thi hành tại Công ty cổ phần sản
xuất bao bì Khánh An và các doanh nghiệp có liên quan đến thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế mà công ty tham gia…
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2018
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp thu thập thông tin: Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, bài khóa
luận được thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp thông qua các thông tin, số liệu thống kê đã
được công bố từ các bài báo, tạp chí, tài liệu pháp luật và các trang web có tin cậy liên
quan đến vấn đề thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật về thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đây là nguồn thông tin dễ tìm, chi phí thấp, không
cần tốn nhiều thời gian mà có thể áp dụng ngay cho một số mục đích cụ thể. Từ các dữ
liệu thứ cấp thu thập được, đề tài nghiên cứu có sự đánh giá tính cụ thể, tính thời sự và
tính chính xác của thông tin để sử dụng một cách hợp lý cho các mục tiêu nghiên cứu.
Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn sử dụng một số dữ liệu sơ cấp thu thập được qua
quan sát, điều tra.
Các phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng các dữ liệu đã thu thập được, bài khóa
luận đã vận dụng các phương pháp sau để nghiên cứu khái quát các nội dung đề ra về lý
luận và thực tiễn:

5


- Phương pháp biện chứng: Xem xét pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế trong mối liên hệ của nó với các hệ thống pháp luật khác có liên quan, nghiên
cứu sự thay đổi không ngừng của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo
những lần sửa đổi, bổ sung.
- Phương pháp liệt kê so sánh, đối chiếu: Không chỉ nghiên cứu pháp luật về thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Việt Nam, bài khóa luận còn đối chiếu và so
sánh các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các văn bản luật

trong nước, so sánh với chính nó thời gian trước lần sửa đổi bổ sung gần đây nhất và với
các điều khoản, thỏa thuận trong các điều ước quốc tế, công ước… của pháp luật hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế trên thế giới.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế hiện nay và thực tế áp dụng tại Công ty cổ phầnsản xuất bao bì
Khánh An. Đồng thời, qua những phân tích, đánh giá và những kết luận thu được từ việc
sử dụng các phương pháp trên cùng với những kiến thức đã học được đề ra những định
hướng, kiến nghị đề góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
6. Kết cấu bài khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; kết cấu bài khóa luận
gồm có ba chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn
áp dụng tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì Khánh An
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

6


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng
Hàng hóa là sản phẩm của lao động , thông qua việc trao đổi hàng hóa để đáp ứng
nhu cầu của con người. Việc trao đổi hàng hóa là yếu tố thiết yếu trong nền kinh tế. Từ
rất lâu trước đây con người đã biết trao đổi hàng hóa thông qua quá trình phát triển của
kinh tế, việc trao đổi dần chuyển hóa thành mua bán thông qua thước đo là tiền tệ và hình

thành các quan hệ pháp luật về mua bán hàng hóa. Trong quan hệ pháp luật về mua bán
hàng hóa thì hợp đồng là căn cứ pháp lý để minh chứng cho sự hình thành và chấm dứt
quyền của mỗi bên trong quan hệ mua bán hàng hóa, từ đó có thể thấy vai trò quan trọng
của hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy từ sớm hợp đồng này đã được định nghĩa trong
pháp luật Việt Nam.
Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn
đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền hay
nghĩa vụ của các bên. Theo Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự
một cách khái quát như sau: "Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên
bán.." (Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015).
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng cụ thể của hợp đồng mua bán tài
sản, mặt khác hợp đồng mua bán hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động mua bán
hàng hóa. Với "mua bán hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền; người mua có
nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên" (Khoản 8 điều
3 Luật Thương mại 2005).
Qua 2 khái niện trên ta thấy đã có sự đồng nhất giữa Bộ luật dân sự và luật thương
mại về định nghĩa hợp đồng mua bán hàng hóa từ đó ta có thể định nghĩa chung hợp
đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là: “Sự thỏa thuận giữa các bên , theo đó bên
bán chuyển quyền sở hữu hàng hóa (tài sản) cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán” từ khi hợp đồng được ký kết có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quan hệ.
1.1.1.2 : Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Từ khái niệm ta có thể nhận định rằng hợp đồng mua bán hàng hóa là một phần của
hợp đồng mua bán tài sản . Vì thế có thể thấy các đặc điểm của hợp đồngmua bán hàng

7



hóa trong mối liên hệ với hợp đồng mua bán tài sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa
cái riêng và cái chung.
– Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa:
+ Là hợp đồng ưng thuận – tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa
thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc
vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của
bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
+ Có tính đền bù – bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ
nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới dạng
khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ – mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng
buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia
thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ
chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải
bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bá
+ Về chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu
là thương nhân. Luật Thương mại 2005 quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân
cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo khoản 3 Điều 1 Luật
Thương mại 2005, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm
mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo luật Thương mại
2005 khi chủ thể này lựa chọn áp dụng luật Thương mại 2005
+ Về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện dưới hình thức lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường
hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản,
ví dụ như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện dưới hình thức văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, telex, fax hay
thông điệp dữ liệu.
+ Về đối tượng: hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo LTM

Việt Nam 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang
tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động
sản được phép lưu thông thương mại.

8


+ Về Nội dung của hợp đồng chứa đựng những nội dung cơ bản của một hợp đồng
mua bán hàng hóa là: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh
toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải thêm những điều kiện
để đảm bảo quyền lợi cho các bên nếu có tranh chấp xảy ra như nơi giải quyết tranh chấp,
phương thức giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có đặc điểm là các bên đều
nhằm đến mục tiêu lợi nhuận nên đòi hỏi nội dung của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng,
tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy các bên cần chú ý thận trọng soạn thảo
nội dung của hợp đồng. Chẳng hạn đối với điều khoản tên hàng, cần kèm theo có mã số
và mẫu hàng, đối với điều khoản về số lượng và trọng lượng cần chọn những đơn vị đo
lường thống nhất, trường hợp không có đơn vị đo lường thống nhất thì cần có điều khoản
giải thích, đối với điều khoản về thanh toán cần quy định rõ ràng đồng tiền thanh toán và
phương thức thanh toán...
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.2.1: Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật quốc tế và pháp luật
các nước có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này song đều thống nhất
chung một quan điểm rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán
hàng hóa có tính quốc tế. Một số công ước quốc tế đã định nghĩa về hợp đồng mua bán
hàng hóa có tính quốc tế như sau:
Điều 1 Công ước La Hay năm 1964 (Công ước về Luật thống nhất về thiết lập hợp
đồng mua bán quốc tế các động sản hữu hình) quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau và hàng hóa trong hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới, hoặc

việc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau”.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế cũng gián tiếp định nghĩa về loại hợp đồng này khi quy định “Công ước này áp dụng
đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương
mại tại các quốc gia khác nhau”.
Khác với Công ước La Hay năm 1964, các yếu tố như địa điểm ký kết hợp đồng,
việc dịch chuyển qua biên giới đối với đối tượng của hợp đồng không được Công ước
Viên năm 1980 đề cập tới. Công ước Viên năm 1980 cho thấy tính chất quốc tế trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ được xác định bởi yếu tố duy nhất là các bên giao kết
hợp đồng có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống
nhất về ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có tính quốc tế mà thông qua

9


đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó
với nhau.
Tuy nhiên ngoài các công ước quốc tế, hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng tồn
tại những quan điểm khác nhau về tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế. Theo pháp luật Pháp, việc xác định tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa
được căn cứ vào tiêu chí kinh tế hoặc pháp lý. Về tiêu chí kinh tế, một hợp đồng được coi
là hợp đồng quốc tế khi nó tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi
tương ứng giữa hai nước. Về tiêu chí pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế
nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú
của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán. 2 Còn ở Việt Nam,
việc đưa ra một khái niệm cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vẫn chưa được
quan tâm thích đáng; căn cứ theo Luật thương mại năm 2005 thì mua bán hàng hoá quốc
tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất,
tái nhập và chuyển khẩu. Nghĩa là, theo quy định của Luật thương mại năm 2005, hoạt

động mua bán hàng hoá được coi là mua bán hàng hoá quốc tế không phụ thuộc vào nơi
cư trú, trụ sở hay quốc tịch của các bên là Việt Nam hay nước ngoài. Luật thương mại
năm 2005 tại điều 27 lấy tiêu chí vận chuyển hàng hoá qua biên giới để xác định quan hệ
mua bán hàng hoá là mua bán hàng hoá quốc tế.
Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm chủ thể, đối tượng, nơi giao kết hợp đồng mà phân
ra thành Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế. Trong Luật Thương mại Việt Nam 2005 không có quy định cụ thể về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, nhưng căn cứ theo Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015:
“Về chủ thể, hợp đồng được giao kết bởi các bên không cùng quốc tịch (Giữa một
bên có quốc tịch Việt Nam và một bên có quốc tịch khác).
- Về đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn tại ngoài lãnh thổ Việt
Nam.
- Về nơi giao kết hợp đồng, hợp đồng được giao kết tại nước ngoài, có thể là tại
nước của bên giao kết mang quốc tịch khác Việt Nam, hoặc tại nước thứ ba.”
Dựa vào những yếu tố trên, có thể thấy, với Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
còn được định nghĩa dựa theo đặc điểm của loại hợp đồng này
Tóm lại, hiện nay trên thế giới và trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một
định nghĩa thống nhất giữa luật thương mại và Bộ luật dân sự để xác định cụ thể, trực
tiếp phạm vi nội hàm của khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Việc sử dụng

2 Bài viết : Hợp đồng Thương mại Quốc tế - Những nội dung doanh nghiệp cần quan tâm ngày 28/9/2009 trên
trang />
10


khái niệm này vẫn phải dựa trên căn cứ pháp lý là các nguồn luật khác nhau điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế.
1.1.2.2: Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng như Hợp đồng mua bán hàng trong nước
đều có nội dung, hình thức và đặc điểm tương đồng nhau như hợp đồng mua bán hàng

hóa nói chung. Ví dụ như về nội dung thì Hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung là các
điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
hợp đồng.
Tuy nhiên hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm riêng biệt so với
hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước thông thường.Những đặc điểm riêng biệt của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thể hiện ở tính thương mại và tính quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Thứ nhất: Tính thương mại trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Tính thương mại của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thể hiện ở những
đặc điểm như:
 Về chủ thể thì tính thương mại của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được
thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể là thương nhân. Theo Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại
năm 2005 “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Trong hợp
đồng thương mại, có thể có những hợp đồng đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân
như: hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại… hay có những
hợp đồng chỉ đòi hỏi có ít nhất một bên là thương nhân như: hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại…).
Ngoài ra, các tổ chức, các nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi họ có hoạt động liên quan đến thương mại.
 Về mục đích của hợp đồng thì mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận.
Xuất phát từ mục đích của hoạt động thương mại là nhằm sinh lợi nên khi các thương
nhân tham gia ký kết một hợp đồng thương mại suy cho cùng cũng đều vì lợi ích lợi
nhuận. Theo Khoản 3 Điều 1 Luật thương mại năm 2005, đối với những hợp đồng giữa
thương nhân với chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích sinh lợi,
việc có áp dụng Luật thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không là do
bên không có mục đích lợi nhuận quyết định
Thứ hai: Tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế.
 Về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên có trụ sở thương
mại đặt tại các nước khác nhau hoặc có quốc tịch khác nhau. Nếu một bê có hơn một trụ

sở thương mại thì sẽ tính đến trụ sở thương mại có tisng liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp
11


đồng. Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy bên cư trú thường xuyên của họ
(Điều 10 Công Ước Viên 1980). Có thể thấy tính quốc tế ở đây được thể hiện qua chủ thể
là ở chỗ các bên ký kết hợp đồng có khác quốc tịch . Hay nói cách khác là sự mua bán
hàng hóa có yếu tố nước ngoài đối với một trong hai bên chủ thể
 Về hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thường được chuyển qua biên giới của
một nước, tức là có thể được chuyển từ nước này sang nước khác. Thông thường hàng
hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ được dịch chuyển qua lại
qua biên giới của một hoặc nhiều quốc gia khác nhau. Song có những trường hợp hàng
hóa không cần hoặc không thể dịch chuyển qua biên giới vẫn là đối tượng của hợp đồng
này. Ví dụ: Hợp đồng mua bán được giao kết giữa một bên là công dân Việt Nam và một
bên là công dân Việt Nam định cư tại nước ngoài, hàng hóa mà các bên hướng đến đang
tồn tại ở Việt Nam. Khi đó, dù hàng hóa có được chuyển ra ngoài lãnh thổ Việt Nam hay
không thì hợp đồng đó vẫn được xem là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế do đã thỏa
mãn điều kiện chủ thể hợp đồng cư trú tại các quốc gia khác nhau
 Đồng tiền thanh toán giữa người bán và người mua thường là ngoại tệ đối với
một trong hai bên. Nếu đối với các hợp đồng
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng, mua bán
hàng hóa là một giao dịch chủ yếu. Ở quy mô trong nước, mua bán hàng hóa thực hiện
chức năng trao đổi hàng hóa trong xã hội; ở quy mô quốc tế, nó làm nhiệm vụ trao đổi
hàng hóa giữa các nước thông qua các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Việc mua bán hàng hóa giữa các thương nhân thuộc các nước khác nhau xuất phát
từ lợi thế so sánh giữa các nước. Mỗi nước có những lợi thế tương đối so với các nước
khác về một số lĩnh vực hàng hóa. Vì vậy, một nước sẽ xuất khẩu những mặt hàng này và

nhập khẩu những mặt hàng khác mà mình ít có lợi thế hơn.[ ] Tuy những loại hình giao
dịch kinh doanh quốc tế mới xuất hiện ngày càng nhiều như cung ứng dịch vụ quốc tế,
đầu tư quốc tế… song mua bán hàng hóa quốc tế vẫn có giá trị quan trọng hơn cả trong
các giao dịch kinh doanh quốc tế. Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là hoạt động mua
bán hàng hóa vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia, diễn ra tại các địa điểm trên nhiều
nước khác nhau, với những yếu tố khác biệt về địa lý, lịch sử, khí hậu, cũng như các yếu
tố kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật, tôn giáo… Chính vì mang tính phức tạp hơn hoạt
động mua bán hàng hóa trong nước và ẩn chứa nhiều rủi ro hơn nên hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế đòi hỏi cần có một hệ thống pháp luật điều chỉnh phù hợp cho các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
12


Ngoài ra, tính quốc tế trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng sẽ làm
phát sinh những vấn đề pháp lý đặc thù so với mua bán hàng hóa trong nước. Đó có thể là
vấn đề rủi ro đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ quốc gia này sang quốc gia
khác, rủi ro trong thanh toán, chuyển tiền quốc tế, hay hiện tượng xung đột pháp luật,…
dẫn đến tranh chấp. Giải quyết các vấn đề đó đòi hỏi một cơ sở pháp lý vững chắc, có
tính thống nhất cao.
Mặt khác, trước thực tiễn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
giao lưu mối quan hệ thương mại với các nước thì đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là việc
làm cần thiết. Vì thế, việc Nhà nước ta ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hợp
đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng có thể đưa hoạt động
mua bán hàng hóa đi đúng hướng; phần nào giúp các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng
hóa quốc tế được tự do thỏa thuận hợp đồng trong khuôn khổ pháp luật; thúc đẩy thương
mại quốc tế; đồng thời tạo điều kiện để Nhà nước dễ dàng quản lý hoạt động mua bán
hàng hóa của các chủ thể trong nền kinh tế.
Với những yêu cầu riêng biệt kể trên, việc ra đời của pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là vô cùng cần thiết, không những làm cơ sở pháp lý cho hoạt
động thương mại quốc tế diễn ra suôn sẻ hơn mà còn tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động

mua bán hàng hóa quốc tế, tăng cường quản lý Nhà nước về kinh tế và thúc đẩy phát triển
kinh tế đa phương tại nước ta.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Cũng giống như pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế gồm có các nội dung cơ bản như giao kết hợp đồng
và thực hiện hợp đồng. Tuy vậy, ở mỗi nội dung cụ thể pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế lại có những sự khác biệt nhất định được tạo nên bởi tính quốc tế của
nó. Từ thực tế hiện nay việt nam đã gia nhập công ước viên năm 1980 nên việc vận dụng
pháp luật quốc tế vào điều chỉnh hợp đồng chủ yếu vận dụng văn bản này và một số văn
bản khác như bộ nguyên tắc Unidrot và incoterm phiên bản 2010. Chính vì vậy khi phân
tích pháp luật quốc tế sẽ chỉ được giới hạn trong các quy định của công ước viên 1980
và một vài điều trong bộ nguyên tắc Unidroit
1.2.2.1 Nội dung pháp luật điều chỉnh thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế theo pháp theo Công ước Viên 1980
Theo pháp luật của Công Ước Viên thì pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế được quy định thành bảy nội dung cơ bản như: hàng hóa, giá cả , thanh
toán, giao nhận hàng hóa và chứng từ, bảo quản hàng hóa, kiểm tra hàng hóa và chuyển
giao rủi ro.
Thứ Nhất : Hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
13


Hàng hóa là đối tượng trong hợp đồng mua bán quốc tế, được Công Ước Viên 1980
định nghĩa là hàng hóa tại điều 2 của công ước này
Theo đó Điều 2 của Công Ước viên 1980 quy định : “Công ước này không áp dụng
vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán,
vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng, không biết
hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế.
b. Bán đấu giá.

c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.
f. Ðiện năng”.
Có thể thấy rằng Công Ước này đã định nghĩa hàng hóa theo phương pháp loại trừ
mà không liệt kê các loại hàng hóa. Đối với những hàng hóa không rơi vào trường hợp ở
điều 2 của công ước này thì được coi là hàng hóa trong hợp đồng. Kể cả các loại hàng
hóa như bất động sản, động sản, vật gắn liền với đất đều có thể được coi là hàng hóa theo
công ước này, mặc dù nó không phải là hàng hóa trong hợp đồng theo quy định pháp luật
của Việt Nam.
Ngoài ra để điều chỉnh về vấn đề hàng hóa trong hợp đồng Công ước viên còn quy
địnhvề hàng hóa không phù hợp với hợp đồng tại Điều 35 quy định
“1. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong
hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu.
Đây là nguyên tắc điều chỉnh về vấn đề hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Nguyên tắc này thể hiện ý chí tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng là điều tiên quyết.
Tuy nhiên trong trường hợp các bên chủ thể không quy định điều khoản về hàng
hóa trong hợp đồng thì theo Công ước viên 1980 khoản 2 điều 35 quy định: “Ngoại trừ
những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng hóa bị coi là không phù hợp
với hợp đồng nếu:
a. Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại
vẫn thường đáp ứng.
b. Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực tiếp
hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hoàn
cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của người bán hoặc
nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.

14



c. Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã
cung cấp cho người mua.
d. Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng cùng
loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo vệ
hàng hoá đó”
Theo điều này thì quy định về hàng hóa phù hợp với hợp đồng cũng được quy định
theo phương pháp loại trừ. Hàng hóa không rơi vào khoản 2 điều 35 thì sẽ được xem là
hàng hóa phù hợp với hợp đồng. Có thể nói với phương pháp loại trừ Công ước Viên
1980 đã tạo ra một khung pháp lý rộng hơn cho các chủ thể tham gia hợp đồng. Việc liệt
kê các loại hàng hóa không phù hợp với hợp đồng có thể sẽ dễ hơn cho các chủ thể khi
áp dụng điều khoản về hàng hóa trong hợp đồng. Tuy nhiên để xác định được hàng hóa
phù hợp hay không phù hợp thì các bên trong hợp đồng nên quy định về các phương
pháp xác định, theo như điều 2 thì việc xác định tính phù hợp hàng hóa bằng mặt hàng
cùng loại là không dễ dàng vì mỗi thị trường lại có một mục đích sử dụng khác nhau.
Việc hàng hóa không phù hợp với hợp đồng dẫn đến những hậu quả pháp lý như bên mua
hủy hợp đồng, bên mua từ chối thanh toán... Vì vậy các điều khoản về hàng hóa cần được
chú ý trong hợp đồng
Thứ Hai: Giá của hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Xác định giá là quyền và nghĩa vụ của bên bán, thông thường các quy định về cách
tính giá thường được quy định rất chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng bởi vì đây là một
điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Tuy nhiên trong một số trường hợp hợp đồng không quy định về các định giá thì
theo Công Ước viên hàng hóa có thể được tính bằng cách suy đoán theo hàng hóa tương
tự được bán trong điều kiện tương tự (Điều 55 Công Ước viên 1980). Tuy nhiên việc
xem xét hàng hóa tương tự trong điều kiện tương tự là rất khó, vì mỗi hàng hóa đều có
đặc điểm riêng.
Ngoài Công Ước Viên 1980 thì Bô nguyên tắc cũng quy định về vấn đề xác định
giá.Theo bộ nguyên tắc uni droit thì việc xác định giá cả được quy định như sau:
“ ĐIỀU 5.1.7: Xác định giá

“1. Khi hợp đồng không ấn định giá hoặc không đưa ra phương thức xác định giá,
các bên trong hợp đồng được coi như, trừ chỉ dẫn ngược lại, đã hướng tới mức giá thông
thường được áp dụng vào thời điểm giao kết hợp đồng tại cùng ngành hàng, cho cùng
công việc thực hiện trong hoàn cảnh tương tự, hoặc nếu không có mức giá này, thì hướng
tới mức giá hợp lý.

15


2. Khi mức giá do một bên ấn định rõ ràng là phi lý, thì một mức giá hợp lý sẽ thay
thế,dù cho hợp đồng có quy định ngược lại.
3. Khi bên thứ ba có trách nhiệm ấn định mức giá nhưng không thể hoặc không
muốn làm việc này, thì một mức giá hợp lý sẽ được xác định.
4. Khi mức giá được ấn định thông qua tham khảo một yếu tố, mà yếu tố này không
tồn tại, đã chấm dứt tồn tại hay không thể tham chiếu, thì một yếu tố tương đương gần
nhất sẽ thay thế”
Có thể thấy cả công ước viên và bộ nguyên tắc có những quy định tương đồng với
nhau về quy định về cách thức xác định giá cả trong trường hợp đối với loại hợp đồng
không quy định giá cả thì có thể dựa vào giá cả của các loại hàng hóa tương tự trong
nghành hàng hoặc bên thứ ba có trách nhiệm đưa ra định giá. Tuy nhiên trong trường
hợp bên thứ ba có quyền không muốn hoặc từ chối định giá hàng hóa thì vẫn có thể đưa
ra mức giá hợp lý khác, nhưng trong hai văn bản trên lại không đưa ra các quy định bổ
sung cho trường hợp nếu bên thứ ba từ chối định giá. Điểm này là điểm thiếu xót của
văn bản quốc tế cần bổ sung . Những quy định này góp phần xác định chính xác giá trị
của hàng hóa , giá trị hợp đồng nhằm dễ dàng trong việc thực hiện các công việc khác ví
dụ như tính chi phí bảo hiểm. Tuy nhiên trong mua bán hàng hóa quốc tế việc xã định giá
trị hàng hóa của một hợp đồng không hề dễ dang do còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố hay
các tập quán kinh tế mà hai bên chủ thể lựa chọn .
Tóm lại hiện nay theo pháp luật quốc tế việc xác định giá cả sẽ được xác định như
sau. Giá cả sẽ được xác định là giá theo hợp đồng, Trong trường hợp hợp đồng không

quy định thì sẽ có 3 cách xác đinh là: xác định theo khối lượng, theo giá cả hàng hóa
cùng nghành , theo người thứ 3 định giá.
Thứ Ba: Nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng trong hợp đồng thuộc về bên mua theo quy định
trong hợp đồng.Việc thanh toán không chỉ có tiền hàng mà còn bao gồm các loại luật lệ
và chi phí giúp bên mua thực hiện nghĩa vụ ( Điều 54 Công ước viên 1980). Theo đó
ngoài tiền hàng thì bên mua phải thanh toán các khoản chi phí như phí chuyển tiền , các
loại phí theo quy định ngân hàng phải mở L/C nếu các bên thỏa thuận dùng biện pháp
thanh toán này. Nếu hai bên không quy định thì nghĩa vụ thanh toán tuân theo quy định
của Công ƯớcViên 1980 về trách nhiệm thanh toán tiền hàng của người mua. Cụ thể các
quy định về thanh toán theo công ước viên được quy định theo hai nội dung: Địa điểm
thanh toán, Thời gian, ngoài ra bộ nguyên tắc Unidroit 2004 còn quy định về các công cụ
thanh toán
 Về thời gian thanh toán nếu trong hợp đồng không quy định thì theo điều 58
Công Uớc Viên 1980 quy định: “1. Nếu người mua không có nghĩa vụ phải trả tiền vào
16


một thời hạn cụ thể nào nhất định, thì họ phải trả khi, chiếu theo hợp đồng và Công ước
này, người bán đặt dưới quyền định đoạt của người mua, hoặc hàng hóa hoặc các chứng
từ nhận hàng. Người bán có thể đặt điều kiện phải thanh toán như vậy để đổi lại việc họ
giao hàng hoặc chứng từ.
2. Nếu hợp đồng quy định việc chuyên chở hàng hóa, người bán có thể gửi hàng đi
với điều kiện là hàng hay chứng từ nhận hàng chỉ được giao cho người mua khi người
mua thanh toán tiền hàng.
3. Người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng trước khi họ có thể kiểm
tra hàng hóa, trừ những trường hợp mà có thể thức giao hàng hay trả tiền do các bên
thỏa thuận không cho phép làm việc đó.”
Theo quy định của điều 58 này có thể thấy rằng công ước viên bảo vệ quyền lợi của
cả 2 bên chủ thể trong hợp đồng đặc biệt là người bán. Kể cả trong trường hợp không

quy định thời gian thanh toán thì người mua vẫn phải thanh toán cho người bán tại 2 thời
điểm đó là thời điểm sau khi nhận chứng từ hoặc sau khi nhận hàng . Đối với trường hợp
hợp đồng quy định việc chuyên chở hàng hóa thì thời gian thanh toán có thể là thời điểm
người bán giao hàng hoặc giao chứng từ, đối với điều kiện này sẽ phụ thuộc vào các điều
kiện vận chuyển mà 2 bên lựa chọn theo tập quán vận chuyển quy định thời gian giao
hàng và chứng từ
 Về địa điểm thanh toán, tất cả các nghĩa vụ thanh toán trên đều phải phù hợp với
hợp đồng mà hai bên đã giao kết. Tuy nhiên trong trường hợp hợp đồng không quy định
rõ địa điểm thanh toán thì người mua có quyền lựa chọn thanh toán :tại nơi có trụ sở
thương mại của người bán hoặc tại nơi giao hàng hoặc chứng từ nếu việc trả tiền phải
được làm cùng lúc với việc giao hàng hoặc chứng từ. Điều này được quy định tại điều 57
của công ước viên 1980. Quy định này nhằm giúp các bên hạn chế được tranh chấp trong
vi phạm nghĩa vụ về thanh toán, Chỉ cần hợp đồng lựa chọn công ước viên điều chỉnh
hoặc các bên là thành viên của công ước viên thì có thể áp dụng điều khoản trên.
Khi người bán thay đổi địa điểm thanh toán hoặc trụ sở thương mại sau khi ký hợp
đồng thì mọi chi phí phát sinh thêm do việc chuyển địa điểm do người bán chịu trách
nhiệm. Quy định này có thể cho thấy nghĩa vụ thanh toán của người mua là nghĩa vụ
thanh toán những chi phí đã cam kết theo hợp đồng và các chi phí để thực hiện nghĩa vụ
thanh toán.
 Ngoài các quy định về thời gian và địa điểm thanh toán theo Công Ước Viên
1980 thì theo Bộ nguyên tắc Unidroit 2004 quy định về công cụ thanh toán được quy
định từ điều 6.1.7 đến điều 6.1.10 chủ yếu quy định về các công cụ thanh toán “ĐIỀU
6.1.7 Thanh toán bằng séc hoặc bằng các công cụ khác
17


1) Việc thanh toán có thể được thực hiện bằng bất kỳ phương thức nào được sử
dụng theo các điều kiện thương mại thông thường tại địa điểm thanh toán.
2) Tuy nhiên, nếu bên có quyền chấp nhận séc, lệnh trả tiền khác hoặc cam kết trả
tiền theo quy định tại khoản trên hoặc một cách tự nguyện thì chỉ được coi là đã làm việc

đó khi công cụ thanh toán đó đã được thanh toán.”
Theo quy định về hình thức này thì bộ nguyên tắc này cho phép sử dụng séc hoặc
các công cụ khác như lệnh trả tiền hoặc cam kết trả nếu bên có quyền tức là bên được
nhận đồng ý hoặc chấp nhận công cụ thanh toán này, Tuy nhiên trong quy định không
chỉ rõ là người thanh toán sẽ hết nghĩa vụ khi nào bởi vì trên thực tế khi người có quyền
nhận séc từ tay người có nghĩa vụ thì thực tế là người đó chưa nhận được tiền
“ĐIỀU 6.1.8 Thanh toán bằng chuyển khoản
1) Trừ trường hợp bên có quyền chỉ định một tài khoản cụ thể, việc thanh toán có
thể được thực hiện bằng cách chuyển khoản vào bất kỳ tổ chức tài chính nào mà bên có
quyền cho biết là có tài khoản ở đó.
2) Trong trường hợp thanh toán bằng chuyển khoản, bên có nghĩa vụ được giải
phóng nghĩa vụ vào ngày việc chuyển khoản vào tổ chức tài chính của bên có quyền có
hiệu lực.”
Với hình thứ bằng chuyển khoản thì bộ nguyên tắc này lại cho phép nếu không có
chỉ định một tài khoản nào cụ thể thì người có nghĩa vụ có thể chuyển khoản vào một tổ
chức thứ ba mà cả 2 bên cùng biết thông thường hình thức này có thể côi là hình thức ủy
thác thanh toán . Tuy nhiên hình thức này chỉ áp dụng khi 2 bên đều đã quen thuộc và tổ
chức tài chính này là uy tín. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này bên mua và bên bán
đều có thể bị thiệt bở chính sách ngoại hối mà chính phủ nơi tổ chức này áp dụng.
Có thể nói rằng quy định của công ước viên và bộ nguyên tắc đang bổ sung cho
nhau ở công ước viên quy định về rõ thời hạn thanh toán và địa điểm thanh toán, theo đó
người mua phải thanh toán đúng theo quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp không
quy định thời gian thanh toán và địa điểm thanh toán thì bên mua có quyền thanh toán
vào các thời điểm sau khi nhận được hàng hóa và chứng từ hoặc sau khi kiểm tra hàng
hóa tại các địa điểm như trụ sở của người bán hoặc văn phòng đại diện. Đối quy định
trong bộ nguyên tắc thì quy định các trường hợp sử dụng công cụ thanh tóan có thể bằng
chuyển khoản , bằng séc, bằng tiền mặt, bằng các công cụ khác có giá trị thanh toán như
thư hoặc điện thanh toán. Nhìn chung theo quy định của hai văn bản trên có thể khá đầy
đủ, đáp ứng nhu cầu thanh toán linh động nhanh chóng cho các đối tác cách xa nhau về
khoảng các địa lý.

Thứ Tư: Giao nhận hàng hóa và chứng từ trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
18


Nghĩa vụ giao nhận hàng hóa trong hợp đồng là nghĩa vụ của các bên chủ thể. Theo
quy định của công ước viên 1980 trong giao nhận hàng hóa thì nội dung này được chia
theo nghĩa vụ và trách nhiệm của bên bán và bên mua.
 Đối với bên bán, giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán. Việc đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ giao hàng của bên bán nhằm bảo vẹ quyền lợi của bên mua.
Theo công ước viên 1980 quy định về nghĩa vụ giao hàng cụ thể như:
 Giao hàng đúng địa điểm và thời gian khi hai bên có thỏa thuận trong hợp đồng thì
người bán phải giao hàng tại địa điểm hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng . Trong
trường hợp hai bên không ấn định địa điểm giao hàng thì việc xác định địa điểm giao
hàng theo Công ước viên được xác định như sau: giao hàng cho người chuyên chở đầu
tiên nếu hợp đồng có liên quan đến vận chuyển. Nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là
hàng đặc định hoặc là hàng đồng loại phải được trích ra từ một khối lượng dự trữ xác
định hoặc phải được chế tạo hay sản xuất ra và vào lúc ký kết hợp đồng, các bên đã biết
rằng hàng đã có hay đã phải được chế tạo hoặc sản xuất ra tại một nơi nào đó thì người
bán phải có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi đó. Trong các
trường hợp khác, người bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại
nơi nào mà người bán có trụ sở thương mại vào thời điểm ký kết hợp đồng ( theo điều 31
Công ước Viên 1980). Có thể thấy địa điểm giao hàng trong Công ước Viên luôn đúng
về lập trường của người mua. Trên thực tế trong hợp đồng địa điểm giao hàng cần được
xác định rõ và địa điểm này thường tuỳ thuộc vào điều kiện cơ sở. Ví dụ khi so sánh hai
điều kiện giao hàng CIF và DDU, trong hợp đồng mua bán theo điều kiện CIF trách
nhiệm giao hàng của bên bán được hoàn thành khi hàng hoá được giao lên tàu ở cảng đi.
Theo điều kiện DDU bên bán chịu mọi rủi ro cho đến tận khi hàng hoá tới cảng đến và
thanh toán toàn bộ cước phí tới tận điểm đích…
Ngoài ra theo điều 33 Công ước Viên quy định

“a)Ðúng vào ngày giao hàng mà hợp đồng đã quy định, hay có thể xác định được
bằng cách tham chiếu vào hợp đồng.
b) Vào bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian được hợp đồng ấn định hay có
thể xác định được khoảng thời gian giao hàng bằng cách tham chiếu vào hợp đồng, nếu
như không thể căn cứ vào các tình tiết để biết ngày giao hàng mà người mua ấn định là
ngày nào.
c) Trong trường hợp khác, trong một thời gian hợp lý sau khi hợp đồng được ký
kết.”
Theo điều này thì việc giao hàng đúng thời hạn làm bên bán có trách nhiệm hơn.
Ngoài ra trong Công ước Viên người bán có thể giao hàng trước thời hạn( theo khoản 2
điều 52), khi bên mua đồng ý cho bên bán giao hàng trước thời hạn thì bên mua phải
19


thanh toán đúng theo hợ đồng và có quyền giao hàng thay thế hoặc sửa chữa những hàng
hóa không theo đúng yêu của hợp đông( điều 37)
 Chuyển giao chứng từ đúng thời gian địa điểm
Chứng từ là một phần không thể thiếu của hàng hóa , chứng từ giúp hàng hóa trở
nên hợp pháp . Tuy nhiên việc chuyển giao chứng từ và hàng hóa lại là 2 hành vi hoàn
toàn độc lập với nhau. Tương tự như việc giao hàng giao chứng từ cần đúng địa điểm và
thời hạn. Hơn nữa theo quy định tại điều 34 Công ước Viên 1980 người bán giao chứng
từ trước kỳ hạn, thì họ có thể trước khi hết thời hạn quy định sẽ giao chứng từ, loại bỏ bất
kỳ điểm nào không phù hợp với chứng từ với điều kiện là việc làm này không gây cho
người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào.
 Song song với nghĩa vụ của bên bán là nghĩa vụ cua bên mua. Có thể nói nhận
hàng vừa là quyền vừa nghĩa vụ của bên mua hàng. Theo Công ước viên 1980 tại “điều
60
a)Thực hiện mọi hành vi mà người ta có quyền chờ đợi ở họ một cách hợp lý để cho
phép người bán thực hiện việc giao hàng và.
b)Tiếp nhận hàng hóa.”

Theo điều này thì bên mua có nghĩa vụ tạo mọi điều kiện cho bên bán thực hiện
nghĩa vụ giao hàng ví dụ như chuẩn bị phương tiện và thủ tục cần thiết để tiếp nhận
hàng. Trong trường hợp bên mua từ chối nghĩa vụ nhận hàng thì sẽ bị phạt theo chế tài
của hợp đồng hoặc theo điều 62 của Công ước viên 1980. Tuy nhiên bên bán có thể
được miễn trừ tránh nhiệm trong những trường hợp như hàng hóa không phù hợp với hợp
đồng mà người mua đã thông báo cho người bán về điều đó trong thời hạn hợp lý theo
khoản 1 điều 36 của công ước này
Thứ Năm: Bảo quản hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo công ước viên năm 1980 quy định về bảo quản hàng hóa sẽ thuộc trách nhiệm
của người bán hoặc người mua trong các trường hợp:
 Khi người mua chậm trễ nhận hàng hay không trả tiền, hoặc trong những trường
hợp khi việc trả tiền và việc giao hàng phải được tiến hành cùng một lúc, nếu hàng hóa
còn ở dưới quyền định đoạt hay kiểm soát của người bán thì người bán phải thực hiện
những biện pháp hợp lý trong những tình huống như vậy để bảo quản hàng hóa. Việc bảo
quản trong trường hợp này thuộc về trách nhiệm của người bán và những chi phí hợp lý
của việc bảo quản sẽ do người mua chịu theo điều 85 Công ước Viên.
Trong trường hợp này nếu việc bảo quản hàng hóa làm phát sinh chi phí bất hợp lý
hơn so với việc bán hặc phát mại hàng óa đó thì người có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa cụ
thể là người mua có thể bán các loại hàng hóa đó với điều kiện phải thông báo chó bên
mua biết và chi phí thu được từ việc bán hàng đó sẽ dùng vào việc bù đắp cho bên bán
20


×